Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.04 KB, 88 trang )


1
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN



VIỆN TRIẾT HỌC





TRIỆU QUANG MINH




SỰ THỐNG NHẤT GIỮA GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
GIẢI PHÓNG GIAI CẤP VÀ GIẢI PHÓNG CON
NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












Hà Nội - 2006




3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
2
CHƢƠNG 1: CÁC TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC, GIẢI PHÓNG GIAI CẤP VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƢỜI
8
1.1. Truyền thống dân tộc, tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
8
1.1.1. Truyền thống yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân dân Việt Nam
8
1.1.2 Tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cuối thế kỷ XIX

đầu thế kỷ XX
12
1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin - cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
23
CHƢƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, GIẢI PHÓNG GIAI
CẤP VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƢỜI TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC HIỆN NAY
35
2.1 Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
35
2.1.1. Đặt vấn đề dân tộc giải phóng trên lập trường của giai cấp công nhân
35
2.1.2. Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa
41
2.1.3. Độc lập cho dân tộc Việt Nam và cho tất cả các dân tộc bị áp bức
47
2.1.4. Giải phóng dân tộc gắn với mục tiêu phát triển toàn diện con người
52
2.2. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong sự nghiệp đổi
mới đất nước hiện nay
59
KẾT LUẬN
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
79





4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, mặc dù hầu hết các quốc gia trên thế giới đã giành đƣợc
độc lập, nhƣng trên thực tế cuộc đấu tranh vì một nền độc lập theo đúng
nghĩa vẫn chƣa kết thúc. Các nƣớc đang phát triển và chậm phát triển đang
phải nỗ lực để thoát khỏi sự lệ thuộc về nhiều mặt vào các nƣớc tƣ bản phát
triển. Vấn đề chủ quyền dân tộc vẫn là vấn đề nóng bỏng gây nhiều tranh
cãi và thƣờng bị lợi dụng, xuyên tạc dƣới những hình thức khác nhau. Điều
này góp phần cho thấy vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con ngƣời tiếp tục có ảnh hƣởng lớn đến sự nghiệp cách mạng của mỗi
nƣớc. Sai lầm trong việc giải quyết mối quan hệ ba giải phóng này chính là
một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại và tổn thất cho cách mạng.
Riêng ở Việt Nam, trong lịch sử có những giai đoạn cách mạng nhờ
giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con ngƣời mà chúng ta đã đạt đƣợc thắng lợi. Đó là chiến
thắng của cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Ngƣời đặt nền móng cho những thắng lợi đó là Hồ Chí
Minh với tƣ tƣởng đặt cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con ngƣời trong một thể thống nhất.
Sau kháng chiến, Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập và bƣớc
vào công cuộc kiến thiết đất nƣớc. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nƣớc do Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo đã đi đƣợc chặng đƣờng hơn
hai mƣơi năm và đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng. Bộ mặt đất nƣớc
đang thay đổi từng ngày với tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, tác động
tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng và xu hƣớng toàn cầu hoá

đang tạo ra một rào cản vô hình đối với sự phát triển chung của đất nƣớc.
Biểu hiện rõ nét là tình trạng suy thoái đạo đức, mất lập trƣờng, lối sống vị

5
kỷ, chạy theo lợi ích vật chất Trong khi đó, các thế lực thù địch luôn lợi
dụng sự phân hoá giàu nghèo, sự dịch chuyển cơ cấu giai cấp - xã hội, sự
khác biệt về thành phần xuất thân, tôn giáo để kích động và gây chia rẽ
trong nội bộ nhân dân ta, nhằm phá vỡ nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa. Thực
trạng này đòi hỏi Đảng và Nhà nƣớc phải xử lý thật hài hoà mối quan hệ
giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích cá nhân để một mặt có thể
củng cố và phát huy đƣợc sức mạnh đại đoàn kết, mặt khác khơi dậy và tận
dụng đƣợc sức mạnh tiềm năng của mỗi giai cấp, cá nhân. Bên cạnh đó,
trong quá trình nghiên cứu, vận dụng và hiện thực hoá tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh, có nhiều cá nhân, tổ chức do không nắm vững bản chất, nội dung tƣ
tƣởng của Ngƣời đã tuyệt đối hoá quan điểm dân tộc của Hồ Chí Minh
thành chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Họ còn cho rằng, trong kháng chiến Hồ
Chí Minh bỏ quên vấn đề giai cấp, giờ đây phải trở lại giải quyết vấn đề
giai cấp một cách triệt để.
Tất cả những lý do trên đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ phải trở lại
nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con ngƣời. Từ đó, thêm một lần nữa khẳng định ý
nghĩa của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề này và tìm ra những chỉ dẫn thích
hợp với giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Sự thống
nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời
trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học của mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh soi đƣờng và mang lại thắng lợi cho cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Trong những năm qua đề tài tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu, các học giả trong và ngoài
nƣớc quan tâm. Có thể liệt kê một số tác phẩm nhƣ: Hồ Chí Minh và con

người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh của Phạm Văn Đồng
[16]. Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của Võ

6
Nguyên Giáp [20]. Giải phóng dân tộc và đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh của Bùi Đình Phong [63]. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
Nguyễn Đức Đạt [13]. Hồ Chí Minh với cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945- 1954 của Nguyễn Minh Đức [17]…Các tác phẩm này đều
khẳng định giá trị trƣờng tồn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đề cập tới nhiều
nội dung, trong đó có nội dung giải phóng dân tộc, giai cấp, con ngƣời của
Bác. Chẳng hạn, Phạm Văn Đồng trong Hồ Chí Minh và con người Việt
Nam trên con đường dân giàu nước mạnh đánh giá một trong những cống
hiến quý báu vào kho tàng tƣ tƣởng cách mạng thời đại của Hồ Chí Minh là:
“Tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời”
16,133. Còn Võ Nguyên Giáp trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam cũng khẳng định “ Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Theo Ngƣời, đối với Việt Nam không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới
giải quyết vấn đề dân tộc nhƣ ở các nƣớc tƣ bản phát triển phƣơng Tây. Mà
ngƣợc lại, chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng đƣợc giai cấp, giải
phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho
giải phóng giai cấp” 20,91. Nguyễn Bá Linh trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho rằng, Hồ Chí Minh là một
trong những ngƣời cộng sản đầu tiên của dân tộc thuộc địa đã sớm nêu ra
luận điểm về sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp
vô sản, giải phóng cá nhân con ngƣời trong điều kiện một nƣớc nửa thuộc
địa, nửa phong kiến. Tác giả còn khẳng định, rằng Hồ Chí Minh đã kết hợp
hài hoà yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, đánh giá đúng và đầy đủ ảnh
hƣởng tích cực của yếu tố dân tộc trong suốt tiến trình của cách mạng Việt

Nam

7
Ngoài ra còn một số các bài viết chuyên khảo đã đăng tải trên các tạp
chí nhƣ: Những cống hiến lý luận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào
học thuyết Mácxít về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp của Lê
Ngọc, Tạp chí Thông tin lý luận, số 11/1993; Mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Nguyễn
Duy Quý, Tạp chí Triết học số 5/ 2004. Kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp
với vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Duy Sơn, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận số 10/1999. Vấn đề dân tộc và giai cấp, thống nhất và
đấu tranh trong con người và tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Sỹ Thắng, Tạp
chí Triết học, 2/1993 Các bài viết của các tác giả đều phân tích và chỉ ra
sự gắn bó hữu cơ giữa vấn đề dân tộc, giai cấp, con ngƣời trong tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh: Nguyễn Duy Quý trong bài viết nêu trên đi theo tiến trình từ
khi Bác ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, đến lúc Ngƣời đƣợc tiếp cận với Sơ thảo
lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, tới Chính
cương vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo… để khẳng định,
với Hồ Chí Minh, “cái giai cấp đƣợc biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc
đƣợc giải quyết trên lập trƣờng giai cấp công nhân” 65,14. Lê Sỹ Thắng
trong bài viết Vấn đề dân tộc và giai cấp, thống nhất và đấu tranh trong
con người và tư tưởng Hồ Chí Minh đã khái quát những luận giải của Hồ
Chí Minh về sự gắn bó hữu cơ giữa giải phóng dân tộc, giai cấp và con
ngƣời và cho rằng “ ở Hồ Chí Minh, lập trƣờng dân tộc và lập trƣờng giai
cấp thống nhất với nhau” 68,55.
Ngoài ra cũng có một số luận án nghiên cứu về tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh nhƣ: Lƣơng Văn Kham với đề tài Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đoàn Thị Minh Oanh với
đề tài Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh. Cũng đề cập tới tƣ tƣởng về dân tộc, giai cấp của

Hồ Chí Minh nhƣng trên bình diện lịch sử còn có luận án của Nguyễn Văn

8
Khang với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam với sự kết hợp nhiệm vụ giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. 1930 – 1945
Các công trình trên đã khai thác tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ở nhiều khía
cạnh một cách khá toàn diện và sâu sắc. Riêng vấn đề giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc và giải phóng con ngƣời trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
nhìn chung đánh giá của các tác giả là thống nhất: đều coi đó là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam, là
một trong những nguyên nhân căn bản đƣa cách mạng Việt Nam đến thành
công. Tuy nhiên, cho tới nay, chƣa thật sự có một công trình chuyên biệt
nào nghiên cứu về sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con ngƣời trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định
những giá trị của tƣ tƣởng này đối với sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện
nay. Chúng tôi coi đây là hƣớng đề tài mở và mạnh dạn đi vào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn phân tích sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Trên
cơ sở đó, rút ra ý nghĩa của mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Một là, phân tích những tiền đề hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con ngƣời.
Hai là, phân tích mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con ngƣời trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Ba là, rút ra ý nghĩa từ việc nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con

ngƣời đối với sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

9
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh và những tƣ tƣởng trong các Văn kiện của Đảng, trong các tác phẩm
viết về Hồ Chí Minh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc áp dụng trong luận văn là: kết hợp
lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, trừu tƣợng và
cụ thể, đối chiếu, so sánh…
5.Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở đi sâu nghiên cứu mối quan hệ và chỉ ra sự thống nhất
giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời trong
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, luận văn rút ra một số ý nghĩa của tƣ tƣởng này của
Ngƣời đối với sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn đƣợc chia thành hai chƣơng, bốn tiết.















10
CHƢƠNG 1
CÁC TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, GIẢI PHÓNG GIAI CẤP
VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI

1.1.Truyền thống dân tộc, tình hình cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới cuối thế kỷ XIX đầu XX
1.1.1. Truyền thống yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân
dân Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đƣợc hình thành từ rất sớm. Trải qua mấy
nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, dân tộc ta đã xây dựng nên những
truyền thống văn hoá tốt đẹp, trong đó nổi bật lên truyền thống yêu nƣớc,
gắn bó cộng đồng trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm và xây dựng đất nƣớc. Tƣ tƣởng yêu nƣớc từ thời Hùng Vƣơng đã nẩy
nở. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm, tinh thần yêu
nƣớc đó không những không bị tàn lụi vì sự đô hộ của ngoại bang mà còn
tiếp tục đƣợc củng cố và phát triển. Đến khi đất nƣớc giành đƣợc độc lập,
truyền thống yêu nƣớc tiếp tục đƣợc phát triển gắn liền với các đại biểu nhƣ:
Ngô Quyền, Lý Thƣờng Kiệt, Nguyễn Trãi Truyền thống yêu nƣớc không
chỉ là một tình cảm, một phẩm chất tinh thần mà đã phát triển thành chủ
nghĩa yêu nƣớc. Chủ nghĩa yêu nƣớc là sản phẩm tinh thần cao quý của dân
tộc ta, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đời sống tinh thần của dân tộc Việt
Nam qua các thế hệ. Chủ nghĩa yêu nƣớc cũng chính là động lực to lớn giúp
cho dân tộc ta vƣợt qua những khó khăn thử thách và đánh thắng mọi kẻ thù
xâm lƣợc.

Đối với mỗi ngƣời dân Việt Nam, “dân” phải gắn liền với “nƣớc”,
ngƣợc lại chủ nghĩa yêu nƣớc bao giờ cũng mang tính nhân dân sâu sắc.
Những bậc anh hùng lớn của dân tộc đều nhận thức đƣợc chân lý đó, khi
coi “nƣớc nhà chung sức”, “ý chí của dân chúng” nhƣ một nguồn sức mạnh

11
giữ nƣớc (Trần Quốc Tuấn) hay ví dân nhƣ nƣớc “nƣớc có thể chở thuyền
và lật thuyền” (Nguyễn Trãi). Đƣơng nhiên, trong mỗi thời đại, chủ nghĩa
yêu nƣớc còn bị chi phối bởi hệ tƣ tƣởng thống trị của thời đại đó. Trong
thời đại phong kiến, chủ nghĩa yêu nƣớc gắn với chủ nghĩa trung quân. Ban
đầu, sự gắn kết đó mang tính tích cực, nhƣng dần dần chế độ phong kiến
rơi vào con đƣờng suy thoái và bộc lộ những tiêu cực của nó, chủ nghĩa
trung quân trở nên bảo thủ và độc lập với chủ nghĩa yêu nƣớc chân chính.
Những bế tắc và thất bại của phong trào yêu nƣớc cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX đã chứng tỏ sự phá sản của chủ nghĩa trung quân. Hồ Chí Minh xuất
thân trong một gia đình nhà Nho không bị ràng buộc bởi tƣ tƣởng trung
quân nhƣ một số trí thức đƣơng thời. Tƣ tƣởng yêu nƣớc của Ngƣời thấm
nhuần những giá trị dân tộc và nhân bản của đạo lý Việt Nam, gắn nƣớc
với dân và lấy đó làm mục tiêu hàng đầu. Chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam là
một nhân tố quan trọng góp phần hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời.
Cùng với chủ nghĩa yêu nƣớc, tính cố kết cộng đồng là một chất keo
kết dính toàn thể dân tộc Việt Nam thành một khối thống nhất. Tính cố kết
cộng đồng đó xuất hiện từ trong cuộc đấu tranh sinh tồn với thiên tai và với
giặc ngoại xâm. Nói cách khác, chủ nghĩa yêu nƣớc và tính cố kết cộng
đồng của dân tộc Việt Nam không nằm khu biệt mà chúng nằm trong mối
liên hệ hữu cơ, thống nhất với nhau. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử
chống giặc ngoại xâm và chống thiên tai để bảo vệ và xây dựng đất nƣớc.
Vấn đề thiên tai, địch hoạ gắn liền với phƣơng thức sản xuất truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Ở Việt Nam, sản xuất nông nghiệp từ lâu đã là

phƣơng thức sinh tồn chính yếu nhất của cộng đồng ngƣời Việt. Việt Nam
có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp. Trƣớc
hết và chủ yếu phải nói đến tiềm năng dồi dào của đất đai và độ phì nhiêu
của nó. Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Việt Nam cũng đã đặt ra cho
con ngƣời rất nhiều khó khăn thử thách nhƣ bão lụt, hạn hán đòi hỏi con

12
ngƣời phải luôn đoàn kết mới có thể chống chọi và tồn tại đƣợc. Trong ý
thức của mỗi ngƣời dân Việt Nam, sự đoàn kết chặt chẽ trong gia đình,
cộng đồng, làng xã, quốc gia, dân tộc đã trở thành tình cảm sâu sắc, thiêng
liêng. Nó chỉ rõ sự gắn kết bền chặt không tách rời nhau giữa con ngƣời với
làng xóm, dòng họ, quê hƣơng, dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần cố kết cộng đồng này ngày càng đƣợc
củng cố, phát triển và trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tinh thần ấy còn đƣợc thể hiện rõ hơn trong cuộc đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của nhân nhân ta. Trong lịch sử, dân tộc ta thƣờng phải chống
lại quân giặc với một lực lƣợng lớn, mạnh hơn lực lƣợng của ta rất nhiều
lần. Đứng trƣớc thử thách đó, chúng ta càng phải đoàn kết gắn bó với nhau,
tìm kế sách để đánh giặc, giữ nƣớc. Với sức mạnh đó chúng ta có thể đánh
thắng bất cứ kẻ thù xâm lƣợc nào. Chẳng hạn, nhà Trần ở thế kỷ thứ XIII
đã ba lần đánh thắng quân xâm lƣợc Nguyên Mông. Sở dĩ có chiến thắng
đó là do “ Vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nƣớc góp sức” (Trần
Quốc Tuấn). Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc nhà Minh,
Nguyễn Trãi chỉ ra nguyên nhân thắng lợi là do tập hợp đoàn kết đƣợc lực
lƣợng dân chúng: nêu hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phƣơng dân chúng.
Để tạo nên sức mạnh thì tƣớng sỹ phải đoàn kết một lòng, gắn bó với nhau,
Nguyễn Trãi đã nhìn thấy công lao và sức mạnh của dân, dân là số đông, là
cơ sở của xã hội, là lực lƣợng có vai trò quyết định tới sự tồn vong của triều
đại
Trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm,

tinh thần dân tộc, lòng tự tôn, tự hào về dân tộc đƣợc nảy nở và không ngừng
phát triển. Dân tộc Việt Nam không chỉ chiến đấu để bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ mà còn chiến đấu để khẳng định vị trí của dân tộc Việt Nam. Tinh thần
dân tộc ở đây không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vị kỷ, vì lợi ích
của dân tộc mình mà xâm hại đến lợi ích của các dân tộc khác. Tinh thần dân

13
tộc ở đây cần đƣợc hiểu là lòng tự tôn, tự hào dân tộc, ý thức về cội nguồn
và về một lãnh thổ chung và lòng quyết tâm bảo vệ lãnh thổ, độc lập chủ
quyền của dân tộc: “Nam quốc sơn hà nam đế cƣ. Tiệt nhiên định phận tại
thiên thƣ. Nhƣ hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng hành khan thủ bại hƣ”
(Lý Thƣờng Kiệt)
Kinh nghiệm nghìn năm lịch sử của dân tộc ta cho thấy, mỗi lần tổ
quốc lâm nguy, chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần dân tộc lại làm bùng lên
trong mỗi ngƣời con Việt Nam ý thức sẵn sàng hy sinh vì lợi ích chung:
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Chính chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần dân
tộc đã làm nên sức mạnh đoàn kết. Có thể nói đoàn kết toàn dân tộc là nhân
tố quyết định sự thành công của sự nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc; một dân
tộc nhỏ nhƣng biết đoàn kết chặt chẽ thì sẽ tạo ra đƣợc sức mạnh to lớn, có
thể đập tan đƣợc mọi kẻ thù xâm lƣợc. Không có sức mạnh đoàn kết thì dân
tộc Việt Nam không thể tồn tại và phát triển đƣợc. Hồ Chí Minh là ngƣời
rất am hiểu lịch sử dân tộc. Ngƣời nhận thức đƣợc, rằng để giải phóng dân
tộc, giai cấp và con ngƣời thì cần phải tập hợp, đoàn kết các lực lƣợng nhân
dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Mặt trận thống nhất là
nơi thể hiện đầy đủ nhất sức mạnh của quần chúng nhân dân và hoàn thành
sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.
Truyền thống dân tộc đã nuôi dƣỡng những ngƣời con của dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh là một trong những ngƣời con lĩnh hội đầy đủ nhất
tinh hoa đó của dân tộc. Ngƣời tìm ra mẫu số chung của cả dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nƣớc. Ngƣời biết hoà lòng yêu nƣớc của bản thân vào

lòng yêu nƣớc chung của nhân dân, khơi dậy từ đáy lòng mỗi ngƣời con
Việt Nam lòng tự tôn dân tộc. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh
thần cố kết cộng đồng, lòng tự tôn tự hào dân tộc vừa là khởi nguồn vừa là
động lực cho mọi hành động cách mạng. Chính truyền thống quý báu đó
của dân tộc đã giúp hình thành những tƣ tƣởng đầu tiên về dân tộc, giai
cấp, con ngƣời của Hồ Chí Minh và tiếp thêm sức mạnh cho Ngƣời trong

14
suốt cuộc hành trình tìm chân lý độc lập, tự do cho dân tộc. Có thể nói
rằng, ngày hôm nay, tinh thần nhân đạo, khoa học của tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh đã và đang trở thành một phần không thể thiếu của truyền thống yêu
nƣớc và cố kết cộng đồng nhƣ một trong những minh chứng hùng hồn cho
các thế hệ đi sau.
Khi bàn về truyền thống dân tộc với tƣ cách là một trong những tiền
đề hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con ngƣời, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc xem xét ảnh
hƣởng của truyền thống dân tộc đến tƣ tƣởng này của Ngƣời từ những điểm
căn bản: chủ nghĩa yêu nƣớc, tính cố kết cộng đồng và tinh thần dân tộc, qua
đó hiểu thêm về lý do thôi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc và
việc Ngƣời đặt giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
ngƣời trong một thể thống nhất khi tiến hành lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
1.1.2 Tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cách mạng Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lƣợc Việt Nam khi chế độ
phong kiến nƣớc ta đang ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Trong
khi nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra chống thực dân Pháp thì nhà
Nguyễn với sự yếu hèn, bạc nhƣợc đã đầu hàng giặc, mặc dù có những ông
vua cũng rất yêu nƣớc nhƣ : Hàm Nghi, Thành Thái…Thôn tính đƣợc Việt
Nam, thực dân Pháp tiến hành các biện pháp bóc lột, vơ vét tài nguyên, cai

trị trực tiếp, nô dịch hóa nhân dân:
Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát
triển kinh tế độc lập của nƣớc ta, áp dụng cả lối bóc lột kiểu phong kiến,
làm cho nhân dân ta, nhất là nông dân và công nhân bị bần cùng hoá, làm
cho kinh tế nƣớc ta không thể phát triển.

15
Về văn hoá xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, tuyên truyền
văn hoá thực dân phản động, khuyến khích văn hoá nô dịch, tự ti, kìm hãm
dân ta trong vòng tối tăm để phục vụ sự cai trị của chúng.
Thực dân Pháp cũng cho xây dựng trƣờng học, mở mang đƣờng giao
thông và thành lập một số cơ sở kinh tế nhƣng là để phục vụ mục đích cai
trị và bóc lột của mình. Nhìn chung, chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp làm cho Việt Nam rơi vào tình trạng què quặt về kinh tế,
nhiều tầng lớp nhân dân bị bần cùng hoá, cơ cấu xã hội – giai cấp có những
biến đổi sâu sắc với sự xuất hiện của giai cấp công nhân, tầng lớp tƣ sản,
tiểu tƣ sản bên cạnh các tầng lớp, giai cấp cũ. Giai cấp nông dân Việt Nam
là một trong hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến, giờ đây ngoài bị
bóc lột phong kiến, họ còn chịu thêm bóc lột thực dân. Thuế khoá nặng nề,
lao dịch chồng chất đã làm cho đời sống ngƣời nông dân Việt Nam rất cơ
cực. Bị mất ruộng và phá sản, nông dân phải cày thuê cho địa chủ, một bộ
phận phải bỏ làng ra các thành thị kiếm sống hoặc chạy vào các đồn điền,
hầm mỏ làm thuê trở thành đội quân vô sản: giai cấp công nhân Việt Nam
là đại biểu cho sản xuất công nghiệp ở Việt Nam, họ sống tập trung ở thành
thị và trung tâm kinh tế, họ bị tƣ bản thực dân bóc lột trực tiếp nhất; giai
cấp tƣ sản Việt Nam ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất, họ bị thực dân
chèn ép áp bức, là bộ phận nhỏ bé, yếu ớt, lệ thuộc nặng nề cả về kinh tế và
chính trị vào thực dân Nhìn chung, cách mạng Việt Nam lúc này gặp
nhiều khó khăn, nhất là về mặt tổ chức lực lƣợng. Giai cấp nông dân tuy
chiếm trên 90% dân số nhƣng vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực vì thiếu tổ chức,

thiếu ngƣời lãnh đạo; công nhân tập trung ở các xí nghiệp, hầm lò, có tinh
thần cách mạng triệt để nhất…nhƣng chƣa có tổ chức tập hợp, chƣa có tƣ
tƣởng dẫn đƣờng; giai cấp tƣ sản bị phân hoá thành hai bộ phận đối lập. Bộ
phận tƣ sản dân tộc đã tiến hành đấu tranh vì độc lập, tự do và dân chủ,

16
nhƣng họ ít về số lƣợng, yếu về kinh tế, không vững về lập trƣờng. Trong
khi đó chúng ta lại chƣa có một đƣờng lối cách mạng đúng đắn để liên kết,
tập hợp, hƣớng dẫn quần chúng.
Rất nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nƣớc đã nổ ra nhƣng
đều không đƣa lại kết quả: năm 1885, phong trào Cần vƣơng do vua Hàm
Nghi khởi xƣớng đƣợc sự hƣởng ứng của cả ba miền đất nƣớc, khắp nơi sỹ
phu nổi dậy giúp vua chống Pháp nhằm khôi phục lại nền độc lập. Trong
đó, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Cuộc khởi nghĩa
này kéo dài mƣời năm nhƣng cũng đi đến thất bại. Đến năm 1896, thất bại
của khởi nghĩa Hƣơng Khê đã đặt dấu chấm hết cho con đƣờng cứu nƣớc theo
hệ tƣ tƣởng phong kiến. Lịch sử đã từ bỏ con đƣờng phong kiến đúng vào lúc
xuất hiện một con đƣờng mới, một trào lƣu mới – trào lƣu dân chủ tƣ sản.
Hạt giống của trào lƣu dân chủ tƣ sản ở nƣớc ta nảy mầm là do chịu
ảnh hƣởng của phong trào vận động cải cách Duy tân của thế giới và khu
vực. Trào lƣu dân chủ tƣ sản đúng ra là do giai cấp tƣ sản lãnh đạo, nhƣng
lúc này tƣ sản Việt Nam chƣa ra đời, nên lãnh đạo phong trào là một bộ
phận tiểu tƣ sản yêu nƣớc, trí thức tiến bộ. Tuy cùng một con đƣờng nhƣng
phƣơng pháp cứu nƣớc của Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu là không
giống nhau:
Phan Bội Châu chủ trƣơng chống đế quốc, giành độc lập dân tộc mà
trƣớc mắt chƣa chống phong kiến. Ông mong muốn dựa vào Nhật, cầu viện
Nhật để chống thực dân Pháp. Phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi
xƣớng và lãnh đạo đƣợc đông đảo thanh niên yêu nƣớc đƣơng thời đi theo.
Nhƣng, Nhật lại thoả hiệp với thực dân Pháp tiêu diệt cách mạng Đông

Dƣơng, lƣu học sinh Việt Nam đều bị trục xuất khỏi nƣớc Nhật.
Ngƣợc với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chủ trƣơng chống
phong kiến mà chƣa chống đế quốc, giành tự do, dân chủ bằng phƣơng

17
pháp ôn hoà, dựa vào Pháp để chống phong kiến. Phong trào Duy Tân do
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp khởi xƣớng nhằm
đổi mới chính trị và văn hoá đất nƣớc để đi tới độc lập tự chủ. Phong trào
này ra sức phê phán sự thối nát của vua quan nhà Nguyễn, mặt khác trông
mong vào sự giúp đỡ của đế quốc Pháp nhằm thực hiện “dân quyền”, “dân
chủ” ở nƣớc ta. Nhƣng tƣ tƣởng “ỷ Pháp, cầu tiến bộ” đó không nhận đƣợc
sự tin tƣởng và ủng hộ của Pháp. Vì thế nhiều ngƣời trong Duy tân hội bị
bắt bớ tù đày, bản thân Phan Châu Trinh cũng nhiều lần phải vào nhà tù đế
quốc.
Sự khác nhau trong phƣơng pháp tiến hành cách mạng của các phong
trào do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xƣớng, lãnh đạo làm cho
phong trào yêu nƣớc theo khuynh hƣớng tƣ sản ở Việt Nam phân hoá thành
hai xu hƣớng: bạo động mang tính chất truyền thống và cải cách tƣ sản mới
mẻ. Những hoạt động của hai ông và những nhà yêu nƣớc khác làm bùng
lên phong trào cứu nƣớc mang sắc thái mới, nhiều hình thức hoạt động đa
dạng đã diễn ra chứ không đơn thuần là vũ trang truyền thống, tiêu biểu là
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lƣơng Văn Can và Nguyễn Quyền
tổ chức. Mục tiêu của phong trào này là truyền bá nền văn hoá mới để thực
hiện chủ nghĩa yêu nƣớc mới. Lúc đầu thực dân Pháp tƣởng rằng phong
trào này chỉ đòi hỏi thực hiện cải lƣơng văn hoá nhƣng sau đó chúng nhận
thấy tổ chức này có xu hƣớng chống Pháp nên đã đóng cửa “cái lò phản
loạn ấy” Có thể thấy, rằng tuy các phong trào yêu nƣớc có xu hƣớng tƣ
sản đều đã bộc lộ sự bế tắc, không phát triển đƣợc và thất bại nhƣng chúng
đã góp phần cổ vũ, thức tỉnh tinh thần yêu nƣớc trong nhân dân, nhất là
thanh niên, trí thức, học sinh.

Nhƣ vậy, có thể thấy cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam
đứng trƣớc sự khủng hoảng trầm trọng về đƣờng lối cách mạng cứu nƣớc,
thiếu giai cấp tiên tiến lãnh đạo, tập hợp, thiếu lý luận tiên tiến dẫn đƣờng.

18
Dân tộc ta cần một lý luận mới, một bộ phận lãnh đạo có thể giải quyết
đúng đắn những nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giai cấp, con ngƣời cả trƣớc
mắt và lâu dài trên con đƣờng cách mạng. Nguyễn Tất Thành cũng không
tìm ra đƣợc ngay lời giải cho những vấn đề ấy mà chỉ nhận thấy sức mạnh
của lòng yêu nƣớc trong nhân dân và ý thức đƣợc rằng phải ra đi tìm đƣờng
giải phóng dân tộc. Nhận thức này của Nguyễn Tất Thành không phải ngẫu
nhiên mà có, nó là kết quả của sự kết hợp giữa một thanh niên đƣợc giáo dục
nghiêm túc, đƣợc sống trong một dân tộc có truyền thống yêu nƣớc của và
với một trí tuệ hơn ngƣời.
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền
thống yêu nƣớc. Ngƣời chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ ý chí, nghị lực và lòng
yêu nƣớc của ngƣời cha mẫu mực - cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc. Bản
thân cụ Nguyễn Sinh Sắc đã đƣa con tắm mình vào thực tế chống xâm lƣợc
của các bậc tiền bối, một thực tế vừa đau thƣơng, vừa hào hùng. Cụ từng
đƣa con lên thăm núi Thiên Nhãn, Thành Lục Niên, đại bản doanh của Lê
Lợi – Nguyễn Trãi chống quân xâm lƣợc nhà Minh để suy nghĩ về chiến
thắng Chi Lăng – Xƣơng Giang và một cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc. Cụ cũng đƣa Nguyễn Tất Thành đến nhiều nơi khác, gặp nhiều sỹ phu
yêu nƣớc, cho ngồi nghe các cụ đàm đạo việc nƣớc Tất cả những việc làm
của một ngƣời cha mẫu mực, một nhà Nho vƣơn khỏi tầm “trung quân” của
Nho giáo để đến với “ái quốc” đã ảnh hƣởng trực tiếp tới tƣ tƣởng của Ngƣời.
Cùng với sự giáo dục của gia đình, truyền thống quê hƣơng anh
hùng cũng là một trong những nền tảng góp phần tạo nên một Nguyễn Tất
Thành với lòng yêu nƣớc vô bờ bến. Nghệ An, quê hƣơng Ngƣời cũng là
quê hƣơng của nhiều nhà cách mạng lớn nhƣ: Mai Thúc Loan, Nguyễn

Công Trứ, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…
Nguyễn Tất Thành đƣợc rèn luyện trong cuộc sống lao động và đấu
tranh của những ngƣời dân mất nƣớc đang phải chịu kiếp nô lệ, đƣợc tiếp
xúc với những nhà Nho yêu nƣớc, đƣợc tham gia và chứng kiến nhiều

19
phong trào yêu nƣớc bị đàn áp và thất bại…Với một tƣ chất thông minh,
Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra sức mạnh của dân tộc Việt Nam là ở
truyền thống yêu nƣớc thƣơng nòi. Bản thân Ngƣời sau này cũng khẳng
định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nƣớc, chứ chƣa phải chủ nghĩa cộng
sản đã đƣa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III” [55,128].
Nhƣ vậy, truyền thống dân tộc, quê hƣơng, gia đình đã đặt nền móng
đầu tiên cho tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con ngƣời của Hồ Chí Minh. Ngƣời thanh niên Nguyễn Tất Thành khi ấy
chƣa hiểu gì về những lý tƣởng cao xa, chỉ có một lòng nồng nàn yêu nƣớc,
một ƣớc muốn góp sức đƣa dân tộc thoát khỏi lầm than. Nguyễn Tất Thành
hiểu rằng: “Nƣớc Việt Nam thành lập đã hơn 2000 năm, Việt Nam là một
dân tộc có chung một lịch sử, một thứ tiếng, một nền kinh tế và văn hoá. Dân
tộc Việt Nam đã cùng nhau đoàn kết, nhất trí trong lao động, xây dựng và
trong chiến đấu chống ngoại xâm” [53,52]. Sở dĩ đạt đƣợc điều đó là vì:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nƣớc. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xƣa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lƣớt qua mọi
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nƣớc và lũ cƣớp
nƣớc Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà
Trƣng, Bà Triệu, Trần Hƣng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v Chúng ta phải
ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của
một dân tộc anh hùng” [51, 171-172].
Từ thực tiễn cách mạng trong nƣớc, Nguyễn Tất Thành nhận ra, rằng
không thể đi theo vết xe của các vị tiền bối. Mặc dù rất khâm phục các cụ:

Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu vì:
“Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu ngƣời Pháp thực hiện cải lƣơng. Anh nhận
ra điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thƣơng. Cụ Phan
Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm
chẳng khác gì “đƣa hổ cửa trƣớc, rƣớc beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám

20
tuy thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp nhƣng cụ còn nặng cốt
cách phong kiến” [72,11]. Bởi thế, thay vì chờ đợi sự quan tâm của “chính
phủ” để “ khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” theo quan điểm của
Phan Chu Trinh, hay “Đông du” theo Phan Bội Châu Nguyễn Tất Thành
hiểu rằng, dân tộc ta chỉ có thể tự mình giải phóng cho mình, muốn vậy,
phải tìm đƣợc con đƣờng đúng đắn, con đƣờng khác với sự lựa chọn của
các bậc tiền bối.
Nguyễn Tất Thành chọn nƣớc Pháp để bắt đầu cuộc hành trình tìm
đƣờng cứu nƣớc. Ngƣời muốn đến Pháp trƣớc tiên, bởi vì muốn tìm hiểu
thực chất của những từ: “tự do, bình đẳng, bác ái” nhƣ sau này Ngƣời tâm
sự: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi đã đƣợc nghe những từ Pháp: Tự do,
bình đẳng, bác ái Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem
những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy” [71,57]. Lòng yêu nƣớc đã thôi thúc
Nguyễn Tất Thành tìm đến tận nơi xem cho đƣợc cái gốc rễ, cái bản chất của
kẻ đang cƣớp nƣớc mình để tìm lời giải đáp cho vận mệnh dân tộc. Bản thân
Nguyễn Tất Thành trƣớc khi xuất dƣơng đã xác định rất rõ mục đích của
chuyến đi là: “Tôi muốn ra ngoài, xem nƣớc Pháp và các nƣớc khác. Sau khi
đã xem xét họ làm nhƣ thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”
[72,11]. Điều này cho thấy ngay từ đầu Nguyễn Tất Thành đã nhận thức
đƣợc, rằng cái quan trọng nhất đối với dân tộc mình lúc này là tìm ra “cách
làm cách mạng” rồi mới tính đến sự ủng hộ về vật chất và tinh thần.
Tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc sang Pháp để thực
hiện hoài bão tìm ra con đƣờng giải phóng dân tộc. Từ đây, Ngƣời chính

thức tham gia vào thực tiễn cách mạng thế giới.
Cách mạng thế giới
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tình hình cách mạng thế giới có
nhiều biến động. Chủ nghĩa tƣ bản thế giới đã chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Cục diện thế giới có những biến đổi sâu sắc với sự tranh
giành, phân chia thuộc địa của các nƣớc đế quốc. Thế giới bị phân chia làm

21
hai khu vực: khu vực gồm các nƣớc công nghiệp phát triển, thƣờng đƣợc
gọi là phƣơng Tây và khu vực gồm các nƣớc thuộc địa, thƣờng đƣợc gọi là
phƣơng Đông. Vấn đề đặt ra đối với các nƣớc phƣơng Tây lúc này là khai
thác đƣợc từ các nƣớc thuộc địa càng nhiều càng tốt để phát triển chính
quốc. Trong khi đó vấn đề đặt ra đối với các nƣớc thuộc địa, trong đó có
Việt Nam là phải làm thế nào để đƣợc giải phóng.
Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất diễn ra làm gia tăng mâu
thuẫn giữa chính các nƣớc đế quốc và hình thành rõ nét một mâu thuẫn mới
đó là: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực
dân. Bên cạnh đó, phƣơng Đông đang “thức tỉnh” với một loạt phong trào
giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc,
Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđônêxia… Thực tế đó đã đặt những tiền đề đầu tiên
cho phép hình thành liên minh các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Tình hình cách mạng thế giới càng trở nên sôi động khi Cách mạng
Tháng Mƣời Nga thành công, lập ra nhà nƣớc công nông binh đầu tiên trên
thế giới. Cách mạng Tháng Mƣời Nga đã làm nức lòng nhân dân thế giới
và làm sáng lên niềm tin vào một tƣơng lai mới.
Những biến động của tình hình cách mạng thế giới đã tác động mạnh
đến Nguyễn Tất Thành trong suốt quá trình Ngƣời bôn ba tìm đƣờng cứu
nƣớc. Trong khoảng thời gian đầu tiên, khi ở Pháp, ấn tƣợng sâu sắc để lại
trong tâm trí ngƣời thanh niên yêu nƣớc Nguyễn Tất Thành không phải là
một nƣớc Pháp với nền công nghiệp, kỹ thuật tiên tiến mà là một nƣớc Pháp

với sự phân hoá xã hội rõ nét, một nƣớc Pháp có ngƣời giàu, ngƣời nghèo,
ngƣời tốt, ngƣời xấu. Ngƣời nhận ra rằng: “Ở Pháp cũng có ngƣời nghèo
nhƣ bên ta” [72,16] và “ những ngƣời ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những
ngƣời Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo” [72,23]. Căm phẫn trƣớc sự
hung ác của thực dân bao nhiêu, Nguyễn Tất Thành càng đau xót cho tình
cảnh của những ngƣời bị bóc lột. Ngƣời khẳng định: trƣớc lòng bác ái, máu
ngƣời Pháp cũng nhƣ máu ngƣời Việt, đều đỏ và có “hai nƣớc Pháp”: một

22
nƣớc Pháp của bọn thực dân đế quốc, của những kẻ thống trị, áp bức bóc lột
và một nƣớc Pháp của những ngƣời vô sản, những ngƣời lao động nghèo
khổ, bị áp bức bóc lột.
Sau ít tháng dừng chân ở Pháp, cuối năm 1911, Nguyễn Tất Thành
tiếp tục cuộc hành trình đến nhiều nƣớc châu Âu, châu Phi và châu Mỹ.
Trong số các nƣớc đã đến, Ngƣời dừng chân khá lâu ở nƣớc Anh và nƣớc
Mỹ. Tại Mỹ, Nguyễn Tất Thành đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập 1776”
của nƣớc Mỹ, trong đó đề cập đến “quyền bình đẳng”, “quyền sống, quyền
tự do, quyền mƣu cầu hạnh phúc” của con ngƣời Ngƣời khâm phục ý chí
giành độc lập, tự do của nhân dân Mỹ, khâm phục những tƣ tƣởng vĩ đại
của Oasinhtơn, Lincôn, nhƣng đồng thời cũng phát hiện ra những nghịch
lý: đằng sau những lời lẽ hoa mỹ về tự do, bình đẳng là sự bất bình đẳng và
nghèo đói của hàng triệu ngƣời lao động, là điều kiện sống khủng khiếp của
ngƣời da đen, nạn phân biệt chủng tộc
Chính cuộc hành trình qua nhiều nƣớc tƣ bản, đế quốc, thuộc địa và
phụ thuộc là những tài liệu sống giúp Nguyễn Tất Thành nâng cao nhận
thức của mình. Bằng sự quan sát thực tế, khả năng suy xét, tổng kết hết sức
sâu sắc, Nguyễn Tất Thành nhận ra cội nguồn của sự đau khổ của nhân loại
ở bản chất áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tƣ bản và chủ nghĩa đế quốc đối
với ngƣời lao động. Từ đó, Ngƣời rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu chủ
nghĩa tƣ bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và nhân

dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột dã man, các dân tộc thuộc địa đều có
một kẻ thù không đội trời chung là bọn đế quốc, thực dân. Đây có thể coi là
gốc rễ đầu tiên đƣa Nguyễn Tất Thành đến với chủ nghĩa quốc tế, hình
thành mầm mống đầu tiên cho ý định liên minh giữa những ngƣời bị áp bức
của các dân tộc thuộc điạ và phụ thuộc.
Bƣớc ngoặt lớn trong việc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải
phóng dân tộc, giai cấp và con ngƣời là khi Ngƣời tiếp xúc với Sơ thảo lần

23
thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin.
Nếu bản Luận cƣơng đã làm Nguyễn Ái Quốc vui mừng đến phát khóc lên
khi tìm thấy ở đó chân lý giải phóng dân tộc thì với Cách mạng Tháng
Mƣời, Ngƣời khẳng định: “Nhƣ ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối,
cuộc Cách mạng Tháng Mƣời đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài
ngƣời” [53,558]. Ngƣời nhấn mạnh: “Giống nhƣ mặt trời chói lọi, Cách
mạng Tháng Mƣời chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng
triệu ngƣời bị áp bức, bóc lột trên trái đất” [57,300]. Nghiên cứu Cách
mạng Tháng Mƣời Nga, Hồ Chí Minh nhận thấy, rằng đây là cuộc cách
mạng vƣợt xa và khác hẳn các cuộc cách mạng trƣớc đây trong lịch sử.
Mục tiêu của cuộc cách mạng này không phải chỉ đem lại quyền lợi cho
một số ít ngƣời mà là giải phóng toàn thể xã hội. Từ đây, Nguyễn Tất
Thành phát hiện ra, rằng cách mạng Việt Nam cũng phải làm đến nơi nhƣ
Cách mạng Tháng Mƣời Nga mới thoát đƣợc áp bức dân tộc, áp bức giai
cấp để giải phóng con ngƣời nói chung.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp.
Tháng 6 năm 1919, thay mặt những ngƣời Việt Nam yêu nƣớc ở Pháp,
Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vecxây
bản “Yêu sách của nhân dân Việt Nam” gồm tám điểm đòi chính phủ Pháp
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam. Bản yêu sách không đƣợc chấp nhận. Qua kinh nghiệm thực tế,

Nguyễn Ái Quốc nhận ra rằng: “Những lời tuyên bố tự do, dân chủ của
bọn đế quốc chỉ là những lời đƣờng mật cốt để lừa bịp các dân tộc bị áp
bức. Muốn đƣợc độc lập và tự do thật sự, các dân tộc bị áp bức phải trông
cậy trƣớc hết vào lực lƣợng của bản thân mình; ngƣời Việt Nam phải tự
giải phóng lấy mình” [8,21].

24
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Tua, bỏ phiếu cho
Quốc tế III, trở thành một trong những ngƣời sáng lập Đảng Cộng sản Pháp
và là ngƣời cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Nhƣ vậy, từ khi ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc (1911) đến Đại hội Tua
(1920) tinh thần yêu nƣớc của Nguyễn Ái Quốc càng đƣợc củng cố và gắn
liền với quốc tế vô sản, giác ngộ dân tộc gắn với giác ngộ giai cấp. Là một
ngƣời dân mất nƣớc, Nguyễn Ái Quốc dành tình yêu trƣớc hết cho dân tộc
mình. Khi hoà mình vào cuộc sống của những ngƣời cùng khổ khắp năm
châu, Nguyễn Ái Quốc đã đồng cảm sâu sắc với họ. Ý thức dân tộc dần gắn
với ý thức giai cấp vô sản. Đến đây, tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp của Ngƣời đã hình thành về căn bản với những điều Ngƣời
đúc rút đƣợc từ thực tiễn cách mạng. Tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời tiếp tục đƣợc hoàn thiện trong thời
gian Ngƣời làm việc tại Ban Phƣơng Đông của Quốc tế Cộng sản tại
Matxcơva (1923). Năm 1924, Ngƣời về đến Quảng Châu, trực tiếp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Từ đây về sau, tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời của Hồ Chí Minh đƣợc hiện
thực hoá và ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách mạng.
Có thể khẳng định, rằng tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con ngƣời của Hồ Chí Minh đƣợc hình thành trên cơ sở
thực tiễn cách mạng sôi động mà Ngƣời tham gia. Từ thực tiễn hoạt động
cách mạng, với một tƣ chất thông minh, một trí tuệ vƣợt bậc và một tình
yêu tha thiết đối với con ngƣời, Hồ Chí Minh đã đến đƣợc với chân lý của

thời đại và đem chân lý ấy về cho cách mạng Việt Nam. Kết quả này có sự
đóng góp rất lớn của nhân tố chủ quan vì tƣ tƣởng lý luận hay đƣờng lối
cách mạng bao giờ cũng phụ thuộc vào con ngƣời sinh ra và vận dụng tƣ
tƣởng đó.

25
Ở Hồ Chí Minh, nổi bật lên là những tƣ chất và phẩm chất sau: tƣ
chất thông minh, tƣ duy độc lập, sáng tạo, tính ham học hỏi, tầm nhìn sâu
rộng, có khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát thực tiễn và nhạy bén với
cái mới Hồ Chí Minh luôn mang theo mình những phẩm chất và tƣ chất
ấy. Điều này cắt nghĩa:
- Tại sao Nguyễn Tất Thành sang Pháp chứ không phải sang Nhật
theo cụ Phan Bội Châu mặc dù cụ Phan có ảnh hƣởng rộng, lại rất thân với
cụ Nguyễn Sinh Sắc và yêu mến Nguyễn Tất Thành?
- Tại sao Nguyễn Tất Thành lại chọn nƣớc Mỹ, nƣớc Anh để ở lại
một thời gian trƣớc khi trở về Pháp hoạt động?
- Tại sao đầu thế kỷ XX có rất nhiều ngƣời Việt Nam sang Pháp và
cũng không phải chỉ có Nguyễn Tất Thành đọc Luận cƣơng của V.I.Lênin,
nhƣng chỉ có duy nhất Nguyến Tất Thành trở thành ngƣời cộng sản?
- Tại sao Nguyễn Tất Thành không sang Trung Quốc trong khi
Quảng Châu đƣợc coi là “cái nôi” của cách mạng Việt Nam?
- Tại sao khi đến Pháp, mặc dù có nhiều ngƣời đỡ đầu nhƣ: Phan
Văn Trƣờng, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh nhƣng Nguyễn Tất
Thành không ở lại Pari mà tiếp tục đi đến các nƣớc khác?
Nhƣ vậy, có thể nói, rằng nhân tố chủ quan trong con ngƣời Hồ Chí
Minh đã kết hợp một cách tài tình với điều kiện khách quan để tạo ra cho dân
tộc Việt Nam một Nguyễn Ái Quốc, một Hồ Chủ tịch, một vĩ lãnh tụ vĩ đại
sau này.
Mang theo lòng yêu nƣớc, nhiệt tình cách mạng Hồ Chí Minh tham
gia vào thực tiễn cách mạng sôi động. Chính trong thực tiễn ấy, trong khi đi

qua nhiều nƣớc và tận mắt chứng kiến cuộc sống của nhân dân ở các nƣớc
thuộc địa cùng cảnh ngộ, tham gia các tổ chức vì hoà bình, đứng trong
hàng ngũ Quốc tế III mà hệ thống luận điểm về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời của Hồ Chí Minh đƣợc hình thành.
Đồng thời, sống chung với bè bạn cùng cảnh ngộ trên thế giới trong quá

26
trình tìm đƣờng cứu nƣớc cũng giúp Ngƣời nâng cao nhận thức về giai cấp
công nhân, về quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô
sản và là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nhƣ vậy, từ chủ nghĩa yêu nƣớc, bức xúc giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa quốc tế, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngƣời đã
tìm thấy ở đó chân lý mà Ngƣời mong đợi. Đó là chân lý giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời.
1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin – cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người
Hồ Chí Minh từng khẳng định chính chủ nghĩa yêu nƣớc đã đƣa
Ngƣời đến với V.I.Lênin và tin theo quốc tế III. Ngƣời tìm thấy trong “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cƣơng về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
của V.I.Lênin “cái cần thiết cho chúng ta”, “con đƣờng giải phóng chúng
ta”. Lý luận của V.I.Lênin là sự vận dụng sáng tạo lý luận của C.Mác và
Ph.Ăngghen vào điều kiện cụ thể và nâng lý luận ấy lên một tầm cao mới.
Tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác–Lênin đƣợc minh chứng bằng kết quả cách
mạng - sự thành lập một nhà nƣớc công nông binh đầu tiên trên thế giới.
Đối với C.Mác, quan niệm về con ngƣời đƣợc ông nhắc tới nhiều trong
hệ thống lý luận, nhất là khi tiến hành sự phê phán triệt để triết học duy tâm tƣ
biện của Hêghen và triết học nhân bản của Phoiơbắc về con ngƣời.
Với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác chỉ ra rằng, bằng việc
“sáng tạo ra một cách thực tiễn thế giới đối tƣợng” và “cải tạo giới tự nhiên

vô cơ’ con ngƣời trở thành một thực thể mang tính tộc loại, có ý thức, một
thực thể đối xử với tộc loại nhƣ với bản chất của chính mình, hoặc đối xử
với bản thân mình nhƣ một thực thể có tính tộc loại. Khi so sánh con ngƣời
và con vật về phƣơng thức hoạt động, C.Mác đã chỉ ra những đặc điểm cơ
bản trong hoạt động sản xuất của con ngƣời: đó là hoạt động phổ biến, hoạt
động cả khi con ngƣời tự do thoát khỏi nhu cầu thể xác trực tiếp, là sự tái

×