Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Lôgic học G.W.F. Hêghen và sự vận dụng của C.Mác trong Tư bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.39 KB, 107 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ HỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===***===




PHAN THANH HƯƠNG



LÔGIC HỌC G.W.F.HÊGHEN VÀ SỰ VẬN DỤNG
CỦA C.MÁC TRONG TƯ BẢN



LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành Triết học







Hà Nội, 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ HỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


2
===***===




PHAN THANH HƯƠNG



LÔGIC HỌC G.W.F.HÊGHEN VÀ SỰ VẬN DỤNG
CỦA C.MÁC TRONG TƯ BẢN



LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.80

Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn








Hà Nội- 2012


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1. LOGIC HỌC HÊGHEN VÀ TƯ BẢN CỦA C. MÁC:
KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN 12
1.1. Giới thiệu về lôgic học Hêghen 12
1.1.1. Sơ lược về vị trí của lôgic học trong
hệ thống triết học Hê ghen 12
1.1.2. Khái quát về cấu trúc và nội dung cơ bản của “Tiểu lôgic” 17
1.2. Kết cấu và những nội dung chủ yếu của Tư bản 29
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÁC PHẠM TRÙ LÔGIC
KHÁCH QUAN TRONG TƯ BẢN 38
2.1. “Hàng hóa và tiền tệ” – lĩnh vực tồn tại của tư bản 38
2.1.1. Giá trị sử dụng – Chất (của hàng hóa) 38
2.1.2. Giá trị trao đổi – Lượng (của hàng hóa) 43
2.1.3. Giá trị - Độ (của hàng hóa) 46
2.2. “Quá trình sản xuất tư bản” – bản chất của tư bản 49
2.2.1. Cái không bản chất và cái bản chất – Quá trình lao động
và quá trình gia tăng giá trị 49
2.2.2. Vẻ ngoài – Tư bản bất biến và tư bản khả biến 54
2.2.3. Sự phản tư – Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư,
ngày lao động 57
2.2.4. Sự đồng nhất – Giá trị thặng dư tuyệt đối 61
2.2.5. Sự khác biệt – Giá trị thặng dư tương đối 64
2.2.6. Sự khác nhau – Hiệp tác giản đơn 66
2.2.7. Đối lập – Công trường thủ công 67

2.2.8. Mâu thuẫn – Máy móc và đại công nghiệp 71
2.2.9. Cơ sở - Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối 72


4
2.2.10. Cơ sở hình thức – Tái sản xuất giản đơn 76
2.2.11. Cơ sở thực – Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản 79
2.2.12. Cơ sở đầy đủ - Quy luật phổ biến của tích lũy
tư bản chủ nghĩa 79
2.2.13. Điều kiện – Tích lũy ban đầu 81
2.3. “Quá trình lưu thông của tư bản” – hiện tượng của tư bản 82
2.3.1. Sự tồn tại - tuần hoàn của tư bản 83
2.3.2. Hiện tượng - chu chuyển của tư bản 85
2.3.3. Quan hệ bản chất - sự tái sản xuất và lưu thông của
tổng tư bản xã hội 86
2.4. “Toàn bộ quá trình sản xuất của tư bản” – hiện thực
của tư bản 89
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lôgic học có lịch sử lâu dài và phong phú gắn liền với lịch sử phát triển
xã hội nói chung. Sự xuất hiện của lôgic học như là lý thuyết về tư duy chỉ
diễn ra sau thực tiễn suy nghĩ bao nghìn năm của con người. Cùng với sự phát
triển của lao động sản xuất vật chất thì con người cũng dần hoàn thiện và phát
triển các khả năng suy nghĩ, mà trước tiên là khả năng trừu tượng hoá và suy
luận. Điều đó đã dẫn đến việc biến tư duy cùng các hình thức và quy luật của

nó thành khách thể nghiên cứu của một khoa học chuyên ngành là lôgic học.
Trong lịch sử lôgic học, lôgic học truyền thống (Arixtôt) và lôgic toán
đều là những nấc thang khác nhau về chất trong sự phát triển của chính lôgic
học hình thức. Lôgic học biện chứng lại là nhánh quan trọng khác của lôgic
học hiện đại nghiên cứu về tư duy biện chứng và biện chứng của tư duy.
Cho đến đầu thế kỷ XIX, các đại biểu của nhiều trường phái triết học
khác nhau đã không thể xây dựng được một quan niệm triết học đầy đủ, hoàn
chỉnh về sự phát triển. Việc đề ra quan niệm biện chứng về sự phát triển là
công lao của các nhà triết học cổ điển Đức mà sự hoàn chỉnh nó chủ yếu được
thực hiện ở Hêghen. Như Ăngghen đã nhận xét, đóng góp to lớn của Hêghen
là ở chỗ, ông là người đầu tiên đã coi toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh
thần như một quá trình, nghĩa là luôn luôn vận động, thay đổi, biến hoá và
phát triển và trong đó ông đã tìm ra mối liên hệ nội tại của sự vận động và
phát triển ấy. Mác đã đề ra nhiệm vụ tiếp tục phải giải quyết trong lĩnh vực
lôgic biện chứng là: “Ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất.
Chỉ cần dựng ngược nó lại là sẽ phát hiện hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau
lớp vỏ thần bí” [15, 35]. Đồng thời C. Mác và Ph. Ăngghen cũng chỉ ra sự
khác biệt sâu sắc về chất giữa học thuyết biện chứng của mình với học thuyết
biện chứng của Hêghen.


6
Để xây dựng lôgic học mới với tính cách là lôgic biện chứng, Hêghen
đã nghiên cứu toàn bộ quá trình phát triển của lôgic hình thức trước đây. Theo
Hêghen, lôgic học trước ông là khoa học về những hình thức tư duy chủ quan,
vì vậy nó chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được sự phát triển của triết học và khoa
học. Trên cơ sở đó Hêghen đã sáng tạo ra một hệ thống lôgic học mới - lôgic
biện chứng nhằm đem lại cho triết học một phương pháp luận mới có hạt nhân
là phép biện chứng. Phép biện chứng của Hêghen là một trong những thành
tựu quý giá nhất của triết học cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học trước

Mác nói chung.
Ngay sau Hêghen những vấn đề lôgic học biện chứng đã được Mác,
Ăngghen và Lênin tiếp tục cụ thể hóa và nghiên cứu trong các tác phẩm của
mình. Các ông đã xây dựng hệ thống lôgic học mới, duy vật biện chứng thể
hiện trong các tác phẩm như Tư bản, Chống Đuyrinh, Phép biện chứng của tự
nhiên, Bút ký triết học…
Nói riêng, kế thừa lôgic học biện chứng của Hêghen, Mác đã xây dựng
hệ thống lôgic của riêng mình, đó là lôgic của bộ Tư bản. Lôgic học biện
chứng của Hêghen chính là nền tảng phương pháp luận quan trọng để Mác
xây dựng học thuyết kinh tế và triết học của mình. Chính vì vậy, muốn phân
tích, hiểu sâu sắc những quan điểm của Mác cần phải quay trở lại với những
tư tưởng lôgic học của Hêghen, như Lênin đã từng nhận xét: “Không thể hoàn
toàn hiểu được “Tư bản” của Mác và đặc biệt là chương I của sách đó, nếu
chưa nghiên cứu kỹ và chưa hiểu toàn bộ lôgic của Hêghen” [13, 190].
Như vậy lôgic học của Hêghen có ảnh hưởng sâu sắc tới lôgic biện
chứng của Mác khi ông viết tác phẩm Tư bản. Lôgic của Tư bản không lộ
ngay ra ngoài mặt, việc vạch ra nó đòi hỏi phải dốc sức lao động tìm tòi, so
sánh, đối chiếu. Lênin đã chỉ ra một trong những điều kiện quan trọng nhất để
hoàn thành có kết quả công việc đó là phải nắm được lôgic học của Hêghen.


7
Chính yêu cầu lý luận và thực tiễn cần nhận thức đúng đắn và sâu sắc
phương pháp luận của Mác và qua đó thấy được sự ảnh hưởng to lớn của
lôgic học Hêghen tới lôgic của Tư bản và tới toàn bộ tư tưởng biện chứng của
Mác đã khiến tôi nghiên cứu tác phẩm của Hêghen Bách khoa thư các khoa
học triết học, tập 1 - Khoa học lôgic do Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải và
tác phẩm Tư bản của Mác để thấy rõ được việc Mác vận dụng lôgic học của
Hêghen vào khảo sát và trình bày lôgic của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong Tư bản. Qua việc nghiên cứu các tài liệu trên mà tôi đã quyết định

chọn “Lôgic học Hêghen và sự vận dụng của C. Mác trong “Tư bản”” làm đề
tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến nội dung đề tài đã có các công trình nghiên cứu sau:
Nhóm thứ nhất: các công trình về triết học Hêghen nói chung và lôgíc
học của ông nói riêng bao gồm khá nhiều các công trình, mà trước hết phải kể
đến những chú giải do Bùi Văn Nam Sơn thực hiện trong cuốn Bách khoa thư
các khoa học triết học 1 - Khoa học logic [5] của G.W.F. Hêghen do ông
dịch. Trong tác phẩm này, Bùi Văn Nam Sơn đã diễn giải khá chi tiết giúp
người đọc dễ nắm bắt hơn các vấn đề trọng tâm và khó hiểu trong sách của
Hêghen. Tác giả trình bày và đánh giá từng nội dung của học thuyết về tồn
tại, về bản chất, về khái niệm một cách đầy đủ và khá sâu sắc.
Lôgic học của Hêghen hoàn toàn không dễ tiếp cận và dễ hiểu. Trong
việc nghiên cứu nó có thể dựa vào những chỉ dẫn phương pháp luận quan
trọng trong Bút ký triết học [13] của Lênin ở một số điểm như cách đọc
Hêghen trên tinh thần duy vật, những đóng góp và hạn chế của Hêghen trong
lôgic học. Và cũng trong Bút ký triết học, Lênin luôn trở lại nghiên cứu Tư
bản của Mác để chỉ rõ phương pháp phân tích và trình bày trong tác phẩm đồ
sộ này phải là phương pháp trình bày phép biện chứng nói chung. Như vậy,


8
có thể nói một cách ngắn gọn lôgic sự vận động của nhận thức trong bộ Tư
bản là sự vận động của nhận thức từ đối tượng hiện hữu trực quan cảm tính
(hàng hoá) tới việc khám phá bản chất, những quy luật của chủ nghĩa tư bản.
Trong cuốn Giới thiệu tác phẩm kinh điển triết học Mác – Lênin [10] của
Khoa Triết học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn đã cho thấy
“Bút ký triết học chủ yếu là những ghi chép từ “Khoa học logic” và “những
bài giảng về lịch sử triết học của Hêghen” góp phần làm giảm bớt khó khăn
khi đọc Hêghen.

E.V. Ilencôv đã nghiên cứu và có những nhận định có tính gợi mở đối
với quan niệm của Hêghen về tư duy. Trong cuốn lôgic học biện chứng [22]
ông đã trình bày “chính trên con đường phát triển của lôgic học nổi lên vấn đề
bản chất của tư duy con người”, và các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là
Hêghen đã có những đóng góp to lớn cho việc phát triển quan niệm về tư duy
như một thực thể - chủ thể hoạt động tích cực. Trên cơ sở tiếp thu có phê phán
quan niệm của Hêghen về tư duy và qua việc khảo sát sự ứng dụng “Lôgic
học” viết hoa – Tư bản của Mác ở những điểm mấu chốt như “mâu thuẫn”,
“biện chứng của cái phổ biến và cái đơn nhất”, “đi từ trừu tượng đến cụ thể”,
“thống nhất lịch sử và lôgic, “nguyên tắc toàn diện - hệ thống”, tác giả đã đề
xuất cách hiểu mang tính đột phá cách mạng về tư duy.
Tìm hiểu lôgic học Hêghen phải hiểu các thuật ngữ “ý niệm lôgic”, “tư
duy”, “tinh thần tuyệt đối” trong học thuyết của ông. Muốn vậy chúng tôi đã
tìm đến cuốn Vấn đề tư duy trong triết học Hêghen [3] của hai tác giả Nguyễn
Trọng Chuẩn và Đỗ Minh Hợp. Trên lập trường macxit, cuốn sách đã phân
tích một cách sâu sắc cách thức Hêghen đã đặt ra và giải quyết vấn đề tư duy
trong học thuyết của ông. Việc nghiên cứu vấn đề tư duy, quan niệm về tư
duy trước hết là của triết học cổ điển Đức và cũng là nguồn gốc lý luận trực


9
tiếp của chủ nghĩa Mác nói chung và của quan điểm về tư duy của chủ nghĩa
Mác nói riêng.
Giáo trình Lịch sử triết học cổ điển Đức [11] do tập thể các giảng viên
khoa Triết học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội biên
soạn và nghiệm thu năm 2010 là công trình giáo khoa đã trình bày đầy đủ
nhất ở Việt Nam cho đến nay về tất cả các nhà triết học cổ điển Đức, đặc biệt
có một nội dung về hệ thống lôgic của Hêghen. Luận văn đã sử dụng từ cuốn
giáo trình trên một số đoạn trích trong tác phẩm Khoa học logic và những nội
dung cơ bản của lôgic học Hêghen để làm sáng tỏ hơn về nội dung nghiên

cứu của đề tài.
Nhóm thứ hai: Bộ Tư bản của Mác và các tác phẩm nghiên cứu về bộ
Tư bản. Bộ Tư bản trình bày hệ thống các phạm trù kinh tế (cái lôgic) phù
hợp với tiến trình phát triển của hiện thực (cái lịch sử). Khi nghiên cứu cơ thể
kinh tế xã hội tư bản, Mác đã tìm ra trật tự các phạm trù kinh tế như sau:
Hàng hoá - Tồn tại; Tiền tệ - hiện tồn; Quyển I: Quá trình sản xuất của tư bản-
Bản chất; Quyển II: Quá trình lưu thông của tư bản - Hiện tượng; Quyển III:
Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa - Hiện thực. Sự triển khai lôgic
này trùng hợp với lịch sử của hiện thực. Luận văn đã sử dụng nhiều đoạn trích
từ bộ Tư bản, đặc biệt là tập 23 trong toàn tập của C. Mác&Ph.Ăngghen.
Cũng trong tác phẩm Giới thiệu tác phẩm kinh điển triết học Mác –
Lênin [10], đã nhắc tới ở trên, khi nghiên cứu về Tư bản, người giới thiệu đã
đã sơ lược so sánh lôgic của Tư bản với Khoa học lôgic của Hêghen để thấy
rõ sự kế thừa những giá trị lôgic học biện chứng của Hêghen bởi Mác để xây
dựng hệ thống lôgic của riêng mình, và cũng chỉ ra những hạn chế nhất định
trong quan điểm lôgic học của Hêghen. Đặc biệt, giới thiệu tác phẩm Tư bản
trong cuốn sách này đã nhấn mạnh, nó là một công trình bách khoa thư khoa
học xã hội theo đúng nghĩa. Tư bản vừa là một tác phẩm kinh tế, vừa có nội


10
dung triết học và sử học sâu sắc. Như vậy, một tác phẩm vĩ đại thì không dễ
dàng khám phá, nó bắt người đọc phải tỉ mỉ, đào sâu nghiên cứu để thấy được
đặc điểm kết cấu lôgic của Tư bản.
Bộ Tư bản là một cuốn sách khó cả về nội dung cũng như phương pháp
nghiên cứu và trình bày, vì vậy đọc để tóm lược nội dung của nó là một việc
không dễ dàng. Giúp học viên giảm bớt khó khăn xử lý tài liệu gốc lấy từ Tư
bản còn có những cuốn sách nghiên cứu về Tư bản của các học giả nước
ngoài được dịch sang tiếng việt như cuốn Những vấn đề về phép biện chứng
trong bộ Tư bản [23] của M. Rôdentan, là tài liệu tham khảo quý để thêm hiểu

những phân tích của Mác về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ngay từ mục “Vào
đề” của cuốn sách, phần “Ý nghĩa triết học của bộ tư bản của C.Mác” đã trích
“Mác không để lại “Lôgic học” (với L viết hoa) cho chúng ta, nhưng Mác đã
để lại cho chúng ta lôgic của bộ Tư bản” – [13, 359].
Cũng trong cuốn sách này, tác giả M.Rôdentan nhấn mạnh lôgic học
Hêghen có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống lôgic duy vật biện
chứng “Liên hệ chặt chẽ với vấn đề xây dựng lôgic biện chứng, Lênin đã
nghiên cứu bộ Tư bản của Mác mà ông coi là sự đối lập duy vật với lôgic duy
tâm của Hêghen, nhưng là sự đối lập đã tiếp thu và phát triển tất cả những gì
quý báu nhất của Hêghen” [24, 536].
Ngoài ra còn có bộ sách của Đ.I. Rôdenbe Giới thiệu Quyển I bộ “Tư
bản” của C. Mác [ 26 ] và Giới thiệu Quyển II bộ “Tư bản” của C. Mác [27]
đã giúp người đọc Tư bản giảm bớt hơn nữa những khó khăn. Hai cuốn sách
đó hướng dẫn cách đọc kỹ và chậm rãi, đọc từng chương, từng tiết một, thậm
chí thường xuyên ôn lại phần đã đọc. “Thí dụ, sau khi đọc xong chương II và
chương III quyển I bộ “Tư bản” thì ta sẽ hiểu chương I rõ ràng hơn nhiều. Và
càng đọc các chương sau, chúng ta càng hiểu các chương trước rõ hơn và sâu
hơn” [26, 10] có như vậy thì mới giúp chúng ta nắm được cả phương pháp và


11
nội dung của Tư bản. Từ đó giúp cho người đọc thấy rõ hơn những lý luận đã
được nghiên cứu, hay còn gọi là đối tượng nghiên cứu và trình tự nghiên cứu
các quyển, chương, phần… của Tư bản.
Cuốn sách Lịch sử phép biện chứng macxit (Từ khi xuất hiện chủ nghĩa
Mác đến giai đoạn Lênin) [40] - Phần thứ hai: “Sự xây dựng cơ sở và phát
triển phép biện chứng duy vật trong bộ Tư bản của Mác” đã cho thấy rõ hơn
sự tương ứng giữa hệ thống các phạm trù lôgic và kinh tế học được nghiên
cứu thông qua việc nghiên cứu sự vận động của các phạm trù lôgic. Kết cấu
lôgic của bộ Tư bản là kết cấu lôgic vĩ mô hay nói cách khác là kết cấu lôgic

tổng quát, kết cấu ấy nêu đặc trưng của nó như một tác phẩm hoàn chỉnh.
Việc làm sáng tỏ kết cấu ấy có ý nghĩa to lớn đối với việc giải quyết vấn đề
này một cách khoa học.
Như vậy, có thể thấy tài liệu đề cập trực diện đến vấn đề luận văn
nghiên cứu không có nhiều, trong khi việc nghiên cứu lôgic học Hêghen và sự
vận dụng của C.Mác trong bộ Tư bản là một việc khó khăn và nó càng khó
hơn khi số ít ỏi các công trình nêu trên chưa thể cung cấp đầy đủ và sâu sắc
những gì có thể đi vào nội dung luận văn. Qua quá trình tìm hiểu và lựa chọn
đề tài, học viên thấy được sự cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này để hiểu sâu
sắc hơn lôgic học của Hêghen và sự vận dụng của Mác trong bộ Tư bản nhằm
phục vụ tốt hơn cho việc nghiên cứu và giảng dạy các môn học Mác - Lênin.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: giới thiệu, phân tích một số nội dung lôgic – phương pháp
chủ yếu được Mác vận dụng trong Tư bản từ lôgic học Hêghen.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số nội dung cơ bản của lôgic học Hêghen thể hiện qua tác
phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học, tập 1.


12
- Giới thiệu kết cấu và nội dung chủ yếu của Tư bản theo khuôn mẫu
Khoa học lôgic của Hêghen.
- Từ đó làm rõ sự kế thừa, chọn lọc vận dụng của Mác lôgic học của
Hêghen vào nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong tác
phẩm Tư bản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng: Lôgic học Hêghen và sự vận dụng của Mác trong Tư bản
* Phạm vi nghiên cứu: luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu sau:
- Tác phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học, tập 1 - Khoa học
lôgic

- Lôgic khách quan trong Bộ Tư bản của C.Mác
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của các nhà kinh điển
triết học Mác – Lênin về tư duy và lôgíc học.
* Phương pháp nghiên cứu: Thống nhất lịch sử và lôgíc, phân tích và
tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, đối chiếu văn bản…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bước đầu khái quát nội dung lôgic học Hêghen và sự kế thừa
của Mác trong Tư bản, đặc biệt làm rõ sự vận dụng lôgic Hêghen vào các
phạm trù logic khách quan trong Tư bản của Mác. Từ đó làm lộ rõ ý nghĩa
của việc nghiên cứu một số vấn đề lôgíc học áp dụng vào thực tiễn.


13
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lý luận: Luận văn cung cấp một cách hệ thống bao quát lôgic
học Hêghen và sự kế thừa của Mác các phạm trù lôgic khách quan trong Tư
bản.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho
sinh viên, học viên sau đại học nghiên cứu những nội dung liên quan đến
lôgic học và phép biện chứng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 2 chương, 6 tiết.




14

CHƯƠNG 1. LÔGIC HỌC HÊGHEN VÀ TƯ BẢN CỦA C. MÁC:
KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
1. 1. Giới thiệu về lôgic học Hêghen
1.1.1. Sơ lược về vị trí của lôgic học trong hệ thống triết học Hêghen
Triết học của Hêghen là hệ thống triết học phong phú nhất, hoàn thiện
nhất trong lịch sử triết học trước Mác. Hêghen đã tổng kết hầu như toàn bộ tư
tưởng triết học đã có ở phương Tây, nghiên cứu các học thuyết của các bậc
tiền bối để tìm ra ý nghĩa của chúng ở mỗi giai đoạn lịch sử. Ông đã dành rất
nhiều nỗ lực cho việc nghiên cứu triết học và cuối cùng xây dựng hệ thống
triết học bao gồm lôgic học, triết học tự nhiên và triết học tinh thần. Trong hệ
thống đó lôgic học là bộ phận đầu tiên và sinh động nhất.
Ăngghen đã nhận xét rằng trong triết học và lôgic học trước Mác, chỉ có
Arixtôt và Hêghen là những người đã nghiên cứu các phạm trù lôgic sâu sắc
hơn cả. Arixtôt gắn chặt học thuyết của mình về các phạm trù với học thuyết
lôgic chung nhất của mình, nhất là với lý thuyết suy luận diễn dịch. Đến
Hêghen là sự phát triển cao hơn, là một bậc thang mới trong việc nghiên cứu
về học thuyết lôgic.
Để hiểu được lôgic học của Hêghen, trước hết phải hiểu được các thuật
ngữ mà ông đã dùng như: Ý niệm và ý niệm tuyệt đối. Ý niệm là tư duy tuyệt
đối đồng nhất với chính mình, điều này ám chỉ sự vật ở giai đoạn đầu của sự
phát triển, khi mà toàn bộ năng lực của nó chưa biểu hiện ra, tựa như bản chất
còn đang khép kín. Như vậy, ý niệm chính là tính khả niệm (tính có thể suy
tưởng được, có thể hiểu được) của mọi sự vật, là tư duy kích hoạt tất cả, và tất
cả đều là một sự phản ánh, một sự tham dự vào tư duy. Vậy thực chất ý niệm
chính là tư duy tự suy tưởng, và do đó, suy tưởng về tất cả những gì có thể
suy tưởng được. Ý niệm trước hết là một cái phổ biến, là cả một vũ trụ mà ta


15
không bao giờ ra khỏi nó được. Nó là Tư duy, và bất kể nó là gì và đang suy

tưởng – thì vẫn luôn tự khẳng định chính mình như là tư duy, và như thế bao
giờ cũng đồng nhất với chính mình. Ý niệm chính là đối tượng nghiên cứu
của Khoa học lôgic. “Ý niệm tự cho thấy như là tư duy tuyệt đối đồng nhất
với chính mình, và điều này lập tức tự cho thấy là hoạt động thiết định
chính mình đối lập lại với chính mình và để tồn tại cho-mình và chỉ tồn tại
ở trong-nhà-nơi-chính-mình trong cái tồn tại khác này. Như thế Khoa học
[Triết học tư biện] chia làm ba phần…” [5, 82]
1
.
Hệ thống triết học Hêghen có cấu trúc theo kiểu tam đoạn thức: chính
đề - phản đề - hợp đề:
(1) Tinh thần tuyệt đối tự mình
(2) Tinh thần tuyết đối ở tồn tại khác
(3) Tinh thần tuyệt đối cho mình
Để hiểu rõ cấu trúc trên, hãy bắt đầu từ một điều đã biết: thông thường
các nhà duy vật cho rằng con người là sản phẩm của tự nhiên, tức là qua một
quá trình tiến hoá, phát triển lâu dài giới tự nhiên sẽ sản sinh ra con người.
Nhưng Hêghen lại không chấp nhận quan niệm đó, ông cho rằng, một khi giới
tự nhiên có thể sản sinh ra con người thì trong giới tự nhiên đã phải có con
người dưới dạng tiềm tàng rồi. Đó chính là tinh thần tuyệt đối đang ở giai
đoạn tự mình, trong đó ẩn chứa cả giới tự nhiên và con người hiện thực.
Hoặc có thể biểu thị hệ thống triết học của Hêghen bằng sơ đồ dễ hiểu
hơn: (1) Con người lý tưởng (con người tiềm tàng) – (2) Giới tự nhiên – (3)
Con người hiện thực (xã hội).


1
Chúng tôi quy ước: trong tài liệu số 5 (Bách khoa thư các khoa học triết học, tập 1), chỗ nào số chỉ trang
được in nghiêng là phần chú giải của Bùi Văn Nam Sơn, còn in đứng là của chính Hêghen.



16
Tương ứng với ba giai đoạn phát triển trên đây của tinh thần tuyệt đối
là ba lĩnh vực nghiên cứu:
(1) Lôgic học nghiên cứu con người lý tưởng, hay tinh thần tuyệt đối ở
giai đoạn sơ khai, giai đoạn tự mình. Điều đó được trình bày trong tác phẩm
Khoa học logic, còn gọi là Đại lôgic và tập I của Bách khoa toàn thư các khoa
học triết học, hay Tiểu lôgic.
(2) Triết học tự nhiên nghiên cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn tồn tại
khác.
(3) Triết học tinh thần (xét về cấu trúc hệ thống thì bao gồm Hiện tượng
học tinh thần, triết học pháp quyền, triết học lịch sử, triết học tôn giáo và
thẩm mỹ học) nghiên cứu con người hiện thực trong những hoạt động xã hội
của nó.
Lôgic học là khoa học về tư duy. Lôgic học của Hêghen cũng không
phải là ngoại lệ. “Đối tượng của nó là tư duy, hay nói một cách cụ thể hơn, tư
duy được nhận thức trong các khái niệm, về cơ bản được xem xét trong lôgic
học” [Trích theo 11, 226]. Hêghen cho rằng “Lôgic học là Khoa học về Ý
niệm thuần tuý, tức là, Ý niệm trong môi trường trừu tượng của tư duy”
[5, 91]. Và Hêghen đã định nghĩa đối tượng lôgic học của mình cụ thể hơn:
Có thể nói, lôgic học là khoa học về tư duy, các khái niệm và quy luật của nó.
Nhưng chính bản thân tư duy thì mang bản chất chung, phổ quát, hay là môi
trường trong đó ý niệm thể hiện như là ý niệm lôgic. Ý niệm là tư duy, nhưng
không phải là tư duy hình thức, mà là một tổng thể các khái niệm và quy luật
không ngừng phát triển của nó.
Như nhiều nhà lôgic học trước đây, tư duy theo cách hiểu Hêghen trước
hết là khả năng hoạt động, khả năng suy tư. Đó chính là trí tuệ con người, là
khả năng lý trí của con người, khả năng nhận thức lý tính, lý luận đối lập với



17
khả năng cảm tính. Nhưng Hêghen không phải là nhà duy lý cực đoan, mà
vẫn khẳng định vai trò nhất định của nhận thức cảm tính. Theo nghĩa rộng, thì
tư duy theo cách hiểu của ông bao trùm mọi khả năng nhận thức của con
người, trong đó cả khả năng cảm tính và kinh nghiệm. Đây là điểm khác căn
bản giữa Hêghen với các nhà duy vật và các nhà duy cảm trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa cảm tính và lý tính. Ở đây cần phải thấy:
Thứ nhất, tư duy với tính cách là đối tượng của lôgic học không phải là
tư duy cá thể, mà là tư duy nói chung, biểu hiện thông qua tư duy của những
cá thể cụ thể, chi phối tư duy của những cá thể cụ thể. Tư duy còn là cái phổ
quát trong tất cả các biểu tượng, và nói chung trong mọi hoạt động của tinh
thần. Tư duy bao quát hết mọi khả năng hoạt động tinh thần của con người.
Như vậy, khái niệm “tư duy” mang tính xuất phát đối với Hêghen có liên
quan tới thực thể chung của tinh thần, của lý tính. Thông qua lý tính, Hêghen
giải thích giới tự nhiên và tinh thần hiện thực như là những biểu hiện của ý
niệm lôgic. Theo Hêghen, giống như tinh thần, giới tự nhiên cũng có lý tính,
cũng mang tính thần thánh, cũng là biểu hiện của ý niệm.
Thứ hai, tư duy theo cách hiểu Hêghen không phải chỉ là khả năng chủ
quan thuần tuý của riêng con người, mà phải được vật hoá, phải được khách
quan hoá. “Tương ứng với các quy định này, những tư tưởng có thể được
gọi là những tư tưởng khách quan…Vì thế, Lôgic học trùng khít với Siêu
hình học, tức với khoa học về những sự vật được nắm bắt ở trong tư
tưởng, tức trong những gì được xem là để diễn tả những tính bản chất của
sự vật” [5, 110]. Có thể cho rằng trong giới tự nhiên có giác tính, lý tính thì
không khác gì nói đó là tư tưởng đã được khách quan hóa. Như vậy, phạm vi
nghiên cứu của lôgic học không chỉ là tư duy chủ quan như các quan niệm
trước đây, mà mở rộng ra toàn bộ giới tự nhiên (được hiểu là tư duy ở dạng


18

tồn tại khác) và toàn bộ lĩnh vực hoạt động xã hội của con người (được hiểu là
tư duy cho mình - fuer sich).
Do vậy, lôgic học phân thành lôgic chủ quan, tức bộ phận nghiên cứu
tư duy với tính cách là khả năng chủ quan của con người, và lôgic khách
quan, tức bộ phận nghiên cứu tư duy tồn tại dưới dạng các sự vật. “Lôgic
khách quan, như vậy, thay thế chỗ cho cái siêu hình học trước đây… Lôgic
học chủ quan – đó là lôgic học khái niệm” [Trích theo 11, 229].
Thứ ba, tư duy không phải là một cái gì đó tĩnh tại, mà là một quá trình
phát triển. Hêghen diễn tả sự phát triển của tư duy cũng như mọi vật bằng hai
cụm từ ám chỉ trạng thái tồn tại của sự vật: tự mình (an sich), và cho mình
(fuer sich). Khi nói đến bản chất tự mình và cho mình, tức ám chỉ bản chất
không phải là cái gì đó tĩnh tại, mà như một quá trình. Như vậy, theo Hêghen,
tất cả những khái niệm, những phạm trù lôgic học, tất cả những quy luật lôgic
học không phải là những thứ bất biến, có sẵn, mà như một quá trình phát triển
theo hướng hoàn thiện.
Quan niệm của Hêghen về tư duy với tính cách là đối tượng lôgic học
có thể đúc kết trong luận điểm xuyên suốt toàn bộ hệ thống của ông: “Cái gì
hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp-lý tính” [5, 59]. Luận điểm này
lần đầu tiên được ông phát biểu trong “Lời tựa” cho tác phẩm Những nguyên
lý của triết học pháp quyền và được ông tái khẳng định trong Tiểu lôgic. Hiện
thực trong cách hiểu của ông khác với tồn tại. Tồn tại là nhìn sự vật một cách
bề ngoài, giản đơn khẳng định rằng sự vật đó hiện hữu, nghĩa là có. Còn hiện
thực là một phạm trù có nội dung sâu sắc hơn, chỉ ra trạng thái hiện thời của
vật đang tồn tại đó như thế nào, xu hướng phát triển của nó ra sao. Hiện thực
tức là tồn tại trong tính tất yếu của cái tồn tại này, chỉ cho chúng ta thấy vật
đang tồn tại ra sao, ở trạng thái sinh thành hay tiêu vong. Như vậy, luận điểm
này khẳng định tính thống nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tư tưởng và hiện


19

thực như một chân lý khách quan và tất yếu. Tư tưởng phải được hiện thực
hoá cũng như hiện thực phải được tư tưởng hoá. Sự thống nhất giữa tư tưởng
và hiện thực không phải như một cái gì đó xong xuôi mà là một quá trình.
Các tác phẩm Khoa học lôgic và tập 1 của Bách khoa toàn thư các
khoa học triết học đều nghiên cứu những phạm trù lôgic như là hệ thống phát
triển, gắn liền và thống nhất với nhau. Chính trong các tác phẩm này Hêghen
đã trình bày một cách đầy đủ và sâu sắc phép biện chứng trên cơ sở duy tâm.
Theo Mác, phép biện chứng của Hêghen (hay như chính Hêghen gọi là
phương pháp tuyệt đối) là trừu tượng hóa sự vận động, phát triển của thế giới
hiện thực khách quan. Phép biện chứng này được Hêghen hình dung như là sự
vận động dưới hình thức cực kỳ trừu tượng, sự vận động của lý tính thuần tuý.
Như vậy cấu trúc lôgic của Hêghen mang tính chất trừu tượng thuần tuý.
Hêghen đã xem xét hệ thống những phạm trù lôgic phát triển như là sơ đồ tiên
nghiệm mà sự phát triển của thế giới với tư cách là sản phẩm phải khuôn theo.
Lối tư duy của Hêghen mang đậm tính chất tư biện, trừu tượng, chứ thực ra,
những phạm trù lôgic học của ông suy cho cùng cũng phải được rút ra từ thế
giới hiện thực khách quan.
1.1.2. Khái quát về cấu trúc và nội dung cơ bản của “Tiểu lôgic”
Tiểu lôgic của Hêghen cũng được phân chia theo lối tam đoạn thức:
chính đề - phản đề - hợp đề, đó là:
(1) Học thuyết về tồn tại
(2) Học thuyết về bản chất
(3) Học thuyết về khái niệm
Trong đó, (1) và (2) là lôgic khách quan còn (3) là lôgic chủ quan. Thứ
tự đi từ tồn tại đến bản chất, rồi từ đó đi tới khái niệm là quá trình nhận thức
đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, phù hợp với các giai đoạn


20
của nhận thức, nó cũng chính là con đường biện chứng của sự phát triển nhận

thức của con người, như sau này Lênin đã nhận xét trong “Bút ký triết học”.
(1) Học thuyết về tồn tại: Hêghen là người đầu tiên ý thức được vấn đề
điểm khởi đầu trong nghiên cứu khoa học: “Đối với sự bắt đầu mà triết học
được tạo ra, có vẻ như nó cũng bắt đầu với một tiền-giả định chủ
quan giống như các ngành khoa học khác, đó là, phải tạo nên một đối
tượng đặc thù - ở đây là tư duy – làm đối tượng cho tư duy tương tự như
không gian, con số,… trong các ngành khoa học khác…triết học tự cho
thấy như là một vòng tròn quay trở lại vào trong chính mình; vòng tròn
ấy không có sự bắt đầu theo nghĩa của các ngành khoa học khác…”[5,
79].
Hêghen đưa ra những nguyên tắc lựa chọn xuất phát điểm:
Thứ nhất, không thể lựa chọn tuỳ tiện điểm khởi đầu theo ý kiến chủ
quan của mình. Xuất phát điểm là cái hoàn toàn khách quan, phụ thuộc vào
từng đối tượng cụ thể. Nó phải là cái hiện hữu.
Thứ hai, điểm khởi đầu phải là cái đơn giản nhất. Nó là bản thân sự vật,
nhưng còn ở giai đoạn phát triển sơ khai nhất. Nó tồn tại (hữu thể) sơ khai
nên không khác với hư vô (vô thể) là bao.
Thứ ba, điểm khởi đầu có khả năng vận động và phát triển đi đến điểm
cuối. Nó là cái đơn giản nhất nhưng đồng thời lại chứa đựng toàn bộ quá trình
phát triển của sự vật, chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của sự vật dưới dạng tiềm
tàng. Chính mâu thuẫn cơ bản này là động lực cho sự vận động và phát triển
của sự vật. Bản thân điểm khởi đầu là sự sinh thành, nói về điểm khởi đầu
chính là nói đến sự vận động tiếp theo. Điểm khởi đầu cũng phải là điểm cuối,
điểm kết thúc chưa phát triển.


21
Thứ tư, về mặt nhận thức cần thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa
lôgic và lịch sử trong xác định điểm khởi đầu. Điểm khởi đầu trong khoa học,
về lý thuyết, cũng cần là điểm khởi đầu trong lịch sử. Trong logic học của

mình, Hêghen muốn hệ thống hoá lại toàn bộ tiến trình triết học, trong đó mỗi
phạm trù lôgic học tương ứng với một thời kỳ phát triển của lịch sử tư tưởng.
Lôgic học bắt đầu từ phạm trù “tồn tại thuần tuý” mà Pacmênit là người đầu
tiên có công xây dựng: “Lôgic học khởi đầu từ cái xuất phát điểm mà chính
lịch sử triết học đã bắt đầu theo đúng nghĩa của từ này. Và cái điểm khởi đầu
này, chúng ta tìm thấy trong các nhà triết học Êlê, chủ yếu là ở Pácmênit,
người đã hiểu tồn tại là cái tuyệt đối và khẳng định: chỉ có cái tồn tại, không
thể có cái không tồn tại. Học thuyết của Pacmênit có thể coi là xuất phát điểm
của triết học theo nghĩa hiện đại của từ này” [Trích theo 11, 236].
Theo Hêghen phạm trù đầu tiên làm điểm xuất phát trong tư duy chúng
ta là tồn tại thuần tuý “Tồn tại thuần tuý là cái bắt đầu” [5, 295]. Lôgic học
bắt đầu từ tồn tại thuần tuý là cái trực tiếp đơn giản, thuần tuý có nghĩa là
không có một nội dung nào, không có mối quan hệ quy chiếu hay sự quy định
nào hết. Sự khởi đầu của tư duy là tồn tại và nó không có tính quy định nào
hết, cái không có tính quy định nào cả thì chẳng khác gì hư vô.
Học thuyết tồn tại (hữu thể) chia làm ba phần được sắp xếp theo lối tam
đoạn thức: (1) Chất – (2) Lượng – (3) Độ
Hình thức đầu tiên của tồn tại hiện có chính là chất: “Tồn tại-hiện có là
tồn tại với một tính quy định; tính quy định này [được mang lại] như là
tính quy định trực tiếp hay tính quy định tồn tại đơn thuần: đấy là Chất”
[5, 326]. Từ chất chuyển sang lượng, lượng và chất thống nhất với nhau ở hạn
độ.
Phạm trù “Chất”: Tồn tại hữu thể thuần tuý là dạng tồn tại sơ khai nhất,
đơn giản nhất hoàn toàn chưa xác định, nên đó cũng là cái không tồn tại, tức


22
hư vô. Hư vô là mặt đối lập của tồn tại (hữu thể), là sự phủ định của tồn tại.
Sự thống nhất của hai phạm trù này là sự sinh thành. Kết quả của sự sinh
thành là xuất hiện một cái gì đó. Đây là tồn tại hiện diện, tức là một cái gì đó

cụ thể, hoàn toàn xác định về chất. Nhưng cái gì đó chỉ có thể là nó trong mối
quan hệ với cái khác. Từ lập luận đó Hêghen xây dựng phạm trù Chất. Chất là
tổng thể những đặc tính của sự vật, thể hiện sự vật là nó, phân biệt nó với sự
vật khác.
Chất chỉ có thể là chất trong mối quan hệ với lượng. Và phần (1) kết
thúc, chuyển sang phần (2). Hêghen phân tích hai dạng lượng. Lượng trừu
tượng là lượng thuần tuý tách rời với chất. Trên thực tế nó không có. Còn
lượng cụ thể bao giờ cũng nằm trong mối quan hệ với chất. Sự thống nhất
giữa chất và lượng gọi là độ. Độ là sự quay trở lại phạm trù chất nhưng ở nấc
thang cao hơn. Nhận thức sự vật ở cấp độ chất là nhận thức bề ngoài. Trên
thực tế, chất của sự vật thống nhất với lượng của chúng, tức là độ. Bước sang
phần (3), Hêghen phân tích các dạng bước nhảy, chuyển hoá từ chất này sang
chất khác. Có những bước nhảy diễn ra từ từ, tiệm tiến, được gọi là tiến hoá.
Đây là cách vận động của đại bộ phận các sự vật tự nhiên. Nhưng bên cạnh đó
còn có những kiểu nhảy vọt mang tính đột biến, nhất là trong sự phát triển xã
hội và được gọi là cách mạng.
Như vậy, nội dung chủ yếu của học thuyết về tồn tại bao gồm cơ chế
vận hành của quy luật từ sự biến đổi dần dần về lượng dẫn đến sự biến đổi về
chất và ngược lại như là một quy luật cơ bản của phép biện chứng.
(2) Học thuyết về bản chất
Sau khi khảo sát các phạm trù thuộc lĩnh vực Tồn tại, Hêghen tiếp tục
hướng đến Bản chất: "Tồn tại hay sự trực tiếp - thông qua sự tự-phủ định -
là sự trung giới với mình và sự quan hệ với chính mình, và vì thế cũng là
sự trung giới tự thủ tiêu thành quan hệ với chính mình hay thành sự trực


23
tiếp: [tồn tại hay sự trực tiếp ấy] là Bản chất" [5, 401]. Có thể hiểu đơn
giản hơn, bản chất là cái bên trong sự vật, nhận thức sự vật ở cấp độ tồn tại là
nhận thức bề ngoài, còn nhận thức sự vật ở cấp độ bản chất là nhận thức bên

trong. Vậy bản chất sâu sắc hơn tồn tại. Ở cấp độ tồn tại, ta chỉ có thể biết
rằng sự vật đang tồn tại, nghĩa là đang có, đang hiện hữu, chỉ có ở cấp độ bản
chất, tri thức của chúng ta mới biết được rằng sự vật đó là cái gì.
Như vậy, Tồn tại ở đây không bị tiêu biến mà bị hạ thấp xuống thành
vẻ ngoài. “… Do đó bản chất là tồn tại như là ánh hiện [trở thành vẻ
ngoài] ở trong chính mình” [5, 411].
Khảo sát lôgic của lĩnh vực bản chất chuyển thành sự phê phán đối với
vẻ ngoài này. Sự phê phán chính là sự phủ định nhất định đối với cái bản thân
đã được xác định như là sự phủ định – chính là phủ định cái phủ định, tức là
khẳng định. Vận động nội tại của bản chất gọi là sự phản tư của bản chất hay
sự “ánh hiện ở trong chính mình”. Sự phản tư được hiểu đó chính là sự phản
chiếu, sự khúc xạ, tức tư duy không hành xử với đối tượng hay nội dung của
mình một cách trực tiếp, trái lại, nó quay lưng lại với chính mình, hướng sự
chú ý tới sự khác biệt của sự vật cũng như đến sự khác biệt của chính mình
với sự vật. Do đó hai quy định thuần tuý của sự phản tư là sự đồng nhất và sự
khác biệt:
Bản chất là sự đồng nhất tất cả những đặc tính bên trong cấu thành sự
vật, quy định sự vật là chính nó, phân biệt nó với sự vật khác. Hêghen bắt đầu
học thuyết về bản chất của ông từ phạm trù đồng nhất. Bản chất là sự đồng
nhất. Nhưng đồng nhất ở đây được hiểu không phải như đồng nhất lôgíc hình
thức: A=A, mà là đồng nhất cụ thể, đồng nhất biện chứng, trong đó chứa
đựng cả những sự khác biệt “Bản chất là sự đồng nhất thuần tuý và là sự
“ánh hiện” ở trong chính mình chỉ là vì nó là tính phủ định quan hệ
chính mình với chính mình, do đó, là việc đẩy mình ra khỏi chính mình;


24
nên nó thiết yếu chứa đựng quy định về sự khác biệt [hay sự phân biệt]”
[5, 441]. Như vậy bản chất cũng còn là sự khác biệt. Nói rõ hơn, đồng nhất và
khác biệt không tách rời nhau.

Bản chất đồng nhất là tính phủ định quan hệ với mình, nhưng quan hệ
với mình của tính phủ định là quan hệ phủ định với mình, nghĩa là vận động
thuần tuý của việc dị biệt hoá mình với chính mình. Với tư cách ấy, bản chất
là hành vi tuyệt đối của việc tự đẩy mình ra khỏi chính mình, tức là nó thiết
yếu chứa đựng sự quy định của sự khác biệt. Từ sự khác biệt trong chính nó
sẽ rút ra được sự khác nhau của các bộ phận, yếu tố cấu thành hay các giai
đoạn vận động khác nhau của đối tượng hoặc của nó với các đối tượng khác.
Hêghen phân tích quá trình phát triển của khái niệm khác nhau, từ chỗ
khác nhau bề ngoài tới sự khác nhau căn bản tạo thành các mặt đối lập, rồi
chuyển sang mâu thuẫn.
Học thuyết bản chất của Hêghen cũng chia làm ba phần được sắp xếp
theo tam đoạn thức: (1) Bản chất – (2) Hiện tượng - (3) Hiện thực
Trong phần này Hêghen đã trình bày quy luật mâu thuẫn, và chính nó
trở thành quy luật chứa đựng hai vế thống nhất và đấu tranh rất rõ trong quan
hệ giữa các mặt đối lập. Hai khía cạnh này trong quan hệ giữa các mặt đối lập
không tách biệt nhau. Thống nhất phát triển hướng tới đấu tranh, ngược lại,
đấu tranh rồi cũng trở về cái thống nhất. Quy luật mâu thuẫn dưới dạng hoàn
chỉnh đó là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Bên cạnh đó
Hêghen cũng đã trình bày các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng như:
hiện tượng - bản chất, hình thức - nội dung, tất nhiên - ngẫu nhiên, khả năng -
hiện thực, nguyên nhân - kết quả.
Cặp phạm trù đầu tiên mà Hêghen đề cập đến là Bản chất - hiện tượng.
“Bản chất phải được xuất hiện ra…; và sự ánh hiện đã phát triển chính


25
là hiện tượng” [5, 516]. Hiện tượng bao giờ cũng thể hiện bản chất. Khác với
bản chất, hiện tượng là cái bề ngoài, dễ biến đổi. Hêghen phê phán cách giải
quyết tách biệt mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng của I.Cantơ, khiến
ông khẳng định chúng ta chỉ nhận thức được hiện tượng của sự vật chứ không

nhận thức được bản chất của chúng. Ngược lại, Hêghen luôn đặt bản chất
trong mối quan hệ với hiện tượng. Ông cũng đề cập tới vấn đề giả tượng. Giả
tượng cũng thể hiện bản chất nhưng quanh co, phức tạp. Nó càng cho thấy sự
phức tạp khi đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.
Quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập được thể hiện
trong quan hệ giữa hàng loạt các cặp phạm trù, mà một trong số những cặp đó
là nội dung và hình thức. Để phân biệt các dạng hình thức: “Khi xem xét sự
đối lập giữa hình thức và nội dung, điều cốt yếu cần nhớ là: nội dung không
phải là cái không có hình thức, trái lại, nó không chỉ có hình thức ở bên trong
nó mà còn có hình thức như cái gì ở bên ngoài [ngoại tại] nó. Ta có ở đây sự
hoá đôi của hình thức: một mặt như là sự phản tư ở trong mình, nó là nội
dung; mặt khác như không được phản tư trong mình, nó là hiện hữu ngoại tại,
dửng dưng với nội dung” [5, 526]. Hình thức bên ngoài không ảnh hưởng tới
nội dung, nhưng hình thức bên ngoài cũng tham gia cấu thành nội dung. Nội
dung thường biến động hơn trong khi hình thức lại tương đối bất biến hơn.
Nội dung quy định hình thức, hình thức phải phù hợp với nội dung, nhưng
hình thức cũng tác động trở lại đối với nội dung. Không thể có nội dung phi
hình thức. Ngược lại, hình thức mà không thể hiện nội dung là hình thức
trống rỗng. Mối quan hệ nội dung và hình thức thể hiện rõ nhất trong nghệ
thuật. “Một tác phẩm nghệ thuật thiếu hình thức thích đáng thì không thể gọi
là một tác phẩm nghệ thuật chính là vì lý do đó: nó không phải là một nghệ
phẩm đích thực… Chỉ có những tác phẩm nghệ thuật mà nội dung và hình
thức đồng nhất với nhau mới là những tác phẩm nghệ thuật đích thực” [5,

×