Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Quan niệm của C.Mác về Tha hóa trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.15 KB, 107 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN







LÊ KIềU ANH






QUAN NIệM CủA C.MáC Về "THA HOá"
TRONG "BảN THảO KINH Tế - TRIếT HọC NĂM 1844"








LUậN VĂN THạC Sỹ
Chuyên ngành: Triết học












Hà Nội - 2014
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN






LÊ KIềU ANH





QUAN NIệM CủA C.MáC Về "THA HOá"
TRONG "BảN THảO KINH Tế - TRIếT HọC NĂM 1844"






Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80





Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Hữu Toàn






Hà Nội - 2014




LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS, TS. Đặng Hữu Toàn. Các số liệu, tài liệu trong luận văn
là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.


Hà nội, ngày tháng năm 2014

Tác giả




Lê Kiều Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. BỐI CẢNH RA ĐỜI, KẾT CẤU VÀ NHỮNG NỘI DUNG
CƠ BẢN CỦA “BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844” 7
1.1. Bối cảnh ra đời Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 7
1.2. Kết cấu và nội dung căn bản của Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 10
1.3. Vị trí của Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 trong triết học
Mác, chủ nghĩa Mác 17
Chƣơng 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN NIỆM
CỦA C.MÁC VỀ THA HÓA TRONG “BẢN THẢO KINH TẾ -
TRIẾT HỌC NĂM 1844” 33
2.2. Quan niệm của C.Mác về tồn tại người và sự tha hóa bản chất người 43
2.3. Quan niệm của C.Mác về sự “tha hóa của lao động” và “lao động
bị tha hóa” 53
2.4. Quan niệm của C.Mác về sự xóa bỏ tha hoá 68
Chƣơng 3. Ý NGHĨA QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VỀ “THA HÓA”
ĐỐI VỚI VIỆC NHẬN DIỆN VÀ KHẮC PHỤC HIỆN TƢỢNG
THA HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 74
3.1. Hiện tượng tha hóa trong đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam
hiện nay nhìn từ quan niệm của C.Mác về “tha hóa” 74
3.2. Vấn đề khắc phục tha hóa trong đời sống kinh tế ở Việt Nam
hiện nay 84

KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua một chặng
đường hơn 25 năm. Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới trên nền
tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Việt Nam
chúng ta đã vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ ổn định và phát triển
mới. Cùng với những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, diện mạo đất nước ta đã
có nhiều thay đổi tích cực trên tất cả các lĩnh vực, chúng ta đã vượt ra khỏi
tình trạng của một nước kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi
tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập tự chủ và
chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh
mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước
nhiều thách thức lớn, đan xen nhau và diễn biến phức tạp, không thể xem
thường. Một trong những thách thức đó là “nguy cơ tha hóa” do tác động mặt
trái của kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường, “nguy cơ tha hóa” đã trở thành một hiện
thực trong đời sống xã hội nước ta. Đó không chỉ là sự tha hóa về đạo đức, về
lối sống và do vậy, là sự “tha hóa bản chất con người”, của một bộ phận dân
cư, trong đó có không ít cán bộ, đảng viên, mà còn là sự tha hóa của lao động,
là “lao động bị tha hóa” do cơ chế thị trường, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do các thành phần kinh tế mà chúng ta chủ
trương phát triển lâu dài, như kinh tế tư nhân, kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu hỗn hợp, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,… tạo ra.

Khắc phục “nguy cơ tha hóa” này không thể một sớm một chiều, mà là
cả một quá trình lâu dài, đầy khó khăn, phức tạp. Khắc phục “nguy cơ tha
hóa” này đòi hỏi chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề, cả trên phương diện lý

2
luận lẫn trên phương diện thực tiễn, trong đó có sự nhận thức và đánh giá về
“nguy cơ tha hóa” này trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói
chung, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang phát triển nói riêng để từ đó, có thái độ và cách thức ứng xử đúng đắn
với bản chất của nó trong đời sống xã hội nước ta hiện nay. Thêm nữa, chúng
ta còn phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu và thực hiện có hiệu quả những
giải pháp này để hạn chế và đi dần đến loại bỏ “nguy cơ tha hóa” đó ra khỏi
đời sống xã hội nước ta và qua đó, thực hiện lý tưởng cao đẹp mà C.Mác vĩ
đại đã khẳng định - giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, thực hiện chiến
lược phát triển con người Việt Nam toàn diện mà Đảng ta đã xác định trong
công cuộc đổi mới đất nước.
Để nhận thức và đánh giá đúng “nguy cơ tha hóa” đó, trước hết chúng ta
cần phải hiểu rõ lý luận về “tha hóa” của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -
Lênin, mà C.Mác đã dành không ít công sức để lý giải hiện tượng đã trở thành
phổ biến này trong xã hội tư bản ở một tác phẩm được coi là xuất phát điểm
cho toàn bộ quá trình nghiên cứu lý luận của ông nói riêng, cho sự hình thành
chủ nghĩa Mác với tư cách một hệ thống lý luận nói chung - Bản thảo kinh tế -
triết học năm 1844. Thêm nữa, đây còn là tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân
văn sâu sắc và thể hiện đậm nét bản chất nhân đạo trong thế giới quan của
C.Mác qua sự luận giải về “Tha hóa” - sự “tha hóa của bản chất con người”, sự
“tha hóa của con người với con người”, sự “tha hóa của lao động” và “lao động
bị tha hóa” - để đi đến quan niệm về sự giải phóng con người, giải phóng giai
cấp vô sản và qua đó, giải phóng nhân loại khỏi mọi sự tha hóa.
Do vậy, có thể nói, làm rõ quan niệm của C.Mác về “Tha hóa” trong
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 giúp tác giả có được cái nhìn khách

quan, đúng đắn hơn về “nguy cơ tha hóa” đang hiện hữu trong nền kinh tế thị
trường, trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay và qua đó, góp phần tìm ra
những giải pháp hữu hiệu để khắc phục và dần đi đến xóa bỏ hiện tượng này
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

3
Với những suy nghĩ trên, tác giả đã lựa chọn “Quan niệm của C.Mác về
“Tha hóa” trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 làm đề tài nghiên cứu
để thực hiện luận văn Thạc Sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 của C.Mác là tác phẩm mà ngay
từ khi mới xuất hiện cho đến nay vẫn luôn là trung tâm của các cuộc tranh
luận gay gắt về di sản lý luận và sự nghiệp sáng tạo khoa học của C.Mác, là
đề tài thu hút sự quan tâm sâu sắc của nhiều học giả, nhà nghiên cứu trên thế
giới. Ở Việt Nam, cũng đã có những công trình, bài viết được công bố về một
nội dung, một vấn đề nào đó trong tác phẩm này của C.Mác. Song, nghiên
cứu chuyên sâu về quan niệm của C.Mác về “Tha hóa” trong tác phẩm này,
có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có. Chúng ta cũng đã có những công trình
nghiên cứu về quan niệm của C.Mác về “tha hóa”, chẳng hạn như công trình
nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Huyền - “Quan niệm của C.Mác về
tha hóa và ý nghĩa của quan niệm đó đối với sự phát triển con người Việt
Nam hiện nay” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010).
Chúng ta cũng đã có những công trình, bài viết giới thiệu khái quát về
tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 của C.Mác. Đó là: Bài viết
của tác giả Đặng Hữu Toàn - “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” - Bước
chuyển quan trọng của triết học Mác, chủ nghĩa Mác (Tạp chí triết học, số 4 -
2003); PGS,TS. Doãn Chính, TS. Đinh Ngọc Thạch (Chủ biên) - “Vấn đề triết
học trong tác phẩm của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin” (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003); Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn, khoa triết học - “Giới thiệu kinh điển triết học Mác -

Lênin” (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007).
Về những công trình, bài viết đề cập đến một khía cạnh, một nội dung
hay một vấn đề nào đó trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 của
C.Mác, chúng ta có thể kể đến, như: Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp,
Đặng Hữu Toàn - “Khái niệm “chủ nghĩa nhân đạo” trong Bản thảo kinh tế -

4
triết học năm 1844 của C.Mác” (Tạp chí triết học, số 4 - 2001); Lê Thị Lan -
“Khái niệm lao động bị tha hóa trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844
của C.Mác và ý nghĩa hiện thời của nó” (Tạp chí Khoa học Xã hội, số 65 -
2004); Thái Thị Thu Hương - “Quan niệm của C.Mác về văn hóa và vai trò
của văn hóa đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội trong Bản thảo kinh tế -
triết học năm 1844 (Tạp chí Khoa học Xã hội, số 66 - 2004); Phạm Thị Ngọc
Trầm - “Tiên đoán của C.Mác về tương lai của khoa học trong Bản thảo kinh
tế - triết học năm 1844 và sự phát triển của khoa học ngày nay” (Tạp chí Triết
học, số 4 - 2003); Trần Nguyên Việt - “Cách tiếp cận biện chứng của C.Mác
qua sự lý giải con người và bản chất con người trong Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844; Hồ Sỹ Quý - “Mấy tư tưởng lớn của C.Mác về con người qua
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 (Tạp chí Triết học, số 6 - 2003); Đinh
Ngọc Thạch - “Quan niệm của C.Mác về “tha hóa loài” của con người và sự
xóa bỏ tha hóa đó vì mục tiêu nhân đạo qua Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844 (Tạp chí Triết học, số 7 - 2004); Đỗ Lan Hiền - “Quan niệm của C.Mác
về tha hóa của lao động, tha hóa của tôn giáo trong Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844 (Tạp chí Triết học, số 8 - 2003); Lê Ngọc Anh - “Quan niệm
của C.Mác về văn hóa trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 và ý nghĩa
hiện thời của nó trong hoạt động văn hóa” (Tạp chí Triết học, số 9 - 2003);
Nguyễn Thế Nghĩa - “Quan niệm của C.Mác về tha hóa và sự giải phóng con
người khỏi tha hóa trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 (Tạp chí Triết
học, số 10 - 2003); Nguyễn Anh Tuấn -“Quan niệm của C.Mác về tha hóa lao
động và bản chất con người qua Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 (Tạp

chí Triết học, số 10 - 2003); Nguyễn Thế Nghĩa - “Lao động - nguồn gốc của
cái đẹp trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 (Tạp chí Triết học, số 10 -
2004); Vũ Thị Kiều Phương - “Sự phê phán của C.Mác đối với phép biện
chứng duy tâm của Hê-ghen trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 (Tạp
chí Triết học, số 11 - 2003).

5
Như vậy, có thể nói, ở nước ta, cho đến nay vẫn chưa có những công
trình nghiên cứu chuyên sâu về quan niệm của C.Mác về “Tha hóa” trong một
tác phẩm được coi là cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng không chỉ
của C.Mác, mà cả triết học Mác, chủ nghĩa Mác từ lập trường dân chủ cách
mạng sang chủ nghĩa cộng sản và từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật, với nhiều luận điểm, quan điểm, tư tưởng được đưa ra ở đây mà sau này,
C.Mác đã sử dụng với sự phát triển và bổ sung hợp lý trong các tác phẩm của
ông - Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn này là góp phần làm rõ quan niệm của
C.Mác về “Tha hóa” trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 để trên cơ sở
đó, bước đầu chỉ ra ý nghĩa của quan niệm này đối với việc nhận diện và khắc
phục hiện tượng tha hóa trong đời sống kinh tế ở nước ta hiện nay.
3.2. Để thực hiện mục đích đó, luận văn phải giải quyết những nhiệm
vụ sau đây:
Thứ nhất, trình bầy bối cảnh ra đời và những nội dung chủ yếu của
“Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”.
Thứ hai, luận giải quan niệm của C.Mác về “Tha hóa” (Khái niệm “tha
hóa”, sự “tha hóa của bản chất con người”, sự “sự tha hóa của lao động” và “lao
động bị tha hóa”, sự xóa bỏ tha hóa) trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.
Thứ ba, nhận diện hiện tượng tha hóa trong đời sống kinh tế ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Quan niệm của C.Mác về “tha hóa” trong Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu quan niệm của C.Mác về “Tha hóa”
trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 và ý nghĩa của quan niệm này đối

6
với sự nhận diện tình trạng tha hóa trong đời sống xã hội hiện thực ở Việt
Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan niệm về con
người và bản chất con người, về giải phóng con người, giải phóng xã hội và
giải phóng nhân loại), chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới, về phát triển kinh
tế và xây dựng đời sống xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, kết hợp lôgic
với lịch sử, gắn nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phương pháp phân
tích văn bản học và chú giải học.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ quan niệm của C.Mác về “Tha hóa” trong
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.
- Luận văn bước đầu chỉ ra ý nghĩa trong quan niệm của C.Mác về
“Tha hóa” đối với việc nhận diện hiện tượng tha hóa trong đời sống xã hội
hiện thực ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 9 tiết.

7
Chƣơng 1
BỐI CẢNH RA ĐỜI, KẾT CẤU VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA “BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844”

1.1. Bối cảnh ra đời Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844
Từ mùa xuân năm 1843 đến năm 1844 là giai đoạn đóng vai trò quyết
định đối với sự hình thành chủ nghĩa Mác. Bởi lẽ, đây là giai đoạn C.Mác
tổng hợp các quan điểm triết học, kinh tế và chính trị thành một hệ thống
thống nhất toàn vẹn trên cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp luận
khoa học. Ngay từ những năm đầu trên con đường sáng tạo lý luận, khi bắt
đầu xem xét đời sống kinh tế - xã hội trong xã hội tư bản, C.Mác đã nhận thấy
ở đó sự tha hóa của con người do lao động bị tha hóa, mà nguyên nhân sâu xa
của nó là ở sự thống trị của chế độ tư hữu. Từ đó, ở ông đã hình thành tư
tưởng về sự giải phóng con người khỏi sự tha hóa đó. Tư tưởng này đã được
C.Mác luận giải một cách tập trung và rõ ràng trong Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844, tác phẩm được ông viết trong giai đoạn mà thế giới quan và
lập trường chính trị của ông chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù, đây chỉ là một
trong nhiều bản thảo chưa được hoàn thiện trọn vẹn, song nó vẫn được thừa
nhận là tác phẩm lớn của C.Mác, tác phẩm thấm đượm tinh thần nhân văn sâu
sắc, bởi từ việc luận giải sự tha hóa của con người dưới góc độ kinh tế, ông đã
đưa ra tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi sự tha hóa ấy. Giờ đây, một
lần nữa, nghiên cứu tác phẩm này, tác giả thấy, tư tưởng đó của C.Mác vẫn
còn nguyên giá trị và mang đầy đủ ý nghĩa của nó.
Nghiên cứu lịch sử triết học, chúng ta thấy, thuật ngữ “tha hóa” đã
được khá nhiều nhà triết học đề cập tới mà Hêghen và Phoiơbắc là những đại
biểu điển hình. Hêghen coi các hiện tượng của tự nhiên và xã hội là sự tồn tại

dưới dạng đã bị tha hóa của “ý niệm tuyệt đối” và từ quan niệm đó, ông đã
quy toàn bộ vấn đề phát triển thành việc khắc phục sự tha hóa ấy bằng cách

8
“lột bỏ” nó trong quá trình nhận thức. Còn Phoiơbắc thì áp dụng tư tưởng về
sự tha hóa vào việc phê phán tôn giáo. Ông coi tôn giáo không chỉ đơn thuần
là sự bịa đặt, mà là sản phẩm độc đáo, là sự tha hóa của bản chất con người,
sự tha hóa mà dường như, đã quy định tất cả những hình thức tha hóa khác
giữa người với người và do vậy, để xóa bỏ tha hóa thì cần phải xóa bỏ tôn
giáo hiện tồn và xây dựng một thứ tôn giáo mới - tôn giáo đem bản thân con
người thay cho Thượng đế.
Từ lập trường duy vật, C.Mác đã phê phán một cách sâu sắc quan niệm
của cả Hêghen lẫn Phoiơbắc về sự tha hóa và cách khắc phục sự tha hóa đó.
C.Mác nhìn thấy sự tha hóa ngay trong đời sống hiện thực. Đây chính là sự
khác biệt căn bản và cũng là sự vượt trội của C.Mác so với Hêghen và
Phoiơbắc.
Như chúng ta đã biết, có một thời người ta không xếp tác phẩm
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 vào hàng các tác phẩm của chủ
nghĩa Mác cần phải thực sự quan tâm với một lý do rất đơn giản là tác
phẩm này được C.Mác viết vào thời kỳ ông còn trẻ, các quan điểm được
ông trình bày trong đó chưa thật sự chín muồi. Chính vì vậy, ngay cả đến
khi xuất bản lần thứ hai bộ các công trình của C.Mác và Ph.Ăngghen,
Viện Mác - Lênin trực thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Liên Xô đã xếp tác phẩm này ở tập 42, nghĩa là không theo trình tự thời
gian ra đời của nó như đối với hầu hết những tác phẩm khác của các ông.
Cũng với một quan niệm như vậy mà đã có không ít người chỉ chú tâm
bàn luận và nhấn mạnh đến tầm ảnh hưởng của triết học Hêghen và Phoiơbắc
đối với C.Mác, đến phong cách mà C.Mác đã tiếp thu từ Hêghen, và nhiều
lắm là đến sự phê phán của C.Mác đối với phép biện chứng của Hêghen,
trong khi lại không quan tâm đúng mức và đầy đủ đến những nội dung các tư

tưởng sâu sắc cùng các dự báo quan trọng khác của C.Mác và do vậy, họ đã
vô tình hạ thấp ý nghĩa to lớn của tác phẩm này. Trái lại, nhiều nhà lý luận và
tư tưởng phương Tây, trong khi đánh giá cao một cách khá đúng đắn tầm

9
quan trọng của Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, lại cho rằng chỉ tác
phẩm này mới chính là tác phẩm có giá trị đích thực của C.Mác chân chính,
của C.Mác thật sự nhân đạo chủ nghĩa. Cần khẳng định rằng, không có “hai
ông C.Mác” và do vậy, không thể đem C.Mác từ năm 1844 về trước đối lập
với C.Mác sau năm 1844. Chỉ có một C.Mác với sự tiến triển cùng sự chín
muồi từng bước của các quan điểm đã giúp C.Mác chuyển từ lập trường duy
tâm sang lập trường duy vật biện chứng. Việc phân tích sự tiến triển của các
quan điểm ấy cùng những nội dung khác của Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844 có ý nghĩa quan trọng để hiểu được những giá trị mà C.Mác đã đạt được
và để lại cho hậu thế, cho chúng ta hôm nay.
Chúng ta đều biết rằng, từ rất sớm, C.Mác đã cố gắng đi tìm “chìa khóa
của lịch sử đích thực”, tức là đi tìm chủ thể của lịch sử.
Trong thời kỳ đầu tiên trên bước đường học tập và nghiên cứu của
mình, cụ thể là trong Luận án tiến sỹ “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên
của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya”, C.Mác đã thử đi tìm chủ thể
đó đi tìm chiếc chìa khóa đó từ trong triết học tự ý thức và dần dần ông đã
thấy được vai trò tích cực của tự ý thức đối với lịch sử. Tuy nhiên, sau mấy
năm tham gia các hoạt động xã hội, nhất là ở giai đoạn làm cộng tác viên, rồi
sau đó làm biên tập viên của tờ Báo tỉnh Ranh, từ tháng Giêng năm 1842 cho
đến khi tờ báo bị đình bản vào tháng 3 năm 1843, C.Mác đã xem xét các vấn
đề một cách khác hơn, mới mẻ hơn, cụ thể là xuất phát từ lợi ích vật chất của
xã hội công dân. Chính từ góc độ này, C.Mác đã bắt tay vào tìm hiểu sâu hơn,
cặn kẽ hơn những điều bí ẩn của lịch sử. Tác phẩm Góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen được C.Mác viết vào năm 1843 đánh dấu chặng
đường quan trọng đó trong việc tìm kiếm “chiếc chìa khóa của lịch sử đích

thực” và vạch ra những “bí ẩn của lịch sử”.
Từ “Luận án tiến sỹ” (1841) sang Góp phần phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen (1843), C.Mác đã thực hiện bước chuyển từ việc dựa vào các
tiền đề duy tâm để tìm hiểu “bí ẩn của lịch sử” sang lập trường duy vật. Chính

10
điều này đã được C.Mác khẳng định khi ông cho rằng, để giải phẫu “xã hội công
dân”, tức là toàn bộ các quan hệ xã hội, thì phải tìm trong khoa kinh tế chính trị,
chứ không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái
nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để
giải thích những quan hệ và hình thái đó. Trái lại, phải thấy rằng, những quan hệ
và hình thái đó bắt nguồn từ những “điều kiện sinh hoạt vật chất”.
Đó chính là lý do giải thích vì sao C.Mác đã bắt đầu thực hiện điều này
trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, tác phẩm mà trong đó, C.Mác hy
vọng có thể tìm được nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội và các
quy luật vận động của nó.
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 được C.Mác viết từ tháng tư đến
tháng tám năm 1844, bằng tiếng Đức, công bố toàn văn lần đầu trong Marx -
Engels Gesamtau sgabe. Erste Abteilung, Bd.3, 1932. Tác phẩm này của
C.Mác đã được nhà xuất bản Chính trị Quốc gia dịch sang tiếng Việt và được
in ở tập 42 của bộ sách “C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập”.
1.2. Kết cấu và nội dung căn bản của Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844
Tác phẩm này, như chúng ta đã biết, gồm Lời tựa và ba Bản thảo với
nội dung khác nhau, theo khổ giấy 30x40cm, mỗi bản thảo được đánh số
trang riêng bằng chữ số La Mã, nhiều mục có tiêu đề riêng. Tên gọi toàn bộ
bản thảo, cùng với những tiêu đề các phần in trong dấu ngoặc vuông do Viện
Mác - Lênin trực thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
trước đây đặt. Vì được trình bày như những bản thảo kết hợp lại, nên người
đọc, trong khi tìm hiểu Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, có thể chấp

nhận một kết cấu không theo trình tự các mục như cách sắp xếp thông thường.
Bản thảo thứ nhất có các phần bàn về tiền công, về lợi nhuận của tư bản, về
địa tô và lao động bị tha hóa. Nếu bản thảo thứ hai chỉ nghiên cứu về quan hệ
sở hữu tư nhân thì bản thảo thứ ba phong phú hơn với các phần như bản chất
của chế độ tư hữu trong sự phản ánh của kinh tế chính trị học; chủ nghĩa cộng

11
sản; nhu cầu, sản xuất và phân công lao động; tiền; phê phán phép biện chứng
duy tâm của Hêghen và triết học nói chung của Hêghen.
Vấn đề trước tiên là tiền công. Tiền công, lợi nhuận tư bản và địa tô là
những hình thức thu nhập căn bản nhất. Sự phân tích của C.Mác bắt đầu từ lợi
nhuận tư bản, từ đó lần ra sợi chỉ đỏ xuyên suốt của xã hội tư bản, những mặt
trái của trật tự đó đối với con người, hay nói như Phoiơbắc, đối với “quan hệ
chân chính”. Còn về tư bản, theo nhà kinh tế chính trị Anh - Xmít, là “lao
động tích lũy”. Lẽ đương nhiên, “lao động tích lũy” không phải lao động đơn
thuần, mà chỉ là lao động đem đến cho chủ sở hữu một khoản lợi nhuận nhất
định, mới mang ý nghĩa đó. Nói khác đi, tư bản là lao động của người được
tích lũy, là “quyền tư hữu về sản phẩm lao động của người khác” [75, tr. 89].
Như vậy, nghịch lý của xã hội là người sản xuất và người chiếm hữu trong
trường hợp này tách biệt nhau, quyền lực thuộc về người chiếm hữu. C.Mác
viết: “Tư bản là quyền chỉ huy lao động và sản phẩm của lao động. Nhà tư
bản có được quyền đó không phải nhờ những phẩm chất cá nhân hay phẩm
chất con người của hắn, mà chỉ có được với tư cách là người sở hữu tư bản.
Sức mạnh của hắn là sức mua của tư bản của hắn, sức mua mà không có gì có
thể chống lại nổi” [75, tr.89-90]. Như vậy là C.Mác đã tước bỏ “vầng hào
quang thần thánh” bao quanh “lao động được tích lũy”, tức là tư bản, và cũng
vạch ra thực chất của sự sùng bái tư bản, tôn thờ đồng tiền, sự sùng bái mà
theo ông, đã đẩy phần lớn những người làm thuê đến tình trạng chỉ còn lại
“món hàng” cuối cùng để mặc cả trong cuộc mua bán với chủ tư bản, đó là
sức lao động. Người công nhân đã trở thành hàng hóa, và chỉ cần tìm được

người mua, thì hy vọng vào sự tồn tại thân xác của anh ta vẫn còn. Sau nguồn
vốn duy nhất này để tồn tại, người công nhân sẽ không còn gì để trao đổi nữa.
Bài toán về sở hữu và phân phối sản phẩm lao động được giải quyết không
phải bằng vài ba lời cầu xin, mà bằng cuộc đấu tranh của những người đồng
cảnh ngộ. C.Mác đã rút ra kết luận như vậy khi khảo sát diễn biến của quy
luật tích lũy tư bản.

12
Ngoài tư bản, các vấn đề tiền công và địa tô cũng được C.Mác xem xét
từ góc độ các xung đột xã hội – “xung đột giữa nhà tư bản và người công
nhân” [75, tr. 89-90], “giữa người thuê đất và người sở hữu ruộng đất” [75,
tr.72], mà phần thắng luôn nghiêng về nhà tư bản ở thành thị và người chủ sở
hữu đất đai ở nông thôn. Những phần trăm tư bản hay lợi tức từ địa tô luôn
được bổ sung vào thu nhập của các ông chủ, còn người lao động thì chẳng có
gì để bổ sung cả ngoài phần tiền công hay sản phẩm quy đổi ít ỏi.
Phân tích vị trí của người công nhân trong môi trường cạnh tranh tư
bản chủ nghĩa, C.Mác viết: “Khi nhà tư bản được lợi, người công nhân không
nhất thiết cũng được lợi, còn khi nhà tư bản bị lỗ thì người công nhân nhất
định phải bị thiệt cùng với nhà tư bản” [75, tr. 74]. Trong điều kiện cạnh tranh
gay gắt giữa các nhà tư bản với nhau, sự phá sản của các nhà tư bản nhỏ đã
làm cho số lượng việc làm giảm đi, kéo theo đó là sự giảm sút tiền công,
trong khi số lượng công nhân tăng lên từ nhiều nguồn (tư sản phá sản và
người nông dân mất đất) lại đe dọa không chỉ chỗ làm của người công nhân
trong công xưởng, mà cả cuộc sống thường nhật của họ và người thân. Xuất
phát từ thực tế đó, những người công nhân vừa phải cạnh tranh với nhau, vừa
bị dồn đẩy vào tình thế đối lập không đáng có bên trong một lực lượng xã hội
và do vậy, họ càng bị mất phẩm giá, bị biến thành cỗ máy. Sự lệ thuộc vào
tiền công ít ỏi và không bền vững, vào sự dao động của giá cả tự nhiên trên
thị trường, vào ý muốn chủ quan của nhà tư bản đối với các nhà kinh tế học
tư sản, là hiện tượng hợp quy luật; nhưng đối với C.Mác, đó là biểu hiện của

quan hệ phi nhân tính. “Ngay cả trong xã hội có lợi nhất cho công nhân,
C.Mác viết, - hậu quả tất yếu đối với công nhân cũng là tình trạng lao động
cật lực, tình trạng bị chết yểu, tình trạng bị hạ xuống đóng vai một cái máy,
một nô lệ của tư bản mà sự tích lũy của nó là cái nguy hiểm cho công nhân,
tình trạng có một cuộc cạnh tranh mới, tình trạng một bộ phận công nhân
không tránh khỏi cảnh chết đói hoặc đi ăn xin” [75, tr. 77]. Như vậy, sự gia
tăng của cải của nhà tư bản lại dẫn đến sự bần cùng hóa và đau khổ của công
nhân - đó là một nghịch lý mà vào thời C.Mác trở thành hiện tượng phổ biến.

13
Điều đáng chú ý ở đây là, trong khi phân tích các mâu thuẫn giữa tiền
công, lợi nhuận của tư bản và địa tô, C.Mác đã phát hiện ra hiện tượng “tha
hóa lao động” và cùng với đó là khái niệm “lao động bị tha hóa”. Vì vậy, với
mong muốn phải tìm cho được những bí ẩn của lịch sử ở trong khoa kinh tế
chính trị và trong kinh tế học, C.Mác đã tiến hành việc nghiên cứu sâu sắc
hiện tượng tha hóa lao động cùng với các biểu hiện của nó.
Chúng ta có đủ cơ sở để khẳng định rằng, nghiên cứu tha hóa lao động
là một thử nghiệm quan trọng của C.Mác. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích
lao động bị tha hóa này, C.Mác đã tiến hành mổ xẻ các quan hệ sở hữu tư
nhân, vạch ra bản chất chung của sở hữu tư nhân và nguồn gốc của sở hữu tư
nhân. C.Mác viết: “Từ khái niệm lao động bị tha hóa, qua phân tích chúng ta
đã rút ra khái niệm sở hữu tư nhân” [75, tr. 144]. Tiếp đó, C.Mác chỉ ra rằng,
“mặc dù sở hữu tư nhân biểu hiện ra là cơ sở, là nguyên nhân của lao động bị
tha hóa, nhưng thực ra là ngược lại, nó hóa ra là kết quả của lao động bị tha
hóa cũng giống như thần thánh lúc đầu không phải là nguyên nhân, mà là kết
quả của sự nhầm lẫn của lý trí con người. Sau này, quan hệ đó biến thành
quan hệ tác động lẫn nhau”. Và, “sở dĩ có được khái niệm sở hữu tư nhân là
nhờ phân tích khái niệm lao động bị tha hóa, tức là khái niệm con người bị tha
hóa, khái niệm đời sống bị tha hóa” [75, tr 144].
Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 khi phân tích bản chất của sở

hữu tư nhân và hiện tượng tha hóa với tính cách là quan hệ xã hội dưới chủ nghĩa
tư bản, một mặt, C Mác cho rằng, “đối với chúng ta, lao động bị tha hóa phân ra
thành hai bộ phận cấu thành chế ước lẫn nhau, hoặc chỉ là những biểu hiện khác
nhau của cùng một quan hệ: sự chiếm hữu, biểu hiện ra là sự tha hóa, còn sự tha
hóa biểu hiện ra là sự chiếm hữu, là thật sự dành được quyền công dân.
Chúng ta đã xét một mặt, xét lao động bị tha hóa trong quan hệ của nó
với bản thân người công nhân, nghĩa là quan hệ của lao động bị tha hóa với bản
thân nó. Chúng ta đã tìm thấy quan hệ sở hữu của người - không - phải - công -
nhân với người công nhân và với lao động với tính cách là sản phẩm hay kết

14
quả tất nhiên của quan hệ đó. Sở hữu tư nhân, với tính cách là biểu hiện vật
chất khái quát của lao động bị tha hóa, bao gồm hai quan hệ: quan hệ của công
nhân với lao động, với sản phẩm lao động của mình và người - không - phải -
công - nhân, và quan hệ của người - không - phải - công - nhân với người công
nhân và với sản phẩm lao động của người công nhân” [75, tr. 42].
Mặt khác, khác với Hêghen và Phoiơbắc, C.Mác quan niệm rằng, tha
hóa là một hình tượng xã hội, là cái ban đầu vốn có ở con người nhưng rồi lại
quay trở lại nô dịch con người. Về điều này, C.Mác viết: “Sự tha hoá thể hiện
ở chỗ tư liệu sinh hoạt của tôi thuộc về người khác, ở chỗ đối tượng mong
muốn của tôi là vật sở hữu của người khác mà tôi không với tới được, cũng
như ở chỗ bản thân mỗi vật hóa ra là một cái khác với bản thân nó, ở chỗ hoạt
động của tôi hóa ra là một cái khác nào đó và cuối cùng, - điều này cũng đúng
cả đối với nhà tư bản, - lực lượng không phải người nói chung thống trị tất
cả” [75, tr. 144-145].
Trong nghiên cứu của mình về lao động và lao động bị tha hóa, dần dần
từng bước, C.Mác bắt đầu chứng minh được vai trò của người lao động, của
sản xuất vật chất. Nói rộng hơn, chính sự nghiên cứu quá trình lao động và lao
động bị tha hóa đã dẫn C.Mác đến tư tưởng coi lịch sử nhân loại là một quá
trình biện chứng, là kết quả của hoạt động lao động của chính con người, còn

sự tiến bộ của lịch sử có phần được kích thích bởi sự đấu tranh giữa lao động
và tư bản mà rốt cuộc, sẽ dẫn toàn bộ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa đến chỗ diệt vong. Về điều này, C.Mác viết: “Sự đối lập ấy giữa lao
động và tư bản được đẩy tới cực đoan, không khỏi trở thành điểm cao nhất,
trình độ cao nhất và sự diệt vong của toàn bộ quan hệ tư hữu” [75, tr. 150].
Toàn bộ sự phân tích của C.Mác về lao động bị tha hoá, và nhất là về
sở hữu tư nhân, đã dẫn ông đến kết luận quan trọng trong phần bàn về chủ
nghĩa cộng sản như sau: “Chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự xóa bỏ một
cách tích cực chế độ tư hữu - sự tự tha hóa ấy của con người - và do đó với
tính cách là sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người

15
và vì con người; do đó với tính cách là con người xã hội, nghĩa là có tính chất
người - sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự
phong phú của sự phát triển trước đó. Chủ nghĩa cộng sản như vậy, với tính
cách là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa nhân đạo; với tính cách là chủ
nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa tự nhiên; nó là sự giải quyết thực sự mâu
thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người, là sự giải
quyết thực sự cuộc tranh chấp giữa tồn tại và bản chất, giữa sự đối tượng hóa
và sự tự khẳng định, giữa tự do và tất yếu, giữa cá thể và loài. Nó là sự giải
quyết câu đố của lịch sử và nó biết rằng nó là sự giải quyết ấy” [75, tr. 157].
Quan điểm trên đây tuy chưa phải là quan niệm duy vật lịch sử thật sự
hoàn bị, nhưng có thể nói, đây là quan niệm mở đầu cho một giai đoạn mới về
chất, bởi vì, nhờ quan điểm này mà C.Mác đã tiến dần đến chỗ giải thích được
một cách đúng đắn về quy luật phát triển của lịch sử. Đồng thời, chính sự
phân tích lao động bị tha hóa đã giúp C.Mác dần tìm ra được nguyên nhân
thật sự của sự đối lập giữa tư bản và lao động làm thuê, giữa các giai cấp cơ
bản trong xã hội tư bản, giữa giai cấp những người bóc lột và giai cấp những
người bị bóc lột, tức là giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
Như vậy, chừng nào mà trong xã hội loài người còn có sản xuất hàng

hóa, còn có lao động làm thuê, còn có tình trạng người bóc lột người, còn có
sự chiếm đoạt của cải thì vẫn còn sự tha hóa lao động và do vậy, không tránh
khỏi còn có sự đối lập về lợi ích, sự đối lập giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Nhận thức rõ điều này là rất quan trọng trong thời đại chúng ta. Bởi lẽ tha hóa
lao động với tư cách là một hiện tượng xã hội vẫn đang tiếp tục diễn ra trong
các chế độ xã hội đương đại khác nhau. Trước đây, đã có lúc người ta cho
rằng, chỉ có ở các nước tư bản; chỉ có dưới chế độ tư bản chủ nghĩa mới có sự
tha hóa lao động, còn ở các nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nơi đã thiết
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thì hiện tượng này đã vĩnh viễn chấm
dứt và tự biến mất. Nhưng trên thực tế, hiện tượng tha hóa vẫn còn tồn tại

16
ngay cả dưới chủ nghĩa xã hội và riêng điều này tôi xin phép được làm rõ
trong những phần sau của luận văn này.
Cùng với những tư tưởng đã được trình bày trên, trong Bản thảo kinh tế
- triết học năm 1844, C.Mác còn đưa ra nhiều tư tưởng có giá trị khác và đó
cũng là những tư tưởng rất cần được phân tích và luận giải một cách khoa
học. Đó là tư tưởng của C.Mác coi “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con
người”, “là thân thể của con người”, là “bộ phận của đời sống con người”,
còn “con người sống bằng giới tự nhiên”, “con người là một bộ phận của giới
tự nhiên” [75, tr. 135], nghĩa là coi con người là sản phẩm của sự tiến hóa từ
giới tự nhiên vô cơ. Bên cạnh đó, theo C.Mác, “con người không chỉ là thực
thể tự nhiên, nó là thực thể tự nhiên có tính chất người, nghĩa là thực thể tồn
tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài” [75, tr. 234].
Nói cách khác, con người, theo C.Mác, là sản phẩm của tự nhiên, là
thực thể loài, nhưng con người có lịch sử xã hội của mình. Trong Bản thảo, có
thể nói lần đầu tiên chúng ta bắt gặp sự trình bày sâu sắc của C.Mác về mối
quan hệ gắn bó con người - tự nhiên - xã hội. C.Mác viết: “Bản chất con
người của tự nhiên chỉ tồn tại đối với con người xã hội; vì chỉ có trong xã hội,
tự nhiên đối với con người mới là một cái khâu liên hệ con người với con

người, mới là tồn tại của con người đối với người khác và tồn tại của người
khác đối với người đó, mới là nhân tố sinh hoạt của hiện thực con người; chỉ
có trong xã hội, tự nhiên mới biểu hiện ra là cơ sở của tồn tại có tính chất
người của bản thân con người. Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con
người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với người và tự
nhiên mới trở thành con người đối với con người. Như vậy, xã hội là sự thống
nhất bản chất đã hoàn thành của con người với tự nhiên, sự phục sinh chân
chính của tự nhiên, chủ nghĩa tự nhiên đã được thực hiện của con người và
chủ nghĩa nhân đạo đã được thực hiện của tự nhiên” [75, tr. 170].
Với một quan niệm như vậy về con người, về sự gắn bó của con người
với tự nhiên và xã hội, C.Mác coi việc nghiên cứu con người là nhiệm vụ vô

17
cùng quan trọng của tất cả các khoa học. Đánh giá về các khoa học thời đó,
C.Mác viết: “Các khoa học tự nhiên đã triển khai một hoạt động to lớn và đã
tích lũy những tài liệu không ngừng tăng thêm. Nhưng triết học vẫn xa lạ đối
với chúng cũng như chúng vẫn xa lạ đối với triết học” [75, tr. 178] . Mặc dù
vậy, cả hiện tại lẫn trong tương lai, theo C.Mác, “con người là đối tượng trực
tiếp của khoa học tự nhiên”, “còn tự nhiên là đối tượng trực tiếp của khoa học
về con người” [75, tr. 179]. Từ đó, C .Mác đã đưa ra một dự báo thiên tài và
đang ngày càng trở thành sự thật: “Về sau khoa học tự nhiên bao hàm trong
nó khoa học về con người cũng như khoa học về con người bao hàm trong nó
khoa học tự nhiên: đó sẽ là một khoa học” [75, tr. 179]. Điều đó có nghĩa là,
dù có thế nào chăng nữa thì các khoa học, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều có
nhiệm vụ nghiên cứu con người hoặc phục vụ con người, kể cả những khoa
học nghiên cứu các đối tượng tưởng như rất xa đối với con người.
Lý tưởng của C.Mác về việc mọi khoa học phải phục vụ con người, có
thể nói, cũng là lý tưởng chung của rất nhiều nhà tư tưởng lớn của nhân loại
qua các thời đại. Đó cũng chính là lý tưởng cao cả của chủ nghĩa nhân đạo
được C. Mác thể hiện trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.

Gần 170 năm đã trôi qua kể từ khi Bản thảo kinh tế - triết học năm l844
ra đời, nhưng những gì được C.Mác đưa ra trong đó vẫn có nhiều điều đáng
suy nghĩ cần được làm sâu sắc thêm, thậm chí có những điều cần được nhận
thức lại cho đúng. Xóa bỏ tất cả các cơ sở tồn tại của sự tha hóa nói chung, sự
tha hóa của lao động nói riêng để trả lại những giá trị đích thực cho con người
chính là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân đạo chân chính - chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản chủ nghĩa mà C.Mác đã xây dựng và Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844 là một trong những tác phẩm thể hiện rõ mục tiêu này.
1.3. Vị trí của Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 trong triết học
Mác, chủ nghĩa Mác
Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844 của C.Mác là tác phẩm mà cho
đến nay, vẫn còn có những nhận xét, đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược

18
nhau không chỉ về mỗi luận điểm, quan điểm, tư tưởng của C.Mác, mà cả về
vị trí, vai trò và ý nghĩa của nó trong sự hình thành, phát triển của triết học
Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung.
Đã và vẫn còn có những ý kiến coi đây là tác phẩm mà C.Mác còn chưa
chịu ảnh hưởng của “một ông Ph.Ăngghen ít hiểu biết về khoa học” và do
vậy, nó là tác phẩm của C.Mác với tư cách C.Mác đích thực, C.Mác thời trẻ,
C.Mác “chân chính”.
Đã và vẫn còn có những ý kiến cho rằng đây là tác phẩm được C.Mác
viết dưới nhiều ảnh hưởng của phép biện chứng duy tâm của Hêgen và chủ
nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc và do vậy, đối với sự hình thành và
phát triển của triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung là không
đáng kể. Với những lập luận này, họ đã đánh đồng, “hòa lẫn” C.Mác với
Hêghen, Phoiơbắc và coi đây chỉ thuần túy là những câu C.Mác viết ra để “trả
thi” trước những bậc thầy là Hê-ghen và Phoiơbắc. Song, lại có những ý kiến
cho rằng, chính là nhờ xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan của
Hêghen và duy vật nhân bản của Phoiơbắc - những người mà họ coi là các

nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại - để lý giải những
vấn đề của triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản, nên C.Mác
đã đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo lý luận của ông và bản thân tác
phẩm này được họ coi là kiệt tác về cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác,
học thuyết Mác. Từ những đánh giá như vậy về C.Mác và học thuyết của ông,
họ đã tỏ ra tiếc nuối là tại sao C.Mác đã không còn là “C.Mác thời trẻ” ở giai
đoạn sau này trong sự nghiệp sáng tạo của ông.
Đã và vẫn còn có những ý kiến cho rằng, trong Bản thảo kinh tế triết học
năm 1844, với các phạm trù “lao động bị tha hóa” và “sự tha hóa của lao
động”, C.Mác đã thực hiện thành công ý định xây dựng một hệ thống lý luận
triết học có khả năng soi sáng con đường giải phóng con người, giải phóng
nhân loại, khắc phục triệt để sự tha hóa của bản chất con người. Trong khi
không thể phủ nhận được sự thực hiển nhiên đó, một số người mệnh danh là

19
những “nhà phê phán triết học Mác” lại lấy đó để giải thích một cách xuyên tạc
quan điểm nhân văn của C.Mác thời trẻ, rồi đem đối lập với những quan điểm
duy vật triệt để sau này của C.Mác và cho rằng, từ sau tác phẩm này, C.Mác đã
“lãng quên”, đã “bỏ rơi” con người, đã “xa rời” tư tưởng nhân đạo và không
còn mang tính nhân văn do đã cắt nghĩa lịch sử nhân loại không phải từ con
người mà từ nguyên nhân kinh tế. Một số người khác, cũng với những lập luận
như vậy, lại cho rằng, chủ nghĩa nhân văn mà C.Mác đã tạo ra trong Bản thảo
kinh tế - triết học năm 1844 là nhờ chịu ảnh hưởng sâu nặng chủ nghĩa nhân
văn nhân loại học của Phoiơbắc và nhờ vậy, C.Mác đã trở thành nhà lý luận
đáng kính trọng của chủ nghĩa nhân văn tự nhiên, song thật đáng tiếc, ông đã
rời bỏ chủ nghĩa nhân văn này để chuyển sang chủ nghĩa nhân văn cộng sản mà
họ coi là thứ chủ nghĩa nhân văn ở tầm vóc thấp hơn nhiều.
Lại đã và vẫn còn có những ý kiến cho rằng, đây là tác phẩm mà mọi
vấn đề mới chỉ được C.Mác đưa ra dưới dạng phác thảo, chung chung, trừu
tượng và hết sức khó hiểu. Về kinh tế chính trị học, C.Mác chưa có được sự

phân tích chuyên sâu và có hệ thống; nhiều phạm trù kinh tế chưa được ông
xác định một cách chính xác, chẳng hạn, thuật ngữ được ông sử dụng là “giá
trị của lao động” chứ không phải “giá trị của sức lao động”, còn “sự tha hóa
của lao động” thì được ông lý giải theo cách diễn đạt của Hê-ghen. Về chủ
nghĩa cộng sản khoa học, họ cho rằng, C.Mác chưa đưa ra được một quan
niệm rõ ràng về đối tượng nghiên cứu của nó và về nhiều vấn đề, ông còn
chịu ảnh hưởng tư tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Về triết
học, theo họ, khi phê phán phép biện chứng của Hêghen, C.Mác vẫn còn đứng
trên lập trường của phái Hê-ghen trẻ, một số luận điểm của Hêghen chưa
được ông phê phán một cách triệt để. Rằng, C.Mác cũng chưa chỉ ra một cách
đầy đủ những hạn chế trong chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc và đôi
chỗ trong tác phẩm này, ông đã quá đề cao Phoiơbắc, coi Phoiơbắc là người
“đã đánh đổ tận gốc phép biện chứng và triết học cũ”, là “nhà tư tưởng duy
nhất có thái độ nghiêm túc, phê phán đối với phép biện chứng của Hêghen”.

20
Một số khái niệm, luận điểm, quan điểm và tư tưởng của các nhà triết học
khác, như “chủ nghĩa nhân đạo”, “chủ nghĩa tự nhiên”, “sự trở về bản chất
đích thực của con người”, v.v. đã được C.Mác sử dụng nhưng lại hầu như
chưa có sự phát triển nào và do vậy, theo họ, không thể xem tác phẩm này là
đỉnh cao sáng tạo lý luận của C.Mác.
Cũng lại đã và vẫn còn có những ý kiến cho rằng, tác phẩm này của
C.Mác là sự kết thúc một giai đoạn và bắt đầu giai đoạn mới trong lịch sử
hình thành và phát triển triết học Mác, chủ nghĩa Mác. Một trong những luận
cứ để họ đưa ra đánh giá như vậy là quan niệm của C.Mác về con người và
đời sống sinh tồn của con người trong thế giới. Họ cho rằng, quan niệm của
C.Mác về con người với tư cách “một sinh vật có tính loài có ý thức” và đời
sống sinh tồn của con người là “đời sống có tính loài tích cực”, là sự thực
hiện sức mạnh “bản chất có tính loài” - “những lực lương bản chất hiện
thực, có tính đối tượng của con người đã kết thúc ở tác phẩm này để quan

niệm về con người với tư cách một thực thể sinh học - xã hội mang tính giai
cấp và đời sống sinh tồn của con người với tư cách sự thực hiện sức mạnh bản
chất của con người xã hội mang tính giai cấp được bắt đầu trong Tư bản.
Trong tất cả những ý kiến trên về tác phẩm này của C.Mác, theo chúng
tôi, có nhiều điểm không đúng thậm chí còn bóp méo, xuyên tạc tư tưởng chủ
đạo của C.Mác, song cũng có những điểm hợp lý, nhất là về những hạn chế
mà C.Mác chưa thể vượt qua và không thể tránh khỏi. Song, do không thể
đưa ra đầy đủ những luận cứ để bác bỏ hay khẳng định những điểm đúng, sai
ở những ý kiến đánh giá ấy, nên chúng tôi chỉ có thể bày tỏ sự tán đồng với
đánh giá của nhiều nhà lý luận mácxít Nga rằng, Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844 là tác phẩm đánh dấu bước chuyển quan trọng của C.Mác từ lập
trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản và từ chủ nghĩa duy tâm
sang chủ nghĩa duy vật và nhiều luận điểm, quan điểm, tư tưởng được đưa ra
ở đây đã được C.Mác sử dụng với sự phát triển và bổ sung hợp lý trong các
tác phẩm sau này của ông.

21
Thật vậy, Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 - đó trước hết là kết
quả của những tìm tòi khoa học của C.Mác cho đến thời điểm đó trên cơ sở
nghiên cứu một cách có phê phán triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học
Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, đặc biệt là kinh tế chính trị học
Anh. Việc C.Mác tập trung nghiên cứu một cách có phê phán toàn bộ khoa
kinh tế chính trị hiện tồn được khích lệ bởi tác phẩm của Ph.Ăngghen - Lược
thảo phê phán khoa học kinh tế - chính trị (cuối 1843 - tháng Giêng l844)
đăng trên tạp chí Pháp - Đức biên niên. Tác phẩm này của Ph.Ăngghen đã
gây nên một ấn tượng rất sâu sắc đối với C.Mác, thậm chí ông còn coi đây là
tác phẩm thiên tài. Trước khi viết Bản thảo kinh tế - triết học 1844, C. Mác đã
đọc kỹ Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị của Ph.Ăngghen, tóm tắt và
“vạch ra dưới hình thức chung nhất những yếu tố đầu tiên của tác phẩm này
[75, tr.68]- những kết luận mà Ph.Ăngghen đã rút ra khi tiến hành phê phán

khoa kinh tế chính trị học tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa từ lập trường của
chủ nghĩa xã hội, những luận điểm mà về sau, C.Mác đã nhiều lần trích dẫn
trong các tác phẩm của ông, kể cả trong Tư bản.
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 được C.Mác viết từ tháng 4 đến
tháng 8 năm 1844. Và, như tên gọi của tác phẩm, nó chỉ là những đoạn viết
rời rạc, dưới dạng bản thảo chưa hoàn chỉnh và được C.Mác sắp xếp thành ba
bản thảo. Mục đích viết tác phẩm này, như C.Mác nói, nhằm làm rõ những
vấn đề mà ông còn đang nghiên cứu và do vậy, khi C.Mác còn sống, nó đã
không được đem đi xuất bản. Suốt một thời gian dài, sau khi C.Mác mất, tác
phẩm này bị vùi lấp trong ngăn kéo, chỉ đến năm 1927, lần đầu tiên, nó mới
được in ra ở Đức với tư cách là phần chuẩn bị cho tác phẩm Gia đình thần
thánh và đến năm 1932, mới được xuất bản thành tác phẩm riêng. Mặc dù là
tác phẩm chưa hoàn chỉnh, song có thể nói, đây là tác phẩm đầu tiên đề cập
đến cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác: triết học, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa xã hội khoa học.

×