Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.35 KB, 88 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



Trần Thị Đào


Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa vào
xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay







Luận văn ThS. Triết học: 60.22.80

Nghd. : TS. Nguyễn Hàm Giá





















1
MỤC LỤC
Mở đầu 1
1- Tính cấp thiết của đề tài 1
2- Tình hình nghiên cứu của đề tài 3
3- Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4
3.1- Mục đích nghiên cứu 4
3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5
5- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
5.1- Cơ sở lý luận 5
5.2- Phương pháp nghiên cứu 5
6- Đóng góp mới về khoa học của luận văn 5
7- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6
8- Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hoá 7
1.1- Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá 7
1.1.1- Khái niệm “văn hoá” ở Hồ Chí Minh 7
1.1.2- Tính chất của nền văn hoá mới 15

1.1.3- Chức năng của văn hoá 23
1.2- Tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá
trong xây dựng nền văn hoá ở nước ta hiện nay 32
1.2.1- Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá 32
1.2.2- Khai thác giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá để phát triển
đất nước trong điều kiện hiện nay 41
Chương 2: Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong xây dựng
nền văn hoá Việt Nam giai đoạn hiện nay – Một số vấn đề đặt ra và giải
pháp 44
2.1- Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng nền văn hoá nước ta hiện nay 44
2.1.1- Yêu cầu phát triển văn hoá đi đôi với phát triển kinh tế 44


2
2.1.2- Những biểu hiện tiêu cực của nền văn hoá Việt Nam hiện nay 50
2.2- Xây dựng nền văn hoá Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 55
2.2.1- Những định hướng cơ bản của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hoá 55
2.2.2- Một số giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
hiện nay 66
Kết luận 78
Danh mục tài liệu tham khảo 80




3
MỞ ĐẦU

1- TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta
bước vào thời kỳ đổi mới. Ngành văn hoá thông tin cũng bắt đầu cuộc hành trình
đổi mới cùng với cuộc đổi mới đất nước. Cùng vào thời gian ấy, ở phạm vi toàn
cầu, nhân loại bước vào “Thập kỷ thế giới vì sự phát triển của văn hoá” theo
Nghị quyết 41/187 Liên Hợp Quốc thông qua ngày 9-12-1986 mà UNESCO
được giao trách nhiệm phát động, tổ chức.
Năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Cũng với việc khẳng định đường lối công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã
khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và là động lực
của qúa trình phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng lại
tiếp tục khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Mặt khác, chúng ta phải
thấy rằng sự tăng trưởng kinh tế trong hơn 10 năm đổi mới đưa nước ta thoát
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và chỉ nâng được mức thu nhập theo đầu người
lên một ít mà đã làm bộc lộ bao nhiêu vấn đề xã hội - văn hoá bức xúc. Rõ ràng,
kinh tế tăng trưởng thì phải kèm theo việc giải quyết có hiệu quả các vấn đề văn
hoá - xã hội; nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần đều phải cùng xây dựng hài
hoà, thúc đẩy lẫn nhau để phát triển văn hoá, xây dựng con người toàn diện. Xây
dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc là nhiệm vụ cơ bản lâu dài. Hai nhiệm vụ này phải được thực hiện
đồng thời như văn kiện Đại hội VIII khẳng định: “ Qua 10 năm đổi mới, chúng
ta nhận thức rõ là không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề
xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế
phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội” [47, Tr3]. Trong diễn văn

4
phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá” của UNESCO đã đưa ra lời
cảnh báo: “Hễ nhà nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách

khỏi môi trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng về cả
mặt kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất
nhiều” [12,tr 45]. Còn tại Hội nghị liên chính phủ và chính sách văn hoá tại
Stốckhôm - Thụy Điển (1998), đã ghi nhận 12 điểm cam kết, trong đó điểm thứ
11 nói rõ: “Việc bảo vệ các nền văn hoá bản địa và khu vực bị đe doạ bởi quá
trình toàn cầu hoá, không được biến các nền văn hoá thành các di tích và làm
cho văn hoá bị tước đi sức sáng tạo của sự phát triển năng động của chính mình”
[57, tr46].
Do vậy, để chủ động hoà nhập và đóng góp tích cực vào xu thế toàn cầu
hoá, liên kết và hợp tác khu vực và quốc tế, để đẩy mạnh sự tăng trưởng đồng
thời với việc phát triển văn hoá nhằm phát triển bền vững theo định hướng xã
hội chủ nghĩa thì vấn đề xây dựng, phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc là một vấn đề hết sức cấp bách và rất lâu dài trước sự đòi hỏi của cả
dân tộc và mỗi con người Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người con nước Việt, là một nhà văn hoá
kiệt xuất, danh nhân văn hoá thế giới, lãnh tụ cách mạng Việt Nam. Di sản tư
tưởng của Người là hết sức to lớn, trong đó có tư tưởng về văn hoá, xây dựng
nền văn hoá mới… là cơ sở tinh thần của nền văn hoá Việt Nam hiện đại. Ngày
nay, tư tưởng văn hoá của Người vẫn còn nguyên giá trị định hướng xây dựng
nền văn hoá “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với đặc trưng “dân tộc, hiện đại,
nhân văn” vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Do đó, vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và việc vận
dụng tư tưởng của Người vào xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện
nay là hết sức cần thiết. Một mặt, nó góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách
mà lý luận và thực tiễn đã đặt ra. Mặt khác, nó góp phần tìm hiểu chiều hướng
tiến triển của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh kế và phát triển văn hoá, xã
hội, giữa hội nhập và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, với tư cách là hai mặt của

5
quá trình phát triển. Qua đó, nó gợi mở những vấn đề có tính phương pháp luận

cho việc vận dụng tư tưởng văn hoá của Người vào xây dựng, phát triển nền văn
hoá vừa bảo đảm tính hiện đại, vừa bảo đảm tính dân tộc. Bởi thế bắt đầu từ Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta đã trân trọng ghi vào Cương
lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [7, tr 127].
2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước
nghiên cứu từ lâu, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VII (6-1991) của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước đã thành lập hội đồng Quốc gia nghiên cứu tư tuởng
Hồ Chí Minh. Nhiều đề tài cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiệm
thu.
Trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã công bố những công trình có giá trị:
Vũ Khiêu có bài: “Hồ Chí Minh đỉnh cao của văn hoá dân tộc và nhân
loại”; Nguyễn Đức Lữ với bài: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc tiếp thu nền văn
hoá nhân loại và việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc”; Đinh Xuân Lâm; Bùi
Đình Phong trong cuốn “Hồ Chí Minh, Văn hoá và đổi mới”, Nxb Lao Động,
1998 cũng đã đề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng văn hoá, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc của Hồ Chí Minh. Đặc biệt trong cuốn “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng văn hoá Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia,1998, của Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã quy tụ được nhiều bài viết của nhiều tác giả
nghiên cứu về tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh, đem lại cho chúng ta một cái nhìn
tổng thể quan niệm của Người về văn hoá…và còn nhiều tài liệu khác. Phần thư
mục của luận văn phản ánh đầy đủ tên tác giả và các tài liệu đó.
Tổng hợp những công trình, tài liệu đi trước, tôi có một vài nhận xét như
sau:
Thứ nhất, nhìn chung trong các công trình khác nhau, các tác giả đã nêu
và khái quát được những nét lớn chủ yếu trong tư tưởng văn hoá, xây dựng nền

6

văn hoá mới ở Việt Nam của Hồ Chí Minh. Một số bài bắt đầu đi vào khai thác,
nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của tư tưởng đó và cũng đã nêu lên những ý
kiến đặc sắc. Chẳng hạn trong “ Về tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh”, GS Đặng
Xuân Kỳ cho rằng: “Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh là một di sản vô cùng quý
giá, là những giá trị vĩnh cửu để lại cho dân tộc mình và cho nhân loại. Những tư
tưởng ấy không chỉ nằm trong những bài nói, bài viết, những tác phẩm của
Người, mà còn nằm trong toàn bộ hoạt động thực tiễn, trong cuộc sống, trong
con người Hồ Chí Minh và quan trọng hơn là trong phong trào cách mạng của cả
một dân tộc…”.
Thứ hai, về vấn đề mà luận văn nghiên cứu, các tác giả đều có chung một
nhận định rằng, Hồ Chí Minh là một tượng trưng cao đẹp của bản sắc văn hoá
Việt Nam, tư tưởng văn hóa của Người là tư tưởng của một nền văn hoá tương lai.
Song nhìn chung, các công trình nghiên cứu về việc vận dụng và học tập
tư tưởng của Người để xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc trong giai
đoạn hiện nay chưa nhiều, còn thiếu những công trình quy mô, xứng đáng với
tầm vóc của vấn đề này trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhu cầu về lý luận và thực tiễn hiện nay đòi hỏi phải có những chuyên
khảo nhằm làm sâu sắc hơn, đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và
việc vận dụng tư tưởng đó trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Vì vậy, để đóng góp một phần nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu trên, tác
giả chọn vấn đề: “ Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá vào xây
dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay” làm đề tài tốt nghiệp cao học.
3- MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hoá và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra, luận văn đã đưa ra một
số định hướng, giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam hiện nay theo hướng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

7

3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau:
Một là: Phân tích nhằm làm bật những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hoá và tầm quan trọng của việc vận dụng những tư tưởng văn hoá
của Người.
`Hai là: Phân tích những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng văn hoá hiện nay.
Ba là: Đề xuất một số định hướng và giải pháp để xây dựng, phát triển
văn hoá Việt Nam hiện nay.
4. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài: “ Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá vào xây dựng
phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay ” là một đề tài rộng. Vì thế, tác giả
luận văn chỉ tập trung vào mấy vấn đề sau:
Thứ nhất: Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng văn hoá Hồ Chí
Minh.
Thứ hai: Phân tích việc vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng, phát
triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay.
5- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở:
- Các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử
- Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ nghĩa Mác- Lênin
về văn hoá, con người.
- Các công trình, các tài liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá
và về bản sắc văn hoá Việt Nam.

8
5.2- Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp phân tích , tổng

hợp, lôgíc- lịch sử, so sánh….
6- ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN
Về lý luận: Trên cơ sở làm rõ các quan niệm, tư tưởng về văn hóa của Hồ
Chí Minh, luận văn phân tích, luận giải dưới góc độ triết học những giá trị của
quan niệm, tư tưởng ấy đối với nền văn hoá dân tộc Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế.
Về thực tiễn: Luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi cho
vấn đề đặt ra.
7- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm tư tưởng văn hoá của Hồ
Chí Minh và luận giải sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng ấy vào việc xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn: Luận văn nêu ra một số giải pháp chung nhằm vận dụng tư
tưởng của Người về văn hoá để xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện
nay. Có thể làm tư liệu tham khảo cho giảng dạy, nghiên cứu sau này.
8- KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.





9
Chương 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ

1.1 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ
1.1.1 Khái niệm “ văn hoá” ở Hồ Chí Minh
Khái niệm văn hoá xuất hiện ở Đông Á rất sớm. Lưu Hưởng (khoảng năm

76 Trước công nguyên) thời Tây Hán (Trung Quốc) là người đầu tiên đưa ra
định nghĩa về văn hoá. Trong sách Thuyết Uyển bài Chi vũ công viết: “Bậc
thánh nhân tri thiên hạ, trước dùng văn đức sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ
lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hoá không thay đổi được thì sau
đó sẽ trinh phạt”[44,tr15]. Ở đây, văn hoá được hiểu như là cách thức điều hành
xã hội bằng “văn trị” để “giáo hoá” con người, đối lập với việc dùng vũ lực để
đối phó. Văn trị là dùng chế độ lễ nhạc điển chương tức cái hay cái đẹp để giáo
dục và cảm hoá con người. Chung quy tại Á Đông, trong đó có Việt Nam, quan
niệm trên tồn tại cho đến cuối thế kỷ XIX.
Tại Việt Nam, thông qua con đường: Nhật Bản - Trung Quốc và Pháp kể
từ thế kỷ XX, thuật ngữ văn hoá dần dần được hiểu như ở Phương Tây. Thuật
ngữ văn hoá ở các nước phương Tây ngày nay vẫn giữ một số hàm nghĩa gốc
của Cultura trong tiếng Latinh như trồng trọt, vun trồng, cư trú, luyện tập….
Khái niệm hiện đại về văn hoá lần đầu tiên được E.B.Tayler, nhà nhân chủng
học người Mỹ định nghĩa trong cuốn “văn hoá nguyên thuỷ”, xuất bản năm
1971. Theo đó, “văn hoá là một tổng thể phức tạp, bao gồm cả tri thức, tín
ngưỡng nghệ thuật, phong tục và cả những năng lực thói quen mà con người đạt
được trong xã hội”[44, tr16]. Ngày nay, như nhiều nhà nghiên cứu thống kê đã
có hơn 400 định nghĩa về văn hóa. Trong đó, khái niệm văn hoá của UNESCO
hướng vào cái cơ bản nhất và cũng là cái chung tốt đẹp nhất của mọi nền văn
hoá là xu hướng hoàn thiện và tôn vinh con người - mà với hình thức biểu hiện
cụ thể của nó khiến các nền văn hoá mang đặc điểm riêng. Cách tiếp cận này

10
được cộng đồng chấp nhận tại Hội nghị liên Chính phủ về các chính sách văn
hoá, họp năm 1970 tại Venise. Đến năm 1982, tại Hội nghị lần thứ II đã phê
chuẩn cách tiếp cận đó đối với văn hoá. Theo đó văn hoá được định nghĩa là tất
cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh
vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, tập quán, phong tục, lối sống và lao động
nhờ đó mà con người định vị mình trong thời gian, không gian nhất định để có

thể giải thích thế giới, phát triển các năng lực biểu hiện, giao lưu sáng tạo. Nội
dung của khái niệm thường được UNESCO xem xét qua bốn bộ phận hợp thành:
Hệ thống khái niệm (khái niệm, biểu tượng); hệ thống giá trị, chuẩn mực; hệ
thống biểu hiện văn hoá (nghệ thuật, văn học, khoa học…); hệ thống hành động và
ứng xử văn hoá.
Ở Việt nam truyền thống, ngoài việc tiếp thu cách tiếp cận văn hoá như là
một cách thức điều hành xã hội bằng “ văn trị” và “giáo hoá” của Trung Quốc
còn có hàm nghĩa “văn hiến” và “văn vật”. Các loại từ điển thường định nghĩa
văn hiến là “truyền thống lâu đời” còn văn vật là “truyền thống văn hoá biểu
hiện ở những nhân tài và di tích lịch sử”. Nói khác đi, văn hiến thiên về các biểu
tượng giá trị vật chất. Vì thế, có thể coi văn hiến và văn vật là các hàm nghĩa đặc
trưng của khái niệm văn hoá Việt Nam.
Từ đầu thế kỷ XX lại thêm hàm nghĩa “văn minh” chỉ tình trạng về vật
chất của loài người, là hình thái kinh tế của văn hoá. Theo cách phân chia của F.
Ănghen về các giai đoạn phát triển văn hoá nhân loại (mông muội, dã man và
văn minh) thì văn minh là nấc thang của văn hoá và thiên về các giá trị vật chất -
kinh tế.
Các hàm nghĩa “văn trị”,“văn hiến”,“ văn vật”và “văn minh” được nhận
thức trong hoặc bên cạnh khái niệm văn hoá đã khiến cho các cách tiếp cận và
cách hiểu về văn hoá ở nước ta rất đa dạng. Nhà sử học Đào Duy Anh coi văn
hoá là “sinh hoạt”. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc xem văn hoá là “hoạt động”.
Trên cơ sở tán thành các cách tiếp cận văn hoá của UNESCO, các tác giả cuốn
“văn hoá xã hội con người” coi văn hoá là “tổng thể sống động các hoạt động

11
sáng tạo của cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và hiện tại để phát huy những
năng lực bẩm sinh và bản chất nhằm vươn tới cái chân, thiện, mỹ”[43,tr32].
Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hoá Việt Nam” định nghĩa: “Văn
hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người

với môi trường tự nhiên và xã hội”[51,tr 10-13]. Từ đó tác giả nêu ra 4 đặc
trưng và gắn liền chúng với 4 chức năng của văn hoá. Đó là:
Tính hệ thống với chức năng tổ chức xã hội
Tính giá trị với chức năng điều chỉnh xã hội
Tính nhân sinh với chức năng giao tiếp xã hội
Tính lịch sử với chức năng giáo dục
Báo cáo tổng kết chương trình KX06 ( giai đoạn 1991- 1995) tuy không
trực tiếp xác định khái niệm văn hoá nhưng tán thành quan điểm coi văn hoá là
tổng thể các ý niệm, giá trị, thể thức và hình thức biểu hiện văn hoá cũng như
các hành động nói lên các giá trị chân, thiện, mỹ trong các mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người với con người, con người với bản thân mình [48,
tr6-7]. Phạm Minh Hạc trong công trình “phát triển giáo dục, phát triển con
người…” định nghĩa “văn hoá là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con
người, cộng đồng, dân tộc, lịch sử sáng tạo. Có văn hoá nhân loại, văn hoá dân
tộc, văn hoá cộng đồng, văn hoá gia đình, văn hoá của từng con người”[15,tr
79].
Nhìn chung, các quan niệm trên đều xác định khái niệm văn hoá theo
nghĩa rộng hoặc thiên về trạng thái động của văn hoá như sinh hoạt, hoạt động
hoặc thiên về tình trạng tĩnh của văn hoá như tổng thể các giá trị vật chất - tinh
thần. Với cách tiếp cận biện chứng để nắm cả trạng thái vận động và trạng thái
tĩnh của văn hoá, trên cơ sở kết hợp hài hoà biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại, phương Đông và phương Tây, dân tộc và quốc tế, Hồ Chí Minh đã có
nhiều phát biểu về văn hoá. Trong phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942 - 1943)
lần đầu tiên Hồ Chí Minh đã nêu ra một định nghĩa về văn hoá:

12
“ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn

hoá. Văn hoá là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi sự sinh tồn”[24, tr431].
Người còn dự định xây dựng nền văn hoá dân tộc với năm điểm lớn:
1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.
4- Xây dựng chính trị: dân quyền.
5- Xây dựng kinh tế.
Như vậy, văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những
giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp
ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của loài người. Và muốn
xây dựng nền văn hoá dân tộc thì phải xây dựng tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, tâm lý con người.
Từ sau cách mạng tháng Tám, văn hoá đã được Người xác định là đời
sống tinh thần của xã hội, là thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội. “Những cơ
sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi văn hoá mới kiến thiết được và đủ điều
kiện để phát triển được”[33, tr 345].
Đây là quan điểm của chủ nghĩa Mác về văn hoá được tiếp thu và truyền
bá theo phương thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khác với tất cả các quan niệm
về văn hoá trước kia của các nhà nho, các nhà tri thức tư sản đã tách văn hoá ra
khỏi đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và coi lĩnh vực văn hóa gắn liền với
những cách sống cao thượng của tầng lớp trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định rằng:“ Văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính

13
trị”. Văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành của toàn bộ
đời sống xã hội. Nó cùng với kinh tế, chính trị tạo nên đời sống của dân tộc ta.
Văn hoá bao giờ cũng gắn liền với các hoạt động sản xuất và đời sống: “ Văn

hoá xa đời sống, xa lao động là văn hoá suông. Nhân dân lao động là người chủ
sở hữu và hưởng thụ các giá trị văn hoá đó”. Nhiều lần Hồ Chí Minh đã nói
rằng: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cùng,
phải coi trọng ngang nhau: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”[33,Tr345].
Trong lịch sử phát triển dân tộc và loài người đã từng có sự phát triển
không ngang nhau, không tương đồng giữa kinh tế và văn hoá. Có những nền
kinh tế, chính trị, những giai đoạn phát triển xã hội, ở đó văn hoá không phát
triển đồng đều với các lĩnh vực còn lại. Có những giai đoạn mà lịch sử lại dành
ưu tiên cho kinh tế hoặc chính trị. Cũng có những giai đoạn lịch sử , xã hội dành
ưu tiên cho văn hoá. Song đối với Hồ Chí Minh, kiến thiết xã hội phải coi trọng
ngang nhau cả văn hóa, kinh tế, chính trị. Chỉ có như vậy xã hội mới phát triển
lâu bền và nhịp nhàng. Trong đó, Hồ Chí Minh bao giờ cũng coi các quan hệ
kinh tế, cơ cấu kinh tế là nền tảng để phát triển văn hoá. Người viết rằng, văn
hoá là kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội phải được kiến
thiết vững mạnh thì văn hoá mới phát triển được.
Nếu nền tảng kinh tế và các cơ cấu xã hội bị phương thức sản xuất chế
ước dù trực tiếp hay gián tiếp cũng quy định những tham số cơ bản của văn hoá.
Vì vậy, Hồ Chí Minh đã coi nguồn gốc các quan hệ và các giá trị văn hoá gắn
liền với trình độ phát triển của sản xuất vật chất. Người cho rằng: “Văn hoá phải
gắn liền với lao động sản xuất”[29,tr59]. Trước hết, Người coi sản xuất vật chất
là cội nguồn của các giá trị văn hoá. Song Người không khẳng định mọi quá
trình văn hoá diễn ra trong đời sống xã hội duy nhất chỉ có lao động sản xuất. Vì
sự tăng trưởng, phồn vinh về mặt vật chất xã hội không phải là tỷ lệ thuận với
việc nâng cao giá trị văn hoá. Sự phát triển giữa kinh tế và văn hoá vừa có sự
phát triển cùng chiều nhưng vừa không cùng chiều. Do kinh tế quy định cấu trúc
xã hội và các cơ cấu kiến trúc thượng tầng, trong khuôn khổ này, văn hoá được

14
quyết định không phải một cách trực tiếp bởi kinh tế, mà phải thông qua các
quan hệ xã hội. Các chế ước xã hội đã làm cho văn hoá phát triển đa chiều. Hồ

Chí Minh cho rằng, kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của văn
hoá; mặt khác, Người còn coi trọng chế độ chính trị, hay các chế ước xã hội đã
làm nảy sinh tính đa dạng của văn hoá, nhưng sự tác động trở lại của văn hoá đã
góp phần thúc đẩy và nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của xã hội.
Trong tư tưởng văn hoá, Hồ Chí Minh rất coi trọng đến trình độ phát triển
của sản xuất, về tính chất của các quan hệ kinh tế - xã hội vì nó là nền tảng của
văn hoá; song, trung tâm cần chú ý nhất ở Hồ Chí Minh là vấn đề bản chất, cái
tạo ra bản chất của mọi hiện tượng văn hoá của cá nhân và cộng đồng, là khả
năng sáng tạo của nhân dân lao động. Nhiều lần Hồ Chí Minh đã nói: lao động
là nguồn sống, nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Phát triển và mở rộng
tư tưởng văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất, Hồ Chí Minh coi sự vận
động của văn hoá trong lịch sử là toàn bộ khả năng sáng tạo của quần chúng
nhân dân. Người viết rằng: “Quần chúng nhân dân là những người sáng tạo,
công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng nhân dân không phải chỉ
sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng nhân dân còn là người sáng
tác nữa”[28,tr 250]. “Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao là những sáng
tác của quần chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn… Những sáng tác ấy là
những hòn ngọc quý”. Người nói rằng, phải gắn kinh tế với văn hoá, thông qua
văn hóa kinh tế sẽ được thực hiện tốt hơn. Khi kinh tế tốt hơn thì văn hoá sẽ có
điều kiện để thúc đẩy các quá trình xã hội. Hồ Chí Minh nói: “ Vì sao không nói
phát triển văn hoá và phát triển kinh tế ? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực
được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển
kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nước ta… Văn
hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống tươi
vui, lành mạnh của quần chúng”[28, tr 59].
Trong tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh, văn hoá không chỉ gắn với kinh tế
vì cái này là điều kiện cho cái kia phát triển, mà hơn thế nữa cả kinh tế và văn
hoá đều hướng đến sự phát triển tổng thể hơn - phát triển xã hội. Giữa kinh tế và

15

văn hoá vừa có sự phát triển cùng chiều, vừa có sự phát triển ngược chiều. Nếu
chỉ chú ý tăng trưởng kinh tế sẽ có nguy cơ phá hoại văn hoá, nghĩa là phá hoại
những quan hệ cơ bản giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con
người và các thế hệ người, kể cả các nhân cách người. Hồ Chí Minh đã đặt vấn
đề phát triển lâu bền và phát triển toàn diện cả kinh tế và văn hoá, vì văn hoá sẽ
hỗ trợ và phòng ngự cho sự tăng trưởng kinh tế, trong đó có sự tăng trưởng của
các giá trị con người.
Văn hoá có mối quan hệ mật thiết với chính trị. Chính trị, xã hội có được
giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho
văn hoá phát triển.
Văn hoá và chính trị đều là những yếu tố của kiến trúc thượng tầng, có
quan hệ mật thiết với nhau. Một nền chính trị đúng đắn bao giờ cũng được xây
dựng trên cơ sở một nền văn hóa tiến bộ. Khi Hồ Chí Minh nói: ham muốn tột
bậc của Người là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào
ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành… thì đó vừa là mục tiêu
của chính trị đồng thời là mục tiêu của văn hoá. Một nền văn hóa tiến bộ thì phải
hướng vào mục tiêu phục vụ chính trị cao cả của đất nước. Tại buổi khai mạc
Đại hội văn hoá toàn quốc (24-11-1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:“Văn
hoá liên lạc với chính trị rất mật thiết”. Người xác định: “Văn hoá phải làm cho
ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời văn hoá phải làm thế nào
cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lý tưởng chung mà quên lý
tưởng riêng”… “Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”[3,tr16].
Khi cả đất nước và dân tộc còn bị nô lệ thì văn hoá cũng cùng chung số
phận nô lệ, tuyệt đại nhân dân bị đày đoạ trong vòng tối tăm, dốt nát. Vì vậy có
những nhà yêu nước chủ trương phải khai dân trí, phải nâng cao trình độ văn
hoá của nhân dân, sau đó mới tính đến chuyện giành độc lập, tự do cho đất nước
và dân tộc. Đường lối cải lương đó đã hoàn toàn bị thất bại.
Khi chuẩn bị cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga, vấn đề cũng được đặt ra
tương tự như vậy. Có người cho rằng cần phải nâng cao trình độ văn hoá của


16
nhân dân Nga lên trước, rồi sau mới làm cách mạng chính trị. Lênin đã trả lời: “
Tại sao không làm cách mạng chính trị trước để sau đó có điều kiện thuận lợi
nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân Nga? ”. Quan điểm của Lênin đã được
thực tiễn cách mạng tháng Mười Nga chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Lãnh
đạo nhân dân ta đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã vạch ra
một đường lối mới: Phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ thể ở Việt
Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, để giải
phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn
hoá phát triển. Về vấn đề này Người đã viết: “…Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền
văn hoá của ta vì thế không nảy sinh được”. “Xã hội thế nào, văn hoá thế ấy.
Văn nghệ của dân tộc ta vốn rất phong phú, nhưng dưới chế độ thực dân và
phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát
triển được”.
Như vậy, văn hoá không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính
trị. Văn hoá phải phục vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hoá
nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong
kinh tế và chính trị”[9,Tr368-369]. Quan niệm đó của Người đã định hướng cho
mọi hoạt động văn hóa, động viên giới văn hoá văn nghệ đi vào kháng chiến,
thực hiện khẩu hiệu “văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá”, đã
tạo nên một phong trào văn hóa kháng chiến sôi động chưa từng thấy trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Văn hóa không đứng ngoài mà đứng trong
cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Và cuộc kháng chiến đã trở thành cuộc
kháng chiến không thể thiếu văn hoá. Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh
cũng định hướng cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới của nước ta
trong suốt 20 năm chống Mỹ cứu nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện nay.
Văn hoá không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị, điều
đó có nghĩa là văn hóa phải phục vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển


17
kinh tế, tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị, như là một động lực
hết sức quan trọng. Theo Người, văn hoá không phụ thuộc một cách máy móc
vào điều kiện sinh hoạt vật chất, mà văn hóa - tư tưởng phải đi trước một bước
để thúc đẩy cho kinh tế - xã hội phát triển. Lênin từng nói: “Người mù chữ đứng
ngoài chính trị”. Chính trên tư tưởng ấy, ngay từ ngày nhân ta mới giành được
độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : “Mọi người Việt Nam… phải có kiến
thức mới, để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”. Lênin coi dốt
nát là kẻ thù. Vận dụng lời dạy đó trong hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam, khi
mà chính quyền của nhân ta còn trong trứng nước (1945) và thù trong giặc ngoài
làm cho nền độc lập của nước ta ở vào tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc”, thì Hồ
Chủ tịch đề ra 3 nhiệm vụ: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm, cả
ba nhiệm vụ đó đều cấp bách và hệ trọng, đều phải tiến hành đồng thời. Người
nói: “ Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công
cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ… cần thiết để xây dựng nước ta thành
một nước hoà bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[27, tr 281-282].
Từ đó, suốt mấy chục năm ròng lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến, kiến quốc,
Người luôn dạy ta rằng, giống như mặt trận xây dựng kinh tế, mặt trận chống
xâm lăng, văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em công tác trên
lĩnh vực văn hóa, có nhiệm vụ trực tiếp đóng góp xây dựng, phát triển văn hoá
dân tộc - cách mạng - hiện đại với những cống hiến lớn lao của mình cả trên
phương diện trí tuệ - sáng tạo và phương diện truyền thụ văn hóa dân tộc, văn
hoá thế giới cho nhân dân Việt Nam ta. Cũng phải thấy rằng, văn hoá đứng ở
trong kinh tế, chính trị cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hoá,
điều mà chủ nghĩa xã hội cũng như thời đại đang đòi hỏi. Văn hoá sẽ càng phát
triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của kinh tế, chính trị. Trong thời kỳ hiện
nay, Đảng ta xác định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội”[9, Tr10].


18
1.1.2 Tính chất của nền văn hoá mới
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, việc xây dựng một nền
văn hoá mới đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ra như một nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng. Ngay sáng 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra
một loạt vấn đề về văn hoá, như giải quyết nạn dốt, giáo dục nhân dân tinh thần
cần, kiệm, liêm, chính, cấm hút thuốc phiện, tự do tín ngưỡng….Cùng ngày,
Người đã ra thông báo về việc tiếp đại biểu các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân,
nêu ra một phong cách làm việc mới, một thứ văn hoá chính trị mới của người
đứng đầu Nhà nước, hoàn toàn khác với chế độ thực dân phong kiến trước kia.
Cũng trong ngày đầu tháng 9- 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thành
lập Uỷ ban văn hoá lâm thời Bắc bộ. Trong buổi tiếp đại biểu của Uỷ ban này
ngày 7-9-1945. Người nói: “ Tôi mong rằng các ngài trong giới văn hoá nhận
thấy rõ nhiệm vụ của các ngài trong lúc này là củng cố nền độc lập của Việt
Nam, sửa soạn gây dựng cho đất nước một nền văn hóa mới. Bổn phận của các
ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền
văn hóa mới”.
Trong Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Lao động Việt Nam có đoạn: “Xúc tiến công
tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ cho công cuộc kháng chiến kiến
quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn
hoá đế quốc. Đồng thời phải phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá
dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới để xây dựng một
nền văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học, đại chúng”[26,Tr38-39].
Có thể nói đây là lần đầu tiên Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đã nêu lên tư tưởng văn hoá một cách ngắn gọn, súc tích, đầy đủ, đặc biệt
là về xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học, đại chúng.
Từ việc nghiên cứu lịch sử văn hoá Việt Nam, kể cả thời kỳ văn hoá bị nô dịch
dưới chế độ thực dân và thời kỳ nền văn hóa dân chủ mới, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm nhận thấy vai trò, sức mạnh của văn hóa. Xét đến cùng văn hoá là


19
vũ khí tinh thần để chiến thắng. Kẻ đi áp bức bóc lột dân tộc khác đã dùng
những thủ đoạn văn hoá nô dịch để phục vụ cho tham vọng kinh tế và chính trị
của chúng. Những dân tộc bị bóc lột phải chiến thắng kẻ thù bằng chính sức
mạnh văn hoá dân tộc mình. Hơn ai hết, khi dấn thân vào con đường hoạt động
cách mạng, đặc biệt từ khi bắt gặp ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tầm quan trọng của văn hoá đối với
đời sống con người và sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, đổi mới
đất nước. Từ những năm 20 cho đến cuối đời, Người đã hoạt động say sưa,
không mệt mỏi trên mặt trận văn hoá. Thức tỉnh dân tộc bằng ý thức và truyền
thống văn hoá, bằng sức mạnh của tinh hoa văn hoá nhân loại mà đỉnh cao là
chủ nghĩa Mác-Lênin, bằng việc phủ nhận và xoá bỏ các yếu tố phản văn hoá,
Hồ Chí Minh đã khơi dậy truyền thống hàng ngàn năm lịch sử của cha ông, cố
kết dân tộc bằng sợi dây văn hoá dân tộc và văn hoá thời đại, lãnh đạo thành
công sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng tháng Tám thắng lợi chính là nhờ
Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy đến đỉnh cao bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là sự thắng
lợi của sức mạnh văn hoá.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám bắt nguồn từ sức mạnh văn hoá của
quá khứ, đồng thời mở ra một thời kỳ của văn hoá Việt Nam. Lịch sử đặt lên vai
Hồ Chí Minh và Đảng ta một trọng trách lớn lao là lãnh đạo toàn thể dân tộc tạo
dựng một nền văn hoá của nước Việt Nam mới - Nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, tiến hành nhiều nhiệm vụ còn khó khăn hơn so với công cuộc giành chính
quyền. Độc lập - Tự do là những giá trị văn hoá thiêng liêng mà phải trải qua
bao năm tháng, đổ bao xương máu chúng ta mới giành lại được. Công cuộc
kháng chiến kiến quốc, bảo vệ và phát triển đất nước được tiến hành thông qua
chiến lược “chống giặc dốt, chống giặc đói, chống giặc ngoại xâm”. Cả dân tộc
với một sinh khí văn hóa mới: “Dân tộc - Khoa học - Đại chúng” đã đi vào hai
cuộc kháng chiến thần thánh và đã chiến thắng vẻ vang như một chiến công hiển


20
hách trong thế kỷ XX, góp phần thanh toán thực dân, xoá đi vết nhơ trong lịch
sử và trong nền văn hoá nhân loại.
Trước hết, nền văn hoá mới mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền
văn hoá có tính chất dân tộc. Chúng ta đều biết con đường và sự nghiệp cách
mạng của Hồ Chí Minh hoà quyện, gắn bó làm một với sự nghiệp văn hóa của
Người. Con đường đó đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự
nghiệp đó làm cho đất nước được độc lập, dân tộc làm chủ, mọi người được ấm
no, hạnh phúc. Nền văn hoá có tính chất dân tộc trước hết phải duy trì, bảo vệ,
chấn hưng và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc. Đó là nền văn hoá gắn với dân
tộc, có gốc rễ từ dân tộc. Biểu hiện của diện mạo dân tộc chính là bản sắc dân
tộc. Hay nói cách khác, bản sắc dân tộc thể hiện ở nền văn hoá dân tộc. Đó là
nền văn hoá biểu hiện nhân cách Việt Nam, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được hun đúc lên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng
tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; dũng cảm, thông
minh trong chiến đấu; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lịch sử; tình
nghĩa, thuỷ chung với người thân, bè bạn… Hồ Chí Minh thường nói: “Nhân
dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa”[29, tr 611]. Nhân cách Việt
Nam làm thành bản sắc của con người Việt Nam với tư cách là một thành viên
của cộng đồng dân tộc. Họ sớm ý thức được trách nhiệm và bổn phận của mình
trong mối quan hệ Nhà- Làng- Nước. Cái hồn của văn hoá dân tộc còn là tinh
thần trọng nghĩa phải, yêu cái đẹp. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Xúc tiến
công tác văn hoá để đào tạo con người mới”. Người lại nói đến việc “trồng
người”, văn hoá trước hết là trau dồi nhân cách, tu dưỡng bản thân đúng theo
nghĩa giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và cao đẹp cho con người. Xây
dựng nền văn hoá mới có tính dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là xây
dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc theo cách diễn đạt hiện nay. Đó là nền


21
văn hoá do con người tạo ra và vì con người. Phải xây dựng con người mới với
những mối quan hệ mới - quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Trong rất nhiều bài nói và viết của mình, Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta
phải biết giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc dân tộc. Trên cơ sở
chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp, dân tộc và thời đại, Người yêu cầu “phải chăm lo đến đặc tính dân tộc mình
trong nghệ thuật”“chú ý phát huy cốt cách dân tộc”,“lột cho hết tinh thần dân
tộc”,“miêu tả cho hay cho chân thật và cho hùng hồn” những hiện thực vĩ đại
của dân tộc, những tình cảm, tính cách và tâm hồn Việt Nam “ để cổ vũ cho
đồng bào ta, để giáo dục con cháu chúng ta”. Đặc biệt, người nhấn mạnh phải
nêu cao lòng yêu nước, đoàn kết, thương dân, tinh thần bất khuất, ý chí độc lập
tự cường, lòng khoan dung, tình thân ái. Hồ Chí Minh khẳng định: “dân tộc ta là
một dân tộc anh hùng”,“ nhân dân ta rất anh hùng”,“ nhân dân ta có lòng yêu
nước nồng nàn”,“ cứ mỗi lần có những thử thách lớn thì dân ta lại tỏ rõ khí
phách, nêu cao phẩm chất tốt đẹp của mình”.“ Dân ta không muốn đổ máu, dân
Việt Nam yêu chuộng hoà bình. Nhưng nếu cần phải hy sinh mấy triệu chiến sỹ,
nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để gìn giữ quyền độc lập của Việt
Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ thì chúng ta vẫn kiên quyết hy
sinh và kháng chiến”.“ Dân tộc Việt Nam thà chết chứ không chịu mất tự do,
độc lập”,“ thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô
lệ”,“thà hy sinh cực khổ năm, mười năm còn hơn nô lệ muôn đời”…Con người
Việt Nam anh hùng, gan dạ, khéo léo, cần cù cả trong lao động sản xuất và trong
chiến đấu. Đặc biệt con người Việt Nam giàu lòng nhân ái, khoan dung, thương
yêu nhau theo tinh thần “ nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Ngay cả đối với kẻ thù,
người vẫn tỏ thái độ khoan dung, độ lượng, mở đường hiếu sinh. Người nói:
“chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là
đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người. Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ
bọn phát xít thực dân là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất

cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”.

22
Bản sắc dân tộc của văn hoá không chỉ thể hiện ở nội dung, cốt cách, tâm
hồn dân tộc, mà còn thể hiện đậm nét trong các hình thức biểu hiện rất độc đáo
của dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá cao và rất tự hào về các hình thức biểu hiện
của văn hoá Việt Nam. Văn học, nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của nền
văn hoá dân tộc, thể hiện khát vọng của nội dung về Chân, Thiện, Mỹ. Người
nói: “nghệ thuật của cha ông ta hay lắm, tốt lắm”,“âm nhạc của dân tộc ta rất
độc đáo”,“tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân
tộc. Chúng ta phải giữ nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng
khắp”. Với những ý nghĩa này, xuyên suốt và nhất quán, Hồ Chí Minh luôn nhấn
mạnh đến cái “vốn”,“cốt cách và đặc tính” với tất cả tính chất độc đáo, chất liệu
riêng của nền văn nghệ dân tộc. Nghiên cứu nền văn nghệ dân tộc, đặc biệt thơ
văn của những nhà văn hoá lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…Hồ Chí Minh
cho rằng: “Những người Cộng sản rất quý trọng cổ điển. Có nhiều dòng suối
tiến bộ chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó. Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin,
càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông”[47,tr 355]. Văn
hoá, nghệ thuật dân tộc phải là cái trước, cái cội rễ, là điều kiện để tiếp thu,
vươn tới và hội nhập với văn hoá nhân loại. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định
nhất của nền văn hoá. Nó là quan hệ vĩnh hằng. Tính dân tộc được đặt lên hàng
đầu trong ba phạm trù “ dân tộc - khoa học - đại chúng” của tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam có ý nghĩa rộng lớn và sâu xa.
Đương nhiên, nói đến giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc không
có nghĩa là rơi vào dân tộc hẹp hòi, đóng cửa, khép kín; trái lại, phải biết tiếp thu
những yếu tố tiên tiến của thời đại, những tinh hoa văn hoá thế giới. Ngay trong
việc kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc cũng phải gạn đục khơi trong,
phê phán loại bỏ tập tục lạc hậu, cổ hủ; nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân;
chống ảnh hưởng văn hoá nô dịch của đế quốc và phong kiến. Còn trong việc
học tập văn hoá tiên tiến của các nước thì cũng phải chọn lọc, có sáng tạo,

không phải là học vẹt, bắt chước, bê nguyên xi, tiếp thu những cái lố lăng không
phù hợp với hoàn cảnh và đặc tính của dân tộc. “Mình đã hưởng cái hay của

23
người thì mình cũng phải có cái hay cho người ta hưởng, mình đừng chịu vay
mà không trả”. Tóm lại, “văn hoá Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá
Đông phương và Tây phương chung đúc lại…Tây phương hay Đông phương có
cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh
nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay, trau dồi cho văn hoá Việt Nam có
tinh thần thuần tuý Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”[34, tr 9].
Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã đề xướng và lãnh đạo xây dựng nền văn hóa
mới mà ngày nay chúng ta gọi là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
bao gồm các lĩnh vực văn hoá chính trị, văn hoá đạo đức, văn hoá nghệ thuật,
văn hóa pháp luật, văn hoá giáo dục, đời sống văn hoá,…chống lại tất cả những
gì là phi văn hoá.
Thứ hai, cùng với tính chất dân tộc, nền văn hoá mới phải có tính khoa
học. Có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về tính khoa học trong luận điểm của
Hồ Chí Minh. Nhưng muốn hiểu đúng, phải xuất phát từ thực tiễn lịch sử dân
tộc, bối cảnh thời đại và từ chính cuộc đời hoạt động văn hoá của Hồ Chí Minh.
Từ khoa học ở đây bao gồm những ý nghĩa tiên tiến của chủ nghĩa xã hội, lẫn ý
nghĩa hiện đại, từ tư duy, lý luận khoa học, đội ngũ tri thức tiêu biểu cho một
nền công nghiệp, khoa học, nghệ thuật hiện đại, đội ngũ công nhân…đến văn
hoá đỉnh cao. Khoa học còn là sự tiếp thu tinh hoa, trí tuệ của thời đại và đỉnh
cao của văn hóa nhân loại.
Như vậy, xây dựng một nền văn hoá mới đặc trưng khoa học, trước hết
phải khắc phục tính phi khoa học của một nền văn hoá lấy đạo đức và tư duy
kinh nghiệm làm ưu trội, cũng như của một nền văn hoá thực dân hoá. Cùng với
quá trình đó, chúng ta tiến hành xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, tức là nền
văn hóa mang bản chất xã hội chủ nghĩa mà cốt lõi tư tưởng của nó không gì
thay đổi được là chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều này là nhất quán và xuyên suốt

trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá. Nói hệ tư tưởng Mác-Lênin là nói tới
thành quả văn hoá vĩ đại của thế kỷ XIX ở phương Tây và là đỉnh cao của văn
hoá nhân loại. Nhưng tính chất khoa học, hiện đại không chỉ có thế, trong tư

24
tưởng và hành động của mình, Hồ Chí Minh thường đề cập đến việc “mở rộng
kiến thức của mình về văn hoá thế giới”. Người chỉ rằng, “Chúng ta có thể bắt
chước những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu - Mỹ” và “có cái gì tốt của Đông
phương hay Tây phương ta phải học lấy để tạo nên một nền văn hoá Việt
Nam”[38,tr 20]. Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát triển văn hoá nhân loại vào
văn hoá dân tộc Việt Nam. Người đã học tập Khổng Tử, Giêsu, Mác, Lênin, Tôn
Giật Tiên và nhiều nhà chính trị lỗi lạc khác. Người đã viết và đánh giá nhiều
nền văn hoá Đông Tây. Người ca ngợi Tônxtôi, Tago, Sêchxpia và Picatxo.
Người giải thích tính nhân loại trong tác phẩm của danh họa Tây Ban Nha -
Picátxô là ở chỗ ông “sôi nổi trong tâm hồn một tình yêu say mê cái Thiện, cái
Mỹ”[19,tr 20].
Thứ ba, nền văn hoá mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nền văn hoá có
tính đại chúng. Trước hết phải hiểu đó là một nền văn hóa của nhân dân lao
động. Văn hoá là những gì do con người và vì con người, vì vậy văn hoá là mục
tiêu của sự nghiệp cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, văn hoá phải phục vụ nhân
dân, lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm mục tiêu. Độc lập, tự do phải
đi tới ấm no, hạnh phúc và sự phát triển, tức văn hoá phải nhằm mục tiêu phục
vụ và nâng cao đời sống con người. Quần chúng nhân dân phải được hưởng thụ
những thành quả văn hoá do mình làm ra. Quần chúng nhân dân phải được
hưởng thụ những giá trị văn hoá vì họ là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng các
sáng tác, là người sáng tạo và kiểm nghiệm văn hoá. Hồ Chí Minh thường nói:
không có nhân dân thì không có Bác. Sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp văn hóa
của Người là sự nghiệp vì dân. Theo Người, suy nghĩ, hành động, sáng tác đều
xuất phát từ cái Tâm: vì nhân dân phục vụ. Những người làm công tác văn hoá
muốn tìm thấy sự thay đổi, sự đam mê thật “phải trở về với cuộc sống thực tại

của con người”; tức là “nghệ thuật phải gần với cuộc sống”[55, tr 21]. Năm
1946, trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, Người đã kêu gọi: “ Tôi tha thiết
mong muốn cho nền văn hoá mới nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân
tộc làm cơ sở”[47,tr 335]. Lợi ích của nhân dân trở thành “khuôn phép” của

×