Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.04 KB, 99 trang )

Đại học quốc gia Hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
====&&&====







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Đề tài:

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo
dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay



Giáo viên hướng dẫn : TS Dương Văn Duyên
Học viên : Trần Thị Kim Dung
Lớp : K14- Cao học triết





Hà Nội, 8-2009
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài


Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lỗi lạc
của dân tộc Việt Nam, người đã dành cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đi xa bốn mươi năm, nhưng tư tưởng của
Người vẫn đang là ngọn đèn pha soi sáng sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt
Nam. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì tư tưởng đạo đức của Người có
một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Người
đã làm rõ những phẩm chất đạo đức của người cách mạng, vai trò, vị trí của đạo
đức trong việc hình thành nhân cách của mỗi con người, cũng như vai trò, vị trí
của đạo đức cách mạng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong việc giáo
dục đạo đức cách mạng, Người đã đặc biệt quan tâm tới việc bồi dưỡng đạo đức
cách mạng cho thanh niên, bởi đó là lực lượng xung kích, luôn đi đầu trong mọi
phong trào cách mạng theo tinh thần “đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh
niên”.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã quan tâm, giáo dục đạo đức cho thanh niên.
Vì vậy, đã có nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam sẵn sàng cống hiến tuổi xuân,
đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, trong thắng lợi của
cách mạng tháng Tám, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ngày
nay, đại đa số thanh niên Việt Nam đã và đang tích cực học tập, lao động, đã có
những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta hiện nay,
thanh niên giữ vai trò quan trọng. Đó là lực lượng to lớn, luôn đi đầu trên tất cả
các lĩnh vực, là lực lượng quyết định tương lai của đất nước. Đảng ta đã khẳng
định: sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI
có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tuỳ thuộc vào
thế hệ thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác

2
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định
sự thành bại của dân tộc.
Sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi phải có những

con người có tri thức khoa học kĩ thuật, đồng thời cũng phải có những phẩm chất
đạo đức tốt. Vì vậy, bên cạnh việc giáo dục, trang bị những tri thức khoa học kĩ
thuật cho người học cần phải tiến hành song song việc hoàn thiện nhân cách,
phẩm chất đạo đức tốt, đặc biệt là đối với tầng lớp thanh niên – những chủ nhân
tương lai của đất nước.
Hiện nay, đất nước ta đang mở cửa giao lưu hội nhập với thế giới, nền
kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh
tế thị trường có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Mặt
khác, nó cũng có những tác động tiêu cực, ảnh hưởng xấu tới đời sống xã hội. Sự
mở cửa nền kinh tế khiến cho hàng loạt những luồng tư tưởng mới tràn vào trong
nước, trong đó không ít tư tưởng phản động, muốn chống phá cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, phải đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên, làm cho họ thấy được vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình đối với dân
tộc, từ đó mà nỗ lực phấn đấu, rèn đức luyện tài để có đủ năng lực hoàn thành
cuộc cách mạng của dân tộc trong giai đoạn mới.
Việc giáo dục đạo đức cho thanh niên phải được thực hiện thường xuyên,
bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, thông qua hệ thống giáo dục từ gia
đình, nhà trường đến xã hội. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có một vai trò quan
trọng trong giáo dục đạo đức thanh niên hiện nay. Xuất phát từ điều đó tôi đã
chọn “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức
của Người nói riêng đã được tiến hành từ lâu và được rất nhiều tác giả quan tâm
đến. Trong những năm gần đây càng có nhiều tác giả viết về vấn đề này hơn.

3
Tác phẩm “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh” của Trần Văn
Giàu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1997) đã đi phân tích điều kiện kinh tế –
xã hội nơi Hồ Chí Minh sinh sống từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phân tích

làm rõ bối cảnh quê hương của Hồ Chí Minh lúc bấy giờ. Qua đó để thấy rõ
những ảnh hưởng từ truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình đến việc hình
thành nhân cách của Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác phẩm cũng phân tích để thấy
rõ hơn ảnh hưởng của truyền thống yêu nước, lịch sử vẻ vang của quê hương xứ
Nghệ với lớp lớp các thế hệ danh nhân cũng như những anh hùng của quê hương
trong việc hình thành nhân cách và đạo đức của Hồ Chí Minh.
Tác phẩm “Văn hoá, đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Bùi Đình
Phong, Nhà xuất bản Công an nhân dân (2008) cũng đã đi phân tích để thấy rõ
những đặc trưng bản chất trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đó là nguyên tắc
“ở đời và làm người”. Đồng thời, tác giả cũng đã đi phân tích để thấy rõ tính
thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự thống nhất giữa tư tưởng chính
trị và tư tưởng đạo đức, giữa tư tưởng và hành động, giữa đức và tài. Tác phẩm
cũng đã làm rõ về tính toàn diện trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và những
giá trị của những tư tưởng đó trong phạm vi dân tộc và nhân loại.
Tác phẩm “ Mãi mãi học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008) đã khai thác nội dung tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thông qua ba phần chính. Phần một là những trích
đoạn và những bài viết của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Phần hai là
những nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thông qua nhiều bài viết của
nhiều tác giả khác nhau, ở những khía cạnh khác nhau của đạo đức cách mạng.
Phần ba bao gồm những câu chuyện kể về tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh
được sưu tầm từ lời kể của nhiều người và từ nhiều cuốn sách khác nhau.
Tác phẩm “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” của Ban tư tưởng văn hoá trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
(2007) đã tập trung vào việc nghiên cứu đạo đức là gì, vai trò và những ảnh
hưởng của nó trong đời sống xã hội, những chức năng nói chung của đạo đức.Tác

4
phẩm cũng đã đi phân tích thực trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên; đưa ra những nguyên nhân của tình trạng suy thoái đó.

Tác phẩm cũng đã nêu lên những yêu cầu của việc giáo dục đạo đức trong thời
kỳ mới.
Tác phẩm “Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống mấy vấn đề lí luận
và thực tiễn” của Lê Văn Tích, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008) đã phân
tích sự ảnh hưởng của của bối cảnh kinh tế - xã hội, sự tác động qua lại của các
yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá đối với sự chuyển đổi tư tưởng, đạo đức, lối
sống của con người. Tác giả cũng đã phân tích để cho thấy những yếu tố tạo nên
sự bền vững của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là ở chỗ, Hồ Chí Minh đã tìm
được sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và
quốc tế…Hơn nữa, Hồ Chí Minh cũng tin tưởng vào việc có thể chuyển đổi được
đạo đức, lối sống của con người phù hợp với thời đại. Qua tác phẩm này tác giả
cũng đã phân tích và nhấn mạnh tới yếu tố truyền thống trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh và những ảnh hưởng của yếu tố truyền thống trong việc nâng cao
đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” của tác giả Lê Trọng Ân,
đăng trên Tạp chí triết học, số 1- 2005 đã phân tích giá trị nhân sinh quan trong
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tác dụng của nó trong việc hình thành nhân
cách sống của con người, nhất là đối với những chiến sĩ cách mạng. Bài viết cũng
đã khái quát những nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và khẳng
định sự cần thiết của việc học tập tư tưởng đạo đức của Người.
Bài “Tính cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” của tác giả
Vũ Văn Thuấn, Tạp chí triết học, số 10- 2005 đã đi phân tích để thấy rõ những
điểm vĩ đại của đạo đức cách mạng, những điểm đối lập giữa đạo đức cách mạng
với nền đạo đức cũ- đạo đức duy tâm và chỉ được nêu lên nhưng không được
thực hiện. Qua đó, tác giả khẳng định giá trị to lớn của đạo đức cách mạng trong
sự nghiệp đổi mới của đất nước ta.

5
Bài “Đạo đức mới- đạo đức cách mạng từ các cách tiếp cận khác nhau”
của tác giả Trịnh Duy Huy, Tạp chí triết học, số 1- 2006 đã phân tích và cho thấy

đạo đức Tư sản là sự đối lập giữa những giá trị đạo đức đã được nêu lên và việc
thực hiện nó, từ đó khẳng định sự tiến bộ của đạo đức cộng sản. Bài viết cũng đã
phân tích đạo đức mới dưới góc độ nhận thức luận, giá trị nhân cách và những
chức năng cơ bản của nó.
Bên cạnh những tác phẩm nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh,
trong những năm qua cũng có nhiều tác giả và nhiều bài viết nghiên cứu về tình
hình đạo đức thanh niên và công tác giáo dục đạo đức đối với thanh niên Việt
Nam.
Tác phẩm “Cơ sở lí luận và thực tiễn của chiến lược phát triển thanh niên”
của Chu Xuân Việt đã dành một phần để khái quát những khái niệm chung về
thanh niên. Tác phẩm cũng đã trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên ở
những khía cạnh khác nhau. Thứ nhất là sự nhìn nhận và đánh giá vai trò, vị trí
của thanh niên trong tiến trình lịch sử, qua các thời kỳ cách mạng. Thứ hai là
đường lối, nội dung giáo dục bồi dưỡng thanh niên thành lớp người kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thứ ba là nhiệm vụ công tác thanh niên
của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh - với
chức năng là cánh tay phải và đội hậu bị của Đảng trong công tác giáo dục và rèn
luyện thanh niên. Tác phẩm cũng đã cho thấy sự tin tưởng của Hồ Chí Minh đối
với thế hệ thanh niên, sự nhìn nhận và đánh giá một cách toàn diện của Người
đối với vấn đề thanh niên, sự quan tâm giáo dục toàn diện cho thanh niên, đặc
biệt là giáo dục đạo đức.
Ngoài những tác phẩm và những bài viết nêu trên, còn rất nhiều tác phẩm
và những bài viết của các tác giả khác. Những tác phẩm đó đã đề cập một cách
toàn diện hay những khía cạnh khác nhau về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng
như công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay. Nhưng nhìn chung, chưa
có tác phẩm nào tập trung nghiên cứu riêng về vấn đề giáo dục đạo đức cho
thanh niên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Vì vậy, qua luận văn này, tác giả

6
muốn đi sâu tìm hiểu và phân tích để làm rõ một cách hệ thống những luận điểm

cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và công tác giáo dục đạo đức cho
thanh niên Việt Nam hiện nay theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ
- Mục đích: Làm rõ một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng và vai trò của những tư tưởng đó với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt
Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành và những nội dung cơ bản trong
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
+Phân tích làm rõ những kết quả và hạn chế trong công tác giáo dục đạo
đức cho thanh niên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ở nước ta những năm
qua.
+ Làm rõ sự cần thiết và những biện pháp vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng và công tác giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam theo tư tưởng đạo
đức của Người.
- Phạm vi:
+ Luận văn chỉ nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh thông qua
những bài viết, những việc làm của Người.
+ Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác giáo dục đạo đức cho thanh
niên Việt Nam theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh từ khi đất nước đổi mới đến
nay
5. Cơ sở lí luận và phương pháp luận

7
- Cơ sở lí luận: Luận văn được triển khai trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo
đức và vai trò của đạo đức trong xã hội.

- Cơ sở phương pháp luận: Luận văn sử dụng phép biện chứng duy vật, kết hợp
giữa phương pháp lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp trong nghiên cứu các
công trình khoa học, các luận văn, luận án, những bài báo trong các tạp chí nói về
đạo đức thanh niên.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào việc nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn
những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với công tác
giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc,
nhất là trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo
trong công tác giáo dục đạo đức thanh niên hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương 4 tiết.


8
Chương 1
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.1 Những tiền đề, điều kiện hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.1 Đạo đức truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại, cơ sở hình
thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Việt Nam cũng như bất kỳ một dân tộc nào khác trên thế giới, cũng có
một truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, một đời sống tinh thần
phong phú với những nét đặc thù riêng. Một trong những nét nổi bật nhất đó là
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống nhân ái. Điều đó bắt nguồn từ chính điều
kiện sinh sống của dân tộc. Việt Nam nằm trong khu vực có nhiều thiên tai, vì
vậy đòi hỏi con người không những phải có nghị lực phi thường mà còn phải có
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Những
truyền thống tốt đẹp đó đã dần được hình thành, được bồi đắp và làm giàu thêm
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó đã ăn sâu và trở thành cội rễ trong đời sống

văn hóa của người Việt.
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, ngoài việc phải gồng mình để
chống đỡ thiên tai, người Việt Nam còn phải luôn luôn chống trả các cuộc xâm
lăng của chế độ phong kiến phương Bắc. Điều này đòi hỏi sự cố kết dân tộc, tinh
thần đoàn kết cao và sự kiên cường bất khuất của mỗi người dân. Chính điều kiện
và hoàn cảnh sống như vậy đã tạo nên một dân tộc Việt Nam với những truyền
thống tốt đẹp, với tinh thần yêu nước cao cả và chủ nghĩa nhân văn mang đậm
những nét riêng. Chính chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân ái đó là hành trang
tinh thần đầu tiên Nguyễn ái Quốc mang theo trong quá trình đi tìm đường cứu
nước và là cơ sở đầu tiên cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh sau này.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, ngay từ rất sớm, Hồ
Chí Minh đã chịu ảnh hưởng của nền giáo dục gia đình với những nguyên tắc
luân lý đạo đức Nho giáo như trung, hiếu, tiết, nghĩa, tam cương ngũ
thường…Hồ Chí Minh đã sớm học được ở người cha đức tính cần cù, tiết kiệm,

9
khiêm tốn, thật thà, sớm học được ở người mẹ lòng yêu thương con người, yêu
quê hương đất nước qua những câu ca dao tục ngữ, những câu hò điệu lý, những
câu hát ru quen thuộc. Như vậy, gia đình chính là nơi đầu tiên nuôi dưỡng tâm
hồn trong sáng của Hồ Chí Minh, là nơi đặt nền móng đầu tiên trong việc hình
thành tư tưởng đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh và cha mẹ chính là những tấm
gương sáng đầu tiên để Hồ Chí Minh học tập và noi theo.
Cùng với gia đình, quê hương xứ Nghệ chính là nơi tiếp nối truyền thống
gia đình trong việc vun trồng và bồi đắp tình cảm, lòng yêu quê hương đất nước
của Hồ Chí Minh. Nghệ An là vùng quê nghèo nhưng có truyền thống hiếu học
lâu đời, có truyền thống yêu nước nồng nàn, có tinh thần tự lực tự cường cao, có
ý chí kiên cường, luôn vùng dậy đấu tranh một cách quyết liệt mỗi khi đất nước
có giặc ngoại xâm. Nơi đây, trong mọi thời kỳ của lịch sử dân tộc đã sinh ra
những người con ưu tú của đất nước và những tên tuổi đó đã đi vào lịch sử dân
tộc như những tấm gương sáng chói về tài năng, về truyền thống văn hóa và về

chủ nghĩa anh hùng cách mạng như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân
Hương, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…Hồ Chí Minh đã sinh ra và lớn lên
trên vùng đất được coi là địa linh nhân kiệt, nơi mà Giáo sư Trần Văn Giàu đã
gọi là “dòng sông văn hóa”, là “Yên - Triệu của nước Việt”. Những truyền thống
tốt đẹp nhất của quê hương đã được Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy và nó đã trở
thành một trong những nền tảng tư tưởng đầu tiên và vững chắc cho sự hình
thành tư tưởng đạo đức của Người sau này.
Sự tiếp thu, lĩnh hội những giá trị đạo đức truyền thống của Hồ Chí Minh
là trên tinh thần chọn lọc và kế thừa những yếu tố tích cực, gìn giữ và phát huy
những nét đẹp trong truyền thống đạo đức của dân tộc, đồng thời loại trừ những
yếu tố cổ hủ, lạc hậu, cản trở sự phát triển của xã hội. Sự tiếp thu những giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc của Hồ Chí Minh là theo tinh thần “gạn đục khơi
trong”, chắt lọc lấy những gì tinh túy nhất từ hệ giá trị đạo đức truyền thống. Hồ
Chí Minh đã vận dụng những chuẩn mực đạo đức truyền thống một cách khoa
học, đồng thời có sự cách tân, đổi mới và bổ sung những yếu tố mới, phù hợp với

10
điều kiện hoàn cảnh đất nước trong giai đoạn mới. Bản thân cuộc đời và hệ thống
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chính là biểu hiện rõ nét nhất và đầy đủ nhất cho
những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần tiếp thu từ hệ giá trị và những di sản đạo đức
truyền thống thì Hồ Chí Minh có lẽ sẽ rơi vào chủ nghĩa dân tộc chật hẹp. Điều
làm nên giá trị và sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng đạo đức của Người nói riêng chính là sự vươn xa, tiếp cận những giá trị
tinh hoa văn hóa của nhân loại. Vì vậy, nghiên cứu những nguồn gốc và cơ sở
hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cần phải xem xét, nhìn nhận từ nhiều
chiều cạnh và góc độ khác nhau. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự lĩnh hội,
kế thừa và phát huy của nhiều tư tưởng đạo đức từ trước đó. Chủ nghĩa Mác
Lênin đã chỉ ra rằng: tư tưởng của thời đại không phải tự nhiên mọc lên như nấm
sau cơn mưa, mà nó là sản phẩm, là tinh hoa của toàn bộ các điều kiện kinh tế, xã

hội, văn hóa tư tưởng mà nhân loại đã tích lũy được cho đến giai đoạn đó. Tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức của Người nói riêng cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Phải khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh chịu
ảnh hưởng rất lớn, mang dấu ấn của cả Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo trong đó
đậm nét hơn cả là dấu ấn của Nho giáo. Khi nói về nguồn gốc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh Giáo sư Trần Văn Giàu đã cho rằng: “nói Nho giáo thì đúng
là có phần hẹp, hẹp là vì, nếu tôi không lầm thì trong tác phẩm và tác phong của
cụ Hồ ngoài dấu ấn của Nho giáo còn có không ít dấu ấn của Lão giáo, của bách
gia chư tử. Vậy có thể nói rằng một trong những cội nguồn văn hoá trước tiên,
hay là một trong những tảng đá làm nền tư tưởng Hồ Chí Minh là hán học, Hán
học rộng hơn là Nho học” [21; tr 32].
Tuy nhiên sự kế thừa của Hồ Chí Minh đối với những tư tưởng đạo đức
Nho giáo là trên tinh thần chọn lọc những yếu tố tích cực nhất và phù hợp nhất.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu không ít những nguyên lý, những chuẩn mực đạo đức
của Nho giáo như tinh thần trung, hiếu, tiết, nghĩa, nhân, trí, dũng, liêm và không
thể không nói đến tinh thần “tu thân” trong đạo Nho, bởi đó chính là quá trình tự

11
trau dồi và hoàn thiện con người về mặt đạo đức. Tu thân là cơ sở đầu tiên để tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ. Bên cạnh đó Hồ Chí Minh cũng phê phán và loại bỏ
những yếu tố thủ cựu, lạc hậu, tiêu cực của học thuyết Nho giáo như tư tưởng
đẳng cấp, trọng nam khinh nữ. Hồ Chí Minh đã ứng dụng học thuyết Nho giáo
vào xã hội Việt Nam một cách sáng tạo, làm cho nó phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh đất nước, phù hợp với thời đại mới. Nhận xét về điều này, Giáo sư Đào
Duy Anh đã cho rằng:
“trong phong cách, phẩm cách và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có
nhiều yếu tố của Nho giáo mà chính những yếu tố Nho giáo ấy dung hòa nhuần
nhuyễn với những truyền thống ưu tú của dân tộc đã làm cho con người Macxít –
Lênin nít vĩ đại làm nhân dân thế giới ngưỡng mộ ấy cái sắc thái độc đáo đã nói ở
trên” [dẫn theo 65; tr 28]. Hay như Giáo sư Đinh Xuân Lâm đã Nhận xét: “dù

cho còn bị hạn chế phần nào bởi khuôn khổ chật hẹp với ý thức hệ phong kiến,
nền văn hóa dân tộc vẫn thấm đượm tính nhân văn được đánh dấu một cách sâu
sắc bởi một truyền thống yêu nước chống ngoại xâm mãnh liệt, bởi một đạo lí
cao cả luôn hướng về những người lao động nghèo khổ…đó là môi trường sống,
cũng là nền tảng văn hóa của Nguyễn Sinh Cung” [32; tr 262- 263].
Bên cạnh Nho giáo, Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật
giáo, đặc biệt là tư tưởng đạo đức. Hồ Chí Minh đã tiếp thu từ giáo lí nhà Phật
tinh thần từ bi hỉ xả, lòng thương yêu, khoan dung độ lượng đối với con người,
sự tin tưởng ở lòng hướng thiện của con người và luôn dùng lời lẽ để khuyên răn,
giáo dục con người. Sự tiếp thu những tư tưởng đạo đức của Phật giáo càng làm
sâu sắc thêm tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh. Điều đó thể hiện rõ
trong việc Người dành tình yêu thương cho tất cả mọi người dân không phân biệt
già, trẻ, gái, trai, không phân biệt đẳng cấp tầng lớp trong xã hội. Đặc biệt, Hồ
Chí Minh đã dành tình cảm thương yêu nhiều nhất cho những người lao động,
những người cùng khổ trong xã hội, những người dễ bị tổn thương nhất, như
người già, phụ nữ, trẻ em…

12
Ngoài những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên nền tảng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh như truyền thống đạo đức dân tộc, sự ảnh hưởng sâu đậm của
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo chúng ta còn thấy trong suốt quá trình hoạt động
cách mạng Hồ Chí Minh đã không ngừng học tập, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa của nhân loại. Trong những năm đầu tiên của thế kỷ 20, chủ nghĩa Tam Dân
của Tôn Trung Sơn đã được truyền bá vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận
tư tưởng tiến bộ này và Người đã cố gắng tiếp thu nó theo cách riêng của mình,
đã phát triển các khái niệm độc lập, tự do, hạnh phúc – hạt nhân của chủ nghĩa
Tam Dân sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, lịch sử của Việt Nam, làm
cho nó mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc, tính cách mạng triệt để
trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh còn được biết đến tinh

thần Tự do – bình đẳng – bác ái của cách mạng phương Tây và Người đã tìm
cách để tiếp cận, tìm hiểu về tư tưởng tiến bộ đó. Quá trình tiếp thu văn hóa
phương Tây không phải là sự đoạn tuyệt với văn hóa cổ truyền Việt Nam mà là
sự bổ sung thêm về mặt kiến thức. Quá trình đó càng làm uyên bác thêm vốn
kiến thức của Người, làm cho Người hiểu rõ hơn về tình cảnh của nhân dân lao
động không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới, làm sâu sắc thêm tình thương
của Người đối với nhân dân lao động và những người bị áp bức bóc lột.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức của Người nói
riêng là kết quả quá trình học tập, rèn luyện không ngừng. Quá trình học tập, tiếp
thu của Hồ Chí Minh đã không diễn ra một cách thụ động xuôi chiều mà luôn có
sự trao đổi, sàng lọc đối với văn hóa dân tộc. Người chỉ giữ lại và phát huy
những yếu tố tích cực, loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực, ảnh hưởng xấu và
cản trở sự phát triển của xã hội. Đối với văn hóa nước ngoài, Người chỉ tiếp thu
và vận dụng những yếu tố phù hợp với truyền thống dân tộc, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của đất nước. Hồ Chí Minh đã không lặp lại truyền thống một
cách giản đơn. Người cũng không chỉ dừng lại ở việc học tập tiếp thu từ truyền

13
thống văn hoá của dân tộc Việt Nam, mà đã tiếp cận và tiếp thu từ tất cả các nền
văn hóa tiên tiến nhất của nhân loại.
Hồ Chí Minh đã chắt lọc tất cả những gì tinh túy nhất từ văn hóa nhân
loại, từ tư tưởng của những con người vĩ đại. Người đã tiếp thu từ Khổng Tử sức
mạnh của đạo đức cá nhân và quá trình tu dưỡng đạo đức cá nhân, tiếp thu từ
Phật lòng từ thiện, từ Giêxu ước mơ hoàn thiện nhân cách con người, từ Tôn Dật
Tiên ý tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc, từ chủ nghĩa Mác – Lênin phép biện
chứng duy vật. Như người đã nói:
“Học thuyết Khổng tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêxu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là cách làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều

kiện nước ta.
Khổng tử, Giêxu, Mác, Tôn Dật Tiên Chẳng phải có những ưu điểm
chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc
cho xã hội”. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi
tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân
thiết. Từ đó, Hồ Chí Minh đã nói rõ rằng: “tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của
các vị ấy”. [dẫn theo 20; tr 51]
Tuy tiếp thu, học tập từ bên ngoài rất nhiều nhưng chúng ta thấy rõ rằng,
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là của riêng Hồ Chí Minh chứ không phải của ai
khác. Nó là sản phẩm của sự giáo dục gia đình, của truyền thống quê hương đất
nước và vẫn mang những nét độc đáo riêng rất Hồ Chí Minh. Trong quá trình
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh luôn trên tinh thần gìn giữ vốn
văn hóa riêng, đặc sắc của dân tộc. Dù cho đã đi qua nhiều trung tâm văn hóa
trên thế giới, sống ở nhiều đất nước khác nhau, trong nhiều điều kiện hoàn cảnh
khác nhau nhưng Người vẫn mang trong mình cốt cách của dân tộc Việt Nam,
tinh thần của Việt Nam. Người đã không bị hòa tan trong các nền văn hóa khác
bởi Người có tấm lòng yêu nước nồng nàn cháy bỏng, nó đã hằn sâu trong trái

14
tim và khối óc của Người. Bản thân Hồ Chí Minh chính là một tấm gương sáng
chói về sự chống lại những văn hóa lai căng và gìn giữ những nét đẹp của truyền
thống văn hóa dân tộc.
1.1.2 Đạo đức học Mác – Lênin, cơ sở lí luận hình thành tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh
Trong lịch sử đạo đức học, nhiều học thuyết đạo đức đã tồn tại hàng ngàn
năm ở cả phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên các học thuyết đó ngoài
những yếu tố tích cực, hướng tới hoàn thiện đạo đức, nhân cách con người thì
còn mang trong nó những yếu tố tiêu cực.
ở phương Đông, tư tưởng đạo đức trong học thuyết Nho giáo của Khổng
tử khá phổ biến và ảnh hưởng khá lớn trong đời sống tinh thần của người dân

nhiều nước. Tuy nhiên, nó còn mang tính thần bí, mang tính đẳng cấp rõ rệt, nó
ru ngủ người dân, khuyến khích con người an phận với số mệnh đã được “ông
trời” định đoạt của mình.
Với đạo đức Phật giáo, dù cho trong học thuyết của mình đã rất quan tâm
đến việc tu dưỡng và hoàn thiện nhân cách của con người, hướng con người
tránh xa những hành vi xấu thì giáo lí Phật giáo vẫn còn mang yếu tố duy tâm khi
hướng con người đến cõi Niết Bàn, cực lạc. Đạo đức Phật giáo cũng tạo cho con
người tâm lí an phận, cam chịu và con đường để thoát khỏi mọi khổ đau là cắt
đứt với việc đời, việc người, tu hành để đến cõi Niết Bàn, đến miền cực lạc.
ở phương Tây, mặc dù trong thời kỳ cận đại đã có nhiều tư tưởng đạo đức
khá tiến bộ. Nhưng phổ biến nhất trong xã hội vẫn là tư tưởng đạo đức Thiên
Chúa giáo. Mặc dù sức hút và ảnh hưởng của nó hầu như lan tỏa trong khắp xã
hội, nhưng xét về bản chất, nó là một học thuyết mang tính chất duy tâm tôn
giáo, nó xoa dịu những nỗi đau trong thực tại của con người bằng cách hướng họ
đến một thế giới bên kia, một thế giới của Chúa sau khi đã chết đi. Tư tưởng đạo
đức Thiên Chúa giáo cũng làm triệt tiêu tinh thần đấu tranh của con người để
giành lấy một cuộc sống tốt đẹp hơn.

15
Như vậy, hầu như tất cả những học thuyết đạo đức trong truyền thống bên
cạnh những tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh hành vi của con người thì vẫn
còn mang trong nó những yếu tố duy tâm chủ nghĩa hoặc mang tính chất tôn
giáo, chưa chỉ ra được con đường hiện thực để đưa con người thoát khỏi sự bất
công trong xã hội, thoát khỏi ách áp bức bóc lột của các tầng lớp trên.
Với quan niệm duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, có tác dụng điều chỉnh hành
vi của con người trong các mối quan hệ xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kiên
quyết gạt bỏ những học thuyết đạo đức có tính chất tôn giáo và duy tâm chủ
nghĩa, những học thuyết đạo đức được rút ra từ những nguồn gốc phi lịch sử và
cũng đã chứng minh rằng đạo đức mang tính lịch sử, mỗi giai đoạn lịch sử thì

quan niệm về đạo đức cũng khác nhau.
Đạo đức học Mác – Lênin chỉ ra rằng, đạo đức của xã hội, một mặt do
điều kiện kinh tế – xã hội lúc bấy giờ quy định, mặt khác nó cũng có mối quan hệ
với các hình thái ý thức xã hội khác và chịu sự tác động của các hình thái ý thức
xã hội đó. Điều đó cho phép chúng ta giải thích một cách đúng đắn, khoa học
những hiện tượng đạo đức trong xã hội, đồng thời cũng cho phép con người tìm
ra những con đường, những biện pháp khoa học để hoàn thiện đạo đức xã hội.
Tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ ra rằng, con người muốn
có đời sống tốt đẹp trong xã hội, một đời sống vật chất đầy đủ, một đời sống tinh
thần lành mạnh và phong phú, một cuộc sống gia đình hạnh phúc thì phải tiến
hành cuộc đấu tranh để xoá bỏ chế độ bất công, tổ chức một xã hội mới. Cuộc
sống hạnh phúc và tốt đẹp của con người do chính con người quyết định chứ
không phải do bất kì một đấng siêu nhiên nào sáng tạo ra.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra cho con người một con đường
đúng đắn nhất, hiện thực nhất để có một cuộc sống tốt đẹp hơn bằng chính tinh
thần đấu tranh, bằng chính sự lao động của mình, con người có thể làm chủ cuộc
sống của mình. Đạo đức học Mác – Lênin đã cổ vũ cho tinh thần đấu tranh, tinh

16
thần lao động và phấn đấu hết mình cho một xã hội tốt đẹp của quần chúng nhân
dân lao động.
Quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính tích cực rõ rệt.
Quan niệm đó được rút ra từ thực tiễn đời sống xã hội, từ việc phản ánh tư tưởng
đạo đức cách mạng phù hợp với hoàn cảnh mới và thời đại mới. Đạo đức của chủ
nghĩa Mác - Lênin là đạo đức hướng đến việc mang lại lợi ích và công bằng đến
với mọi người dân lao động. Đó là đạo đức mang lại quyền lợi cho số đông trong
xã hội, là đấu tranh để giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột. Đó là quan
điểm đạo đức tiên tiến nhất lúc bấy giờ.
Hồ Chí Minh đã bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa nhân đạo cao
cả của nhân loại, đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân lao động, đó là điều mà Hồ

Chí Minh đang mong mỏi và cũng đã bỏ nhiều công sức để tìm kiếm. Sự bắt gặp
chủ nghĩa Mác - Lênin đã khiến cho những nền tảng đạo đức căn bản là lòng
yêu nước thiết tha cháy bỏng, lòng yêu thương con người sâu sắc ở Hồ Chí Minh
có điều kiện phát triển. Tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là cơ
sở quan trọng để tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giải quyết một cách thấu đáo,
hợp lí mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cá nhân và xã hội. Qua nghiên
cứu học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên khoa học hơn,
dần được hoàn chỉnh thêm và được tăng thêm sức sống.
1.1.3 Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh với sự hình thành tư tưởng đạo đức
của Người
Sẽ là không đầy đủ nếu ta chỉ xét đến những nhân tố khách quan mà
không xét đến nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến quá trình hình thành tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Bản thân Hồ Chí Minh chính là một nhân tố quan trọng và có
tính chất quyết định cho sự hình thành tư tưởng đạo đức của Người.
Hồ Chí Minh là người có tố chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo,
ham hiểu biết, nhạy bén với cái mới Tất cả những điều nói trên đều đã được
thực tiễn cách mạng và lịch sử chứng minh một cách rõ ràng nhất.

17
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, mong muốn cho đất nước được giải
phóng khỏi ách nô lệ, được độc lập tự do. Dù rất khâm phục và kính trọng các vị
tiền bối, song Hồ Chí Minh đã không tán thành con đường cứu nước của họ.
Người đã quyết tâm lựa chọn con đường riêng của mình, đi tìm con đường cứu
nước mới thực sự phù hợp với đất nước. Trong quá trình đó, Người đã đi qua
nhiều châu lục, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của nhân loại, đã học tập không
ngừng nghỉ, học tập một cách sáng tạo, học mọi lúc mọi nơi và Hồ Chí Minh đã
tỏ ra là người có ý thức chủ động sáng tạo trong việc học tập tiếp thu các học
thuyết đạo đức trên thế giới. Trong suốt ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài và
trong thời gian trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong nước, Hồ Chí Minh đã tích lũy
được khối lượng tri thức khổng lồ của nhân loại, tích lũy được những kinh

nghiệm phong phú và quý báu, đã trở thành một nhà tư tưởng lớn, một lãnh tụ vĩ
đại của đất nước, một nhà lãnh đạo cách mạng có tầm cỡ và uy tín trên thế giới,
một nhà ngoại giao có văn hóa lịch lãm và tinh tế, có nghị lực và bản lĩnh phi
thường.
Quá trình hoạt động cách mạng cũng đã giúp Hồ Chí Minh có sự trải
nghiệm thực tiễn, nhận thức vấn đề một cách sâu sắc, làm cho tư duy của Người
thêm nhạy bén với mọi thay đổi của thời đại, nhạy bén với những vấn đề mới có
thể nảy sinh, có thể nhìn xa trông rộng mọi vấn đề của cách mạng. Quá trình hoạt
động đó đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức từ rất sớm và rất rõ về vai trò quan
trọng của đạo đức cách mạng trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Người đã chỉ
rõ: người cách mạng phải có đạo đức cách mạng thì mới gánh đuợc nặng và đi
đuợc xa. Nếu không có đạo đức cách mạng thì không thể hoàn thành được sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay từ những năm 20 của thế
kỷ XX, khi viết tác phẩm “Đường kách mệnh” Hồ Chí Minh đã dành riêng một
phần để nói về tư cách của một người cách mệnh, trong đó Người đã nêu lên tất
cả những phẩm chất đạo đức mà một người cách mệnh cần phải có và cần phải
rèn luyện. Cũng chính từ việc nhận thức được vai trò quan trọng của đạo đức
trong đời sống và trong hoạt động cách mạng cho nên trong rất nhiều các bài

18
viết, bài nói chuyện sau này Người đã dành phần lớn để nói về đạo đức cách
mạng.
Không chỉ thấy được vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, với kinh nghiệm thực
tiễn, với tầm nhìn xa trông rộng và với sự nhạy cảm của mình, Hồ Chí Minh đã
hết sức cảnh giác trước những nhân tố có thể làm suy thoái đạo đức của cán bộ
đảng viên như sức quyến rũ của đồng tiền, sức mạnh của quyền lực. Vì vậy
Người đã sớm tiến hành công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho mọi tầng lớp
nhân dân, ở mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, đặc biệt là đối với thanh niên - những
chủ nhân tương lai của đất nước, những người sẽ tiếp nối thế hệ cha anh, những

người sẽ nắm giữ vận mệnh của dân tộc.
Như vậy, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải tự nhiên có được,
cũng không phải là sản phẩm thuần túy được rút ra từ trong đầu Hồ Chí Minh mà
là sản phẩm của quá trình tiếp thu học hỏi và vận dụng một cách sáng tạo từ di
sản đạo đức truyền thống của dân tộc, từ tinh hoa văn hóa của nhân loại và từ
chính tài năng, trí tuệ và bản lĩnh Hồ Chí Minh. Những kiến thức mà Hồ Chí
Minh tiếp thu được đã được soi dọi dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin với
một phương pháp luận khoa học – phương pháp biện chứng duy vật đã giúp
Người nhận thức, vận dụng một cách sáng tạo những kiến thức mà Người đã tích
lũy được. Từ đó Người đã đưa ra nhiều luận điểm mới trong tư tưởng đạo đức
của mình, Người đã xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới trên cơ sở những
chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc, phát triển nó thành đạo đức cách
mạng trong giai đoạn mới, phù hợp với yêu cầu của lịch sử. Tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh cũng là kết quả của quá trình tự rèn luyện, tự giáo dục; là kết quả
của quá trình học tập không ngừng nghỉ, học tập một cách có ý thức và theo một
phương thức riêng của mình. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh cô
đọng những yếu tố đạo đức truyền thống và những yếu tố của thời đại để hình
thành nên một quan điểm đạo đức rất riêng, rất Hồ Chí Minh và mang đậm bản
sắc của dân tộc Việt Nam.

19
1.2 Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh của những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp đã được chắt lọc, được cách tân cho phù hợp với thời đại
mới. Đó cũng là kết quả của quá trình học tập, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại để hình thành nên một tư tưởng đạo đức đặc biệt với diện mạo riêng,
mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Đó là một hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh
với cấu trúc nội tại bao gồm vị trí, vai trò của đạo đức; hệ thống luận điểm với
mối quan hệ mật thiết tạo thành một chỉnh thể; những phẩm chất đạo đức trong
giai đoạn mới và những nguyên tắc để rèn luyện đạo đức trong suốt quá trình

hoạt động cách mạng và trong đời sống hàng ngày.
1.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vai trò, vị trí của đạo đức
cách mạng
Đạo đức cách mạng theo quan niệm của Hồ Chí Minh đó là đạo đức của
giai cấp công Việt Nam, đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân và của
toàn dân tộc Việt Nam. Đạo đức đó phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc và phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam.
Đạo đức cách mạng bao gồm những nội dung chính là: lòng yêu thương con
người, trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, đoàn
kết nhất trí trong Đảng và trong nhân dân, tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng có vị trí quan trọng trong
việc hình thành con người mới. Để con người có thể phát triển hoàn thiện thì phải
tiến hành giáo dục một cách toàn diện cả về tài năng và trí tuệ, trong đó, đạo đức
là gốc của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng con người sẽ có thêm nghị
lực để phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, vươn lên trong mọi lĩnh vực.
Theo Hồ Chí Minh thì một người có năng lực thôi chưa đủ. Ngoài năng
lực còn phải là một người có phẩm chất đạo đức tốt, bởi “có tài mà không có đức
là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Tài là tài
năng trí tuệ, là sự hiểu biết những tri thức văn hóa, khoa học kỹ thuật. Đức là đạo
đức, là lối sống, cách ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội.

20
Trong mối quan hệ giữa đức và tài thì đức đóng vai trò là phương hướng,
là động lực phục vụ xã hội của mỗi cá nhân. Đức ở đây phải trả lời cho câu hỏi
mình phục vụ ai? Nếu không trả lời đúng câu hỏi này thì dù tài giỏi mấy cũng vô
dụng, thậm chí có hại cho dân cho nước.
Một người có tài cần phải có tư tưởng, có ý thức phục vụ nhân dân, một
lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, không tư tuí cá nhân, công tâm,
chính trực. Đó cũng là cơ sở của một người có cái đức xã hội chủ nghĩa. Nếu
không có những con người có tư tưởng phục vụ nhân dân thì sự nghiệp cách

mạng giải phóng dân tộc của đất nước ta sẽ không bao giờ có thể thành công
được.
Sự gắn bó khăng khít giữa đức và tài còn thể hiện ở chỗ: tài năng của con
người có liên quan chặt chẽ đến việc anh ta sử dụng tài năng đó như thế nào. Một
người có tài năng nhưng trong đầu óc đầy rẫy những tư tưởng tư sản, không
muốn phục vụ nhân dân, chỉ mưu lợi ích riêng cho bản thân mình thì cái tài ấy dù
có cao siêu đến đâu đi chăng nữa cũng không có lợi ích gì cho dân cho nước, vì
những người đó lúc nào cũng chỉ bo bo giữ quyền lời cho mình, bắt người khác
phục vụ mình. Một người có tài trước hết phải là người khiêm tốn, không tự kiêu
tự mãn, phải là người gần gũi với nhân dân, quan tâm đến lợi ích chung của tập
thể, của nhân dân, tự nguyện đem tài năng của mình phục vụ nhân dân, không
suy bì lợi ích danh vọng cá nhân thì cái tài ấy mới thực sự có ích.
Là một người có hiểu biết sâu rộng và chịu ảnh hưởng lớn của nền văn
hóa phương Đông nói chung và nền giáo dục Nho học nói riêng, Hồ Chí Minh
luôn coi đạo đức là tiêu chí quan trọng để đánh giá một con người, coi đó là một
trong những tiêu chí để con người có thể hoàn thiện nhân cách. Đặc biệt là đối
với người cách mạng thì tiêu chuẩn đạo đức là đầu tiên và không thể thiếu.
Đạo đức cách mạng giúp cho con người giữ vững được niềm tin, lí trí, có
thêm nghị lực để vượt qua mọi khó khăn gian khổ, giữ vững được mục tiêu phấn
đấu. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không
sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Theo Hồ Chí Minh: “làm cách mạng là để cải tạo xã hội

21
cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm
vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ, có sức mạnh
mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[47; tr 282].
Người còn nhấn mạnh thêm: “Cũng như sông thì có nhiều nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn, cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không

lãnh đạo được nhân dân”[43; tr 252].
Có đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ và chiến sĩ cách mạng mới gần gũi,
gắn bó với nhân dân, hiểu được những tâm tư nguyện vọng của nhân dân, hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, luôn ra sức học hỏi những kinh
nghiệm từ dân mà không tự kiêu tự mãn, không lên mặt “quan cách mạng”.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng mới được dân tin tưởng, từ đó, việc tuyên
truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước sẽ dễ dàng hơn.
Cuộc cách mạng của nhân dân ta còn dài, còn có nhiều khó khăn phức tạp. Vì
vậy, có đạo đức cách mạng, thì khi chiến thắng sẽ không kiêu căng, khi thất bại
sẽ không nản chí.
Hồ Chí Minh cũng thấy rõ rằng, đạo đức cách mạng không chỉ có tác dụng
trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn có tác dụng to lớn khi cách
mạng đã thành công. Người đã ý thức được rằng, giành được chính quyền đã
khó, giữ được chính quyền còn khó hơn. Vì vậy, có đạo đức cách mạng sẽ giúp
mỗi người có thể giữ vững được lập trường, tránh được những cám dỗ trong cuộc
sống. Có đạo đức cách mạng thì khi thắng lợi và thành công vẫn giữ được sự
khiêm tốn, khi gặp khó khăn thì luôn bình tĩnh tìm cách vượt qua.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ, phải thực hành đạo đức cách mạng trong
công việc, trong tổ chức, trong phong trào thi đua yêu nước, trong lối sống và
hành vi của cán bộ công chức, đặc biệt là những người lãnh đạo có chức có
quyền. Bởi có đạo đức cách mạng thì mới không bị quyền lực làm cho tha hoá,

22
mới công tâm chính trực giải quyết mọi việc lớn nhỏ, mới không tham ô tham
nhũng hay làm thất thoát của cải của nhà nước.
Ngay từ những ngày đầu bước chân vào con đường hoạt động cách mạng,
Hồ Chí Minh đã ý thức sâu sắc về vai trò của đạo đức cách mạng. Bản thân
Người đã luôn phấn đấu, học hỏi, rèn luyện để hoàn thiện mình và Người cũng
không quên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho quần chúng
nhân dân, đặc biệt là đối với cán bộ đảng viên. Ngay trong tác phẩm “Đường

cách mệnh” Hồ Chí Minh đã dành phần đầu tiên để nói về tư cách của một người
cách mệnh với 23 điều cụ thể. Trong đó, Người đã nêu lên những phẩm chất
quan trọng nhất mà một người cách mạng cần phải phấn đấu và rèn luyện. Khi
cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhìn thấy nguy
cơ suy thoái đạo đức trong đội ngũ cán bộ khi họ lên nắm quyền. Vì vậy, sau khi
cách mạng tháng Tám thành công được 2 năm Người đã viết tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc” để giáo dục cán bộ đảng viên, để đào tạo những cán bộ có phẩm
chất đạo đức tốt, không bị chi phối bởi quyền lực, địa vị, không gục ngã trước
những “viên đạn bọc đường”. Trong tác phẩm này, Người cũng đã nêu lên những
ưu nhược điểm của người cán bộ, đã chỉ ra những sai trái, những lỗi thường gặp
trong đạo đức và trong tác phong làm việc, đồng thời Người cũng chỉ ra cách
phòng tránh và sửa chữa những lỗi đó. Trong nhiều tác phẩm sau này và cho đến
cuối đời, trong bản Di chúc, Bác vẫn luôn quan tâm đến việc giáo dục đạo đức
cho cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân.
Như vậy, trong bất kì một xã hội nào, giai đoạn lịch sử nào thì đạo đức
luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng
viên thì vai trò của đạo đức càng trở lên quan trọng hơn nữa. Đạo đức ảnh hưởng
và chi phối đến mọi hoạt động, hành vi, cách cư xử của con người trong các mối
quan hệ xã hội. Việc coi đạo đức là “gốc của người cách mạng” của Hồ Chí
Minh là hoàn toàn chính xác. Tư tưởng lấy đạo đức làm gốc của Hồ Chí Minh đã
cho thấy tác dụng to lớn của nó trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc
và cho đến nay khi đất nước đã hòa bình và phát triển thì tư tưởng đó vẫn còn

23
nguyên giá trị. Trong thời kỳ xây dựng đất nước hiện nay, chúng ta càng nhận
thấy rõ hơn vai trò của đạo đức cách mạng là vô cùng quan trọng. Nó là một
trong những nhân tố góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cho đất
nước và là một trong những nhân tố đảm bảo cho cuộc cách mạng trong giai
đoạn mới thắng lợi.
1.2.2 Những chuẩn mực đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh đã tiến hành một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức và
được coi là nguời đặt nền móng cho đạo đức mới – đạo đức cách mạng. Đó là
đạo đức được xây dựng dựa trên nền tảng của đạo đức truyền thống nhưng lại có
những điểm cách tân đổi mới phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới, đồng
thời có sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn với những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Đạo đức mới – đạo đức cách mạng là đạo đức vì quyền lợi của đông đảo nhân
dân lao động. Đạo đức đó không mang tính đẳng cấp như đạo đức Nho giáo,
cũng không phải đạo đức vị kỷ kiểu tư sản và cũng không giống hoàn toàn như
đạo đức Mác – Lênin, đạo đức đấu tranh quyết liệt giữa vô sản và tư sản. Đạo
đức mới của Hồ Chí Minh mang đậm bản sắc của dân tộc Việt Nam, phù hợp với
con người và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, dựa trên nền tảng lí luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Như Hồ Chí Minh đã nói: “đạo đức cũ giống như người
đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng
vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”[44; tr 320- 321]
Việc giáo dục đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh quan tâm và dành
cho mọi người dân, mọi tầng lớp. Nhưng vì thanh niên là tương lai của cả dân tộc
nên Người luôn dành sự quan tâm giáo dục đặc biệt đối với tầng lớp này. Đạo
đức mới bao gồm những nội dung chính sau:
Thứ nhất, lòng yêu thương con người, sống có nghĩa có tình
Như trên đã nói, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mang dấu ấn đậm nét và
là sự biểu hiện tập trung nhất những giá trị tốt đẹp của đạo đức truyền thống Việt
Nam. Hồ Chí Minh đã tiếp thu từ nền đạo đức truyền thống dân tộc không ít yếu

24
tố, trong đó trước tiên phải kể đến là lòng nhân ái, tình yêu thương quý mến con
người, nâng nó lên thành chủ nghĩa nhân văn cách mạng trong thời đại mới.
Tuy bắt nguồn từ đạo đức truyền thống dân tộc, nhưng tình yêu thương
con người của Hồ Chí Minh có những điểm khác biệt mang tinh thần của thời
đại.
Trước hết, tình thương của Hồ Chí Minh không phải là tình thương ban

phát, mà nó xuất phát từ trái tim, từ tâm trí của Người. Tình thương đó đã được
hun đúc, được bồi đắp từ truyền thống gia đình, từ truyền thống quê hương,
truyền thống dân tộc. Tình thương của Bác là tình thương mênh mông, bao dung
hết thảy, cảm hóa được mọi người. Bác dành tình thương cho mọi giai cấp, mọi
tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là đối với nhân dân lao động, những người cùng
khổ trong xã hội.
Không chỉ dành tình thương cho nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng
dành tình thương cho tất cả những người lao động nghèo khổ trên thế giới. Bởi
Người nhận ra rằng, dù ở bất kỳ đâu, dù bất kì màu da nào thì cũng chỉ có thể
chia làm hai loại người là kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Nếu phần lớn những
người đến thăm tượng Nữ thần Tự do của nước Mĩ đều ngước lên để nhìn ngắm
sự lung linh của ánh hào quang tỏa ra từ trên đầu bức tượng thì Hồ Chí Minh lại
nhìn xuống dưới chân tượng để cảm thông trước những người lao động nghèo
khổ. Và ngay cả khi đang còn trong nhà lao của Tưởng Giới Thạch, Người vẫn
dành tình thương và đau xót thay cho những số phận éo le ngang trái như một
người phụ nữ hay một cháu nhỏ phải vào nhà lao thay cho chồng và cha vì trốn
lính. Điều đó cho thấy tình thương của Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong
phạm vi dân tộc Việt Nam, mà còn vượt qua không gian để đến với những người
dân lao động trên toàn thế giới.
Tình thương của Hồ Chí Minh không phải là tình thương chung chung,
trừu tượng mang tính ước lệ, mà đó là tình thương yêu hiện thực nhất. Tình
thương đó không chỉ dừng lại trên giấy bút, trong lời nói hay trong bất kì một lời
hứa hẹn nào mà nó thể hiện ngay trong sự quan tâm thiết thực đến đời sống vật

×