Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn nguyên nhân và ảnh hưởng đương thời của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.52 KB, 117 trang )


viện khoa học xã hội việt nam
Viện triết học

Đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng Đại học khoa học
xã hội và nhân văn


Tạ VĂN LÂM



Sự ĐộC TÔN NHO GIáO d-ới TRIềU NGUYễN:
NGUYÊN NHÂN Và ảNH HƯởNG
đ-ơng thời CủA Nó





Luận văn thạc sĩ triết học




Hà Nội - 2009

viện khoa học xã hội việt nam
Viện triết học



Đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng Đại học khoa học
xã hội và nhân văn

Tạ VĂN LÂM


Sự ĐộC TÔN NHO GIáO d-ới TRIềU NGUYễN:
NGUYÊN NHÂN Và ảNH HƯởNG
đ-ơng thời CủA Nó

Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 80



Luận văn thạc sĩ triết học


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Nguyên Việt



Hà Nội - 2009
1


MỤC LỤC




Trang

A. MỞ ĐẦU
1

B. NỘI DUNG
11
Chương I
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN DẪN ĐẾN TÍNH
TẤT YẾU CỦA SỰ ĐỘC TÔN NHO GIÁO DƢỚI
TRIỀU NGUYỄN


11

1.1. Một số nét khái quát về Nho giáo và Nho giáo ở
Việt Nam
1.1.1. Lịch sử Nho giáo và những nội dung tư tưởng cơ
bản của nó
1.1.2. Sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam

11

11
15

1.2. Những nguyên nhân cơ bản của sự độc tôn Nho
giáo dƣới triều Nguyễn

1.2.1. Sự độc tôn Nho giáo lần thứ nhất dưới thời Lê Sơ là
tiền đề quan trọng cho sự độc tôn Nho giáo lần thứ
hai dưới triều Nguyễn
1.2.2. Nguyên nhân chính trị - xã hội và tư tưởng của Đại
Việt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX
1.2.3. Nguyên nhân chính trị - xã hội và tư tưởng của Đại
Nam đầu thế kỷ XIX

18


18

20

27

1.3. Tính tất yếu của sự độc tôn Nho giáo dƣới triều
Nguyễn
35
Chương II
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA SỰ ĐỘC TÔN NHO GIÁO
DƢỚI TRIỀU NGUYỄN VÀ ẢNH HƢỞNG ĐƢƠNG
THỜI CỦA NÓ


45

2.1. Khái quát những nội dung cơ bản của sự
độc tôn Nho giáo dƣới triều Nguyễn

2.1.1. Vai trò của Nho giáo trong việc xây dựng
vương triều và xác lập quyền thống trị của nhà Nguyễn
2.1.2. Ưu thế của Nho giáo dưới triều Nguyễn so với các
học thuyết triết học - tôn giáo khác

45

45

52

2.2. Sự độc tôn Nho giáo trong ý thức và hoạt
động thực tiễn của các quân vƣơng triều Nguyễn: Gia
Long, Minh Mạng, Tự Đức
2.2.1. Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh, 1802 - 1819)
2.2.2. Vua Minh Mạng (Nguyễn Phúc Đảm, 1820 - 1840)


55
55
59
69
2


2.2.3. Vua Tự Đức (Nguyễn Dục Tông, 1847 - 1883)

2.3. Ảnh hƣởng của sự độc tôn Nho giáo đến đời
sống tinh thần xã hội Việt Nam thời Nguyễn
2.3.1. Ảnh hưởng đến một số lĩnh vực liên quan đến

quan điểm của các nhà nho đương thời
2.3.2. Ảnh hưởng đến đời sống xã hội Việt Nam đương
thời

75

75
85

C. KẾT LUẬN
104

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
108





























3


MỞ ĐÇU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Như chúng ta đều biết, để “Kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc
và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài người…Xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và
con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế” như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã chỉ ra, chúng ta cần phải phát triển và hoàn thiện tư duy lý luận.
Song, theo Ph.Ăngghen: “Muốn hoàn thiện tư duy lý luận thì cho tới nay,
không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời
trước”[37; tr.487].
Trong lịch sử tư tưởng triết học Việṭ Nam , tam giáo (Nho, Phật và Lão
Trang) đóng vai trò quan trọng đối với sự hình thành phong cách tư duy cũng
như những giá trị tinh thần khác thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội . Trong đó,

Nho giáo với tư cách trụ cột ý thức hệ của chế độ phong kiến Việt Nam hàng
trăm năm, đã có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình lịch sử tư tưở ng Việ t Nam .
Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XIX đã song hành cùng với những biến
động lớn của đất nước. Nửa đầu thế kỷ XIX (từ khi nhà Nguyễn thành lập
1802, đến khi Pháp xâm lược 1858) là thời kỳ nhà Nguyễn củng cố quyền lực
không chỉ bằng những biện pháp hành chính, mà cả về hệ tư tưởng mang tính
ý thức hệ dựa trên nền tảng của Nho giáo nhằm thiết lập và duy trì trật tự xã
hội. Đây là nguyên nhân căn bản của sự độc tôn Nho giáo của vương triều
Nguyễn.
Việc độc tôn Nho giáo thời Nguyễn được xem là sự độc tôn lần thứ
hai, hay còn gọi là sự tái độc tôn. Sự độc tôn của nó lần thứ nhất từ thời Lê Sơ
đã đem lại sự ổn định xã hội trong gần 100 năm đầu của triều đại, nhờ đó mà
sự nghiệp tái thiết đất nước sau chiến tranh cũng như xây dựng và củng cố
4


chính quyền phong kiến trung ương tập quyền Đại Việt đạt được những thành
tựu nhất định.
Ở thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XVIII, Nho giáo vẫn tiếp tục nắm thế chủ đạo trong hệ thống
các học thuyết triết học, chính trị, tôn giáo. Các thế lực phong kiến tuy thù
địch nhau , nhưng đều phải dựa vào Nho giáo để khẳng định đường lối trị
nước đúng đắn và tính chính nghĩa của mình . Chính điều đó đã tạo đà cho
triều Nguyễn tiếp tục dựa vào Nho giáo như là nền tảng hệ tư tưở ng của triều
đại. Có thể nói, như sự độc tôn Nho giáo mà triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ
XIX đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Song, cho đến nay, vấn đề
về triều Nguyễn vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu trên cơ sở khách quan khoa
học, ở đó chuyên ngành lịch sử triết học cần phải góp phần mình vào việc làm
rõ nguyên nhân và hệ quả của sự độc tôn Nho giáo.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn cấp bách và trên cơ sở nghiên cứu

của nhiều ngành khoa học xã hội từ trước tới nay ở trong và ngoài nước,
chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn:
nguyên nhân và ảnh hưởng đương thời của nó” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Việc nghiên cứu Nho giáo thế kỷ XIX, cụ thể là một học thuyết chính
trị - đạo đức mà triều đại phong kiến nhà Nguyễn chủ trương độc tôn, hiện
vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Giai đoạn từ những năm 60 của thế kỷ XX đến khi có các cuộc hội
thảo về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn tại Thanh Hoá (ngày
18/10/2008), hầu như quan điểm của các nhà nghiên cứu chủ yếu nhìn nhận,
đánh giá về việc độc tôn Nho của triều đại nhà Nguyễn mang nhiều yếu tố
tiêu cực và bất hợp lý. Nói đúng hơn, các nhà nghiên cứu thống nhất ở việc
xem giai đoạn lịch sử đó như là bước thụt lùi của cỗ xe lịch sử, đồng thời sự
đánh giá một chiều thái quá của họ đã không đưa ra được những lý giải khách
5


quan cho vấn đề tại sao triều Nguyễn lại chủ trương độc tôn Nho giáo?
Nguyên nhân của sự độc tôn Nho giáo, đã có những tác động, ảnh hưởng như
thế nào đến các mặt đời sống xã hội thời bấy giờ?
Nghiên cứu tư tưởng chính trị - xã hội triều Nguyễn, theo chúng tôi
có thể tạm quy về các phương diện khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích của
từng chuyên ngành khoa học xã hội như ngành sử học, văn học, triết học, v.v.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sĩ triết học , chúng tôi chú trọng
nghiên cứu quan điể m của các học giả thuộc hai chuyên ngành tuy có khác
nhau về mục đích và cách tiếp cận, song có điểm chung về nghiên cứu nguồn
gốc và diễn biến của các sự kiện, đó là Sử học và Triết học.
Thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về lịch sử Việ t Nam nói
chung và giai đoạn triều Nguyễn nói riêng. Cuốn Lịch sử Việt Nam (Lịch sử

Việt Nam thế kỷ XIX), Nxb Khoa học Xã hội do GS. Nguyễn Khánh Toàn
chủ biên; Lịch sử cận đại Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, 1960, do các tác giả
Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự biên soạn; cuốn Lịch sử chế
độ phong kiến Việt Nam (Từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX), tập III,
Nxb Giáo dục, 1965, do Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên,
Đinh Xuân Lâm biên soạn, đều có cách tiếp cận và các quan điể m đánh giá
tương đồng do đòi hỏi của thực tiễn đất nước thời bấy giờ. Các tác giả cho
rằng: “Sau khi đánh thắng Tây Sơn, trên cơ sở nước nhà được thống nhất rộng
lớn, về mặt cai trị được tổ chức chặt chẽ hơn, có đủ khả năng để phát triển sản
xuất, đáng lẽ nhà cầm quyền phải nhận những điều kiện thuận tiện ấy để đưa
ra những chính sách thích hợp làm cho nước thịnh dân giàu; trái lại, bè lũ
phong kiến thống trị triều Nguyễn càng ngày càng đi sâu vào con đường phản
động, phục hồi và ra sức củng cố quan hệ sản xuất cũ và cố bóp nghẹt lực
lượng sản xuất mới đã manh nha phát triển hồi thế kỷ thứ XVIII. Mọi chính
sách, luật lệ, thuế khoá, tổ chức của nhà Nguyễn ban hành đều nhằm bãi bỏ
tất cả những thắng lợi mà người dân đã giành được trước đó, và đều nhằm bảo
vệ đặc quyền của tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn được tha hồ đàn áp bóc lột
6


nhân dân, thu vét hết của cải thiên hạ về kho để ăn chơi hoang phí vô độ. Tất
cả những tổ chức về chính trị, về kinh tế, về quân sự, đều trở thành những cái
gông cùm xiềng xích trói buộc kìm hãm nhân dân”[35; tr.402].
Hội thảo Khoa học Quốc gia do Bộ Giáo dục và Trường Đại học Sư
Phạm tổ chức, năm 2002, với chủ đề: “Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời
Nguyễn ở Đại học, Cao đẳng Sư phạm và Phổ thông”, đã tập hợp được hơn
100 bài tham luận của các nhà nghiên cứu và giảng dạy về lĩnh vực lịch sử.
Nội dung chủ yếu gồm: Những vấn đề chung, mang tính phương pháp luận;
những vấn đề nghiên cứu về triều Nguyễn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
xã hội, quân sự, văn hoá, giáo dục, tư tưởng. Lần hội thảo này đã mang nhiều

dấu ấn học thuật, với cách nhìn về triều Nguyễn mới mẻ, công tâm, khách
quan và khoa học hơn so với các công trình lịch sử trước đây. Cũng trên tinh
thần ấy, các nhà khoa học đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch
sử để đánh giá triều Nguyễn vừa là tác nhân lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch
sử xã hội. Do vậy, nhận thức về triều Nguyễn đòi hỏi phải đặt nó trong bối
cảnh lịch sử dân tộc và nhân loại thời bấy giờ, phải đứng trên quan điểm lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để xem xét các hiện tượng lịch sử ấy phát sinh,
phát triển như thế nào và cần phải đánh giá chúng ra sao?
Cũng có yêu cầu cần phải thống nhất quan điểm lịch sử và quan điểm
giai cấp trong việc đánh giá triều Nguyễn. Nếu trước đây có một số quan
điểm “hiện đại hoá lịch sử”, dẫn đến việc đánh giá quá cao công lao của
Nguyễn Huệ, xem vua Quang Trung như là người đã hoàn thành công cuộc
thống nhất đất nước và phủ nhận vai trò, đóng góp của Nguyễn Ánh và các
vua đời đầu nhà Nguyễn trong việc xây dựng đất nước cũng như xác lập chủ
quyền dân tộc của một quốc gia độc lập, thống nhất. Như chúng ta đều biết
rằng, Nguyễn Huệ đã đập tan các tập đoàn phong kiến trong nước và ngoài
nước, đặt cơ sở cho sự thống nhất đất nước, nhưng vẫn chưa thực hiện được
sự thống nhất đất nước một cách triệt để, vì vẫn tồn tại các vùng lãnh thổ,
dưới sự quản lý của anh em nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh tuy
7


không có công trong việc đặt nền móng cho sự thống nhất đất nước, song trên
cơ sở đánh bại cuộc khởi nghĩa nông dân lớn đã thực hiện việc thống nhất đất
nước về mặt hành chính và ra sức củng cố chính quyền của mình. Trên cơ sở
đó, chúng ta không thể phủ nhận sự đóng góp của triều đại nhà Nguyễn, cũng
như không quá đề cao vai trò của nó mà không nhận thấy những mặt hạn chế
cần phải được lý giải cặn kẽ và chính xác hơn.
Trước đây, do nhận thức vấn đề chưa đầy đủ, các nhà sử học nước ta
đã từng có những đánh giá khá nặng nề về triều Nguyễn, xem nó như là một

triều đại “phản động toàn diện”, “cõng rắn cắn gà nhà”…Thì giờ đây với cái
nhìn mới, cùng với sự phân tích các sự kiện lịch sử một cách khoa học khách
quan, chính họ, chẳng hạn như GS. Đinh Xuân Lâm đã nhận xét: “…Chúng ta
có quyền nói là với việc làm của các vua nhà Nguyễn, đặc biệt là ông vua
khai sáng Gia Long, không thể nói là có việc cõng rắn cắn gà nhà, rước voi
về dày mả tổ”[79; tr.48].
Gần đây, cuốn Lịch sử Việt Nam, tập II, do GS. Phan Huy Lê chủ
biên, năm 2003 là công trình tập hợp và đánh giá tình hình đất nước từ đầu
thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XIX. Trong phần: Đại Nam thời Nguyễn nửa đầu
thế kỷ XIX, cuốn sách đã trình bày rất rõ nét tình hình kinh tế, chính trị, văn
hoá, tư tưởng của triều Nguyễn nói riêng và của xã hội Việt Nam nói chung.
Tác giả nêu những mặt tích cực của vương triều Nguyễn như sau: “Từ Gia
Long đến Minh Mạng, bộ máy cai trị của nhà Nguyễn ngày càng hoàn thiện,
có thêm có bớt nhưng nhìn chung không cồng kềnh, thậm chí có thể coi là
gọn nhẹ”[36; tr.418].
Thứ hai, ngoài các bộ sử, hội thảo khoa học và các công trình nghiên
cứu lịch sử Việt Nam nói trên , còn có những công trình nghiên cứu thuộc lĩnh
vực tư tưở ng triết học, cụ thể là Nho giáo và Nho học dưới triều Nguyễn.
Cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim được xuất bản tại Hà Nội những
năm 30 của thế kỷ XX, đã có cái nhìn rất thấu đáo và xác đáng về vị trí, vai
trò của Nho giáo trong bối cảnh lịch sử đương thời. Ông coi Nho giáo như
8


một thứ bảo vật của dân tộc và rất đắc dụng trong việc trị quốc an dân, là
công cụ tốt nhất để thiết lập trật tự xã hội có tôn ti, trật tự. Tác giả đã phân
tích khá thấu đáo về đường lối trị quốc mà nhà Nguyễn đã dựa vào Nho giáo
như một công cụ hữu hiệu.
Đáng chú ý là công trình được giải thưởng Hồ Chí Minh của GS. Trần
Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng

tháng Tám, tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1973. Tác phẩm đã đề cập
đến Nho giáo và vai trò của nó dưới triều Nguyễn. Theo GS. Trần Văn Giàu:
“Trong lịch sử nước ta, các vương triều tiến bộ trước đây đều được thiết lập
trên thắng lợi của một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc hoặc sau khi thiết
lập, đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân
tộc, củng cố thống nhất quốc gia. Đó là cơ sở chủ yếu tạo nên sức mạnh cho
các vương triều. Còn triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng
lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của
nước ngoài. Gia Long lên làm vua, lập ra triều Nguyễn sau khi đã đàn áp cuộc
chiến tranh cách mạng của nông dân mà nội dung cơ bản là đấu tranh cho
quyền lợi của nhân dân, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia. Triều Nguyễn
là một vương triều tối phản động”[13; tr.17].
Cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
do GS. Nguyễn Tài Thư chủ biên. Tác phẩm đã đề cập đến vai trò của Nho
giáo và sự độc tôn Nho giáo từ Lê Sơ đến thế kỷ XVIII, tình hình kinh tế - xã
hội những thế kỷ sau đó. Công trình này đã làm rõ được tính tất yếu của sự
độc tôn Nho giáo dưới thời Lê Sơ, đồng thời khẳng định rằng, dù xã hội Việt
Nam thế kỷ XVI - XVIII là thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến , song
vai trò hàng đầu của Nho giáo trong hệ tư tưở ng của nhà nước Lê Trung hưng
vẫn được tiếp tục duy trì. Các thế lực phong kiến dù tranh giành nhau về
quyền lực, song vẫn dựa vào Nho giáo để khẳng định tính chính nghĩa của
mình.
9


Cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 1997, do PGS. Lê Sỹ Thắng chủ biên. Nội dung cơ bản là nghiên cứu
tiến trình tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX. Tác giả đã chỉ ra được sự cố gắng
xây dựng hệ tư tưởng riêng mà nòng cốt là Nho giáo, những thành tựu và hạn
chế của nó, song vẫn chưa đi sâu tìm hiểu những ảnh hưởng của Nho giáo đến

xã hội Việt Nam thế kỷ XIX.
Ngoài ra còn có các tác tác phẩm chuyên tập trung nghiên cứu về Nho
giáo và Nho giáo ở Việ t Nam thời Nguyễn . Chẳng hạn Nho giáo xưa và nay
của GS. Quang Đạm; Nho giáo tại Việt Nam do PGS. Lê Sỹ Thắng chủ biên
đã bàn đến những yêu cầu đạo đức của Nho giáo đối với các vấn đề cơ bản
của đời sống xã hội, đó là: Ngũ luân, Tam cương, Ngũ thường, vai trò của
Nho giáo trong việc quản lý xã hội, quản lý con người. Quan điểm của các tác
giả tuy có khác nhau, nhưng điểm chung là nhìn nhận, đánh giá những yếu tố
tiêu cực của Nho giáo. Đó là sự tàn nhẫn, khắc nghiệt, nó trói buộc con người
trong vòng trật tự của xã hội cũ. Những yếu tố đó đã tác động, ảnh hưởng
không nhỏ tới đời sống xã hội đương thời, cũng như tác động xấu đến xã hội
ngày nay.
Có những ý kiến trong các ấn phẩm, tạp chí chuyên ngành, đã đánh
giá Nho giáo một cách gay gắt, đặc biệt là Nho giáo triều Nguyễn thế kỷ XIX,
có khi phủ định sạch trơn những đóng góp của nó đối với xã hội đương thời
như nhận định của GS. Nguyễn Tài Thư trong Nho học và Nho học ở Việt
Nam như sau: “Nho giáo triều Nguyễn là một tập đại thành những tư tưởng
duy tâm phản động trong lịch sử của Nho giáo”[71; tr.515].
Tuy nhiên, gần đây các nhà nghiên cứu về Nho giáo nói chung và
Nho giáo triều Nguyễn nói riêng, đã có sự nhìn nhận khách quan, công tâm,
khoa học hơn, vì vậy họ đã đưa ra những nhận định khá xác đáng về Nho giáo
theo các khía cạnh, mức độ ảnh hưởng khác nhau, từ kinh tế, chính trị, đạo
đức cho đến giáo dục, và các giá trị truyền thống của dân tộc như: Nguyễn
Đăng Duy: Nho giáo với văn hoá Việt Nam; Phan Đại Doãn: Một số vấn đề về
10


Nho giáo tại Việt Nam; Vũ Khiêu: Bàn về văn hiến Việt Nam, Nho giáo xưa
và nay. Những nhận định đó đã góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn
hoá Việt Nam với tinh thần tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực của

Nho giáo.
Một số luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ Triết học đã bảo vệ thành
công tại Việt Triết học. Trần Thị Hồng Thuý: Ảnh hưởng của Nho giáo đối
với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống; Lê thị Lan: Tìm hiểu các tư
tưởng cải cách ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX; Nguyễn Nam Thắng: Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, v.v…đều đề cập đến nội dung ở mức
độ khác nhau về vị trí, vai trò ảnh hưởng của Nho giáo, sự chi phối của nó tới
toàn bộ đời sống xã hội Việt Nam thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, việc trình
bày phương diện độc tôn Nho giáo thời kỳ này vẫn chỉ mới được đề cập một
cách sơ bộ, thiếu hệ thống và chưa được phân tích một cách thấu đáo về
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự độc tôn và hệ quả của nó trên những
lĩnh vực nào của đời sống xã hội.
Sau đổi mới, nhận thức được sự thiếu hụt, phiến diện và sai lệch trong
đánh giá về giai đoạn lịch sử của một vương triều gần nhất với thời đại chúng
ta là triều Nguyễn, các ngành khoa học xã hội đã coi nghiên cứu về triều đại
này cũng như sự độc tôn Nho giáo của nó là vấn đề trọng tâm, cần có nhận
định, đánh giá xác đáng hơn trên tinh thần khách quan, khoa học. Do vậy, đã
có một chương trình nghiên cứu cấp nhà nước chuyên biệt, lâu dài về triều
Nguyễn được chuẩn bị trong suốt 15 năm qua và vào ngày 18/10/2008 tại
Thanh Hoá, đã diễn ra Hội thảo Khoa học Quốc gia về: Chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
Theo nhận định của GS. Phan Huy Lê: Thời kỳ các chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX là một thời kỳ lịch sử đã trải qua
những cách nhìn nhận và đánh giá hết sức khác nhau, có những lúc gần như
đảo ngược lại. Triều Nguyễn được đặt trong khung lý thuyết hình thái kinh tế
- xã hội, là triều đại suy vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề, và chịu nhiều
11


phán xét không công bằng. Theo GS. Lê, khi nghiên cứu, nhận thức lịch sử

cần phải rút ngắn khoảng cách giữa lịch sử khách quan và lịch sử được nhận
thức, nghĩa là sự nhìn nhận, đánh giá về vị trí, vai trò của các chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn, phải mang tính khách quan, khoa học, công bằng.
Nhìn chung, các công trình, các bài viết trên đều đã giới thiệu khái
quát những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá và tư tưởng của giai đoạn lịch sử
này… Song, trên thực tế, chưa có một công trình nào đi sâu vào tìm hiểu sự
độc tôn Nho giáo và ảnh hưởng của nó từ khi triều Nguyễn nắm quyền thống
trị đến năm thực dân Pháp đình chỉ nền giáo dục và khoa cử theo Nho giáo.
Do đó, có thể nói, đây vẫn còn là một vấn đề mở, cần phải đi sâu nghiên cứu
và có những kiến giải rõ hơn, hợp lý và sâu sắc hơn trên cơ sở khái quát, hệ
thống những nguyên nhân và hệ quả của sự độc tôn Nho giáo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích: Trình bày nguyên nhân và nội dung cơ bản của sự độc
tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn, qua đó làm rõ ảnh hưởng của nó đối với xã
hội Việt Nam từ năm 1802 đến năm 1919.
- Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn cần tập trung giải quyết
các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ nguyên nhân và phân tích các tiền đề lịch sử, chính trị - xã
hội và tư tưởng cho sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn.
+ Trình bày nội dung cơ bản của sự độc tôn Nho giáo qua các chủ
trương của triều Nguyễn và trong tư tưởng của một số nhà nho tiêu biểu
đương thời.
+ Làm rõ những ảnh hưởng của sự độc tôn Nho giáo đối với xã hội
Việt Nam từ khi thành lập triều Nguyễn cho tới thời điểm thực dân Pháp bãi
bỏ hoàn toàn nền cổ học vốn lấy Nho giáo làm cơ sở.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những nguyên nhân, nội dung và ảnh
hưởng của sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn thông qua việc khảo cứu,
12



phân tích các nguồn tư liệu về sử liệu của triều Nguyễn, các tư tưởng của một
số nhà nho tiêu biểu liên quan đến vấn đề này cũng như những thành tựu
nghiên cứu về hướng đề tài này của các học giả khác từ trước tới nay.
5. Cơ sở và phƣơng pháp luận nghiên cứu:
Dựa trên sự phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp kết hợp với
phương pháp lôgíc - lịch sử, dưới ánh sáng phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Đóng góp của luận văn:
Luận văn trình bày một cách hệ thống chủ trương của triều đình nhà
Nguyễn và tư tưởng Nho giáo của một số nhà nho tiêu biểu đương thời ở Việt
Nam về độc tôn Nho giáo, qua đó làm rõ ảnh hưởng của sự độc tôn Nho giáo
đối với xã hội Việt Nam thế kỷ XIX.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
- Luận văn góp phần tìm hiểu thực chất của sự độc tôn Nho giáo và
vai trò của nó trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX.
- Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu và giảng dạy lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam thế kỷ XIX.
8. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.










13


Chƣơng 1
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN DẪN ĐẾN TÍNH TẤT YẾU
CỦA SỰ ĐỘC TÔN NHO GIÁO DƢỚI TRIỀU NGUYỄN

1.1. Một số nét khái quát về Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam
1.1.1. Lịch sử Nho giáo và những nội dung tư tưởng cơ bản của nó
Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội ra đời ở Trung Quốc cổ
đại vào thế kỷ VI - V Tr.CN. Người sáng lập của trường phái này là Khổng
Tử (551 - 479 Tr.CN), người nước Lỗ . Vốn xuất thân từ tầng lớp quí tộc bị
thất thế, Khổ ng Tử muốn đưa ra một học thuy ết về quản lý xã hộ i , quản lý
con người nhằm thiết lập và duy trì trật tự xã hộ i đang bị loạn lạc thời bấy
giờ. Khác với chủ trương biến pháp của các pháp gia đương thời , Khổ ng Tử
muốn dùng đạo đức để cảm hóa con người , làm cho xã hộ i có trật tự th eo
đẳng cấp mà ở đó , mỗi một người phải thấm nhuần tư tưở ng chính danh trong
sự gắn liền với định phận mang tính tiền định bởi trời.
Sau khi Khổ ng Tử mất , Nho gia chia thành nhiều phái, trong đó thời
tiên Tần, hay còn gọi là Nho giáo sơ kỳ nổi bật là phái duy tâm do Mạnh Tử
(372 - 289 Tr.CN) và phái duy vật do Tuân Tử (313 - 238 Tr.CN) đứng đầu.
Nho giáo thời Tần đứng trước thảm họa diệt vong bởi chính sách “phần thư
khanh nho” (đốt sách giết học trò) do chủ trương độc tôn Pháp trị của nhà
nước. Đến thời Hán, do nhu cầu xây dựng nhà nước phong kiến trung ương
tập quyền, nhà Hán đã thực hiện đường lối trị nước kết hợp đức trị với pháp
trị, nhờ đó Nho gia được khôi phục. Và, trên nền tảng học thuyết duy tâm của
Khổng Mạnh, Đổng Trọng Thư (179 - 104 Tr.CN), người được mệnh danh là
Khổ ng Tử thời Hán , đã đưa một số yếu tố tôn giáo thần bí vào nội dung đạo
đức của Nho gia để hình thành nên hệ tư tưở ng chính thống mang tính thần
quyền của nhà nước phong kiến . Mặc dù Nho gia trở thành trụ cột của hệ tư

tưở ng thống trị trong suốt thời gian tồn tại của chế độ phong kiến Trung
Quốc, về mặt học thuật của nó đã bộc lộ sự yếu kém so với Phật giáo và Đạo
14


giáo về nhiều phương diện , do đó , từ thời Tống nội dung tư tưở ng Khổng
Mạnh được bổ sung thêm những yếu tố mới về hình nhi thượng học và hình
nhi hạ học, làm cho Nho giáo trở thành một học thuyết có nội dung học thuật
cao với các phái Đạo học, Lý học, Số học, Tâm học, Thực học, v.v. Các phái
đó được gọi chung là Tân Nho giáo gồm Tống Nho, Minh Nho, Thanh Nho.
Nho giáo tiên Tần theo tinh thần Khổng Mạnh ít bàn đến vấn đề bản thể
của thế giới mà chủ yếu bàn đến khái niệm “trời” với tư cách vừa là tự nhiên,
vừa là siêu nhiên. Trời phú tính và ban mệnh cho con người, do đó nếu con
người biết “tồn tâm dưỡng tính” thì sẽ trở thành người tốt tính theo các nấc
thang “tu, tề, trị, bình”. Tuân Tử xác nhận nguồn gốc của thế giới từ âm
dương và giữa trời và người không có liên quan gì đến nhau. Đổng Trọng Thư
cho rằng, thế giới này có nguồn gốc từ thập đoan (Âm dương, Ngũ hành và
Tam tài), trong đó ông đề cao vai trò của trời với tư cách là thủy tổ của muôn
loài mà ở đó loài người là cao quí nhất. Tân Nho giáo đề cập đến vấn đề bản
thể của thế giới thông qua mối quan hệ giữa lý và khí, tâm và vật, như tập đại
thành của Tống Nho là Chu Hi xác nhận khí là bản thể của thế giới, lại cho
rằng, lý (tức nguyên lý, quy luật) có trước khí.
Vấn đề con người được xem là trọng tâm của Nho giáo, từ đó Nho giáo
xây dựng nên đường lối trị nước bằng đạo đức (đức trị) thông qua thuyết tính
người và quan niệm về các mối quan hệ người, giáo dục đào tạo con người.
Đường lối trị nước của Nho giáo được thể hiện trước tiên ở tư tưở ng
của Khổ ng Tử . Ông không tán thành loại trừ hình pháp, đồng thời khẳng định
dùng đạo đức để cảm hóa con người thì hơn: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt
dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn.
Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ

tốt lành”[Luận Ngữ, Vi chính]. Đường lối đức trị của Khổng Tử thể được hiện
ở những nội dung cơ bản như: Huệ dân (nhà cầm quyền phải có ân huệ với
dân, khoan thư sức dân, sử dân dĩ thời, v.v.); Nhân (yêu thương con người,
trung thứ, đề cao hiếu đễ và khắc kỷ phục lễ, v.v.); Lễ (bao gồm lễ nghi tế tự
15


và nghi thức ứng xử); Chính danh (danh phận con người trong sự ràng buộc
và tuân thủ mệnh trời , v.v.). Từ nội dung trên , Khổ ng Tử khẳng định mục
đích của đức trị là thiết lập xã hộ i lý tưởng theo mô hình xã hộ i thời Nghiêu
Thuấn, còn chủ thể của nó là mẫu người quân tử. Người quân tử hội đủ đức
nhân, trí, dũng, liêm, trực, v.v…điều mà ở tiểu nhân không đủ, thậm chí
không có.
Mạnh Tử phát triển học thuyết của Khổ ng Tử về đường lối trị nước gọi
là nhân chính và thống nhất. Ông là người đề cao vai trò của dân (dân vi quý,
xã tắc thứ chi, quân vi khinh), đòi hỏi nhà cầm quyền phải lo cho dân có hằng
sản để dân yên tâm phục vụ đất nước, chấp hành mệnh lệnh của thiên tử (hằng
tâm).
Tuân Tử lại cho rằng , trị nước phải cần đến Lễ . Công dụng của Lễ là
điều hòa các mối quan hệ xã hộ i, nó làm cho con người chấp nhận sự tồn tại
đẳng cấp trong xã hộ i , kéo theo đó là chấp nhận sự bất bình đẳng trong phân
công lao động xã hộ i và phân phối sản phẩm lao động . Mặt khác, Tuân Tử
còn cho rằng, Lễ cần phải được kết hợp với pháp luật để duy trì trật tự xã hộ i
(lễ pháp kiêm trị), song hình phạt phải mang tính giáo dục, nhà cầm quyền
không được lạm dụng hình pháp để phạt nặng.
Đổng Trọng Thư đề cao vai trò của thiên tử trong việc trị nước (thừa
hành mệnh trời dưỡng dục và giáo hoá dân). Mọi hành vi của thiên tử đều
được trời giám sát và thực hiện sự thưởng phạt tùy theo mức độ trị loạn trong
thiên hạ . Do đó, con người phải biết kính trời , sợ trời mà chấp hành mệnh
lệnh của thiên tử một cách vô điều kiện . Tư tưở ng đức pháp kiêm trị đó rõ

ràng là mang tính thần quyền.
Về bản tính con người, các nhà sáng lập Nho giáo đưa ra các quan điể m
khác nhau . Khổ ng Tử cho rằng , tính người ta thuở ban đầu là gần nhau,
nhưng do thói quen, tập nhiễm mà xa nhau (tính tương cận dã, tập tương viễn
dã); Mạnh Tử khẳng định bản tính con người là thiện , đối lập với ông là
thuyết tính ác của Tuân Tử ; Đổng Trọng Thư cho rằng , tính người có ba hạng
16


(thiện, ác, vừa thiện vừa ác ). Tuy các quan điể m nêu trên về tính người là
khác nhau, song các nhà sáng lập Nho giáo đều thống nhất với nhau rằng , để
con người trở nên tốt tính , có ích cho xã hội cần phải có giáo dục . Chính
Khổ ng Tử là nhà giáo dục tư thục đầu tiên đưa ra mục đích giáo dục là đào
tạo mẫu người lý tưởng, hiểu biết sâu sắc về đạo và thực hành đạo đó trong xã
hộ i để làm cho xã hộ i được trị bình . Ông là tấm gương vĩ đại của ngành giáo
dục với phương châm dạy người không biết mỏi, không phân biệt giàu nghèo,
sang hèn; phương pháp giáo dục tiến bộ, theo đó học phải đi đôi với tập, với
tư và với hành. Nội dung giáo dục trong tư tưở ng của Khổ ng Tử nói riêng và
Nho giáo nói chung , đều hướng vào việc giáo dục đạo đức , còn lĩnh vực tri
thức chuyên môn phục vụ sản xuất ra của cải vật chất cho xã hộ i lại bị xem
nhẹ. Đó cũng là mặt hạn chế trong tư tưở ng g iáo dục của Nho giáo.
Về các mối quan hệ người , các nhà sáng lập Nho giáo đã giành cho lĩnh
vực này sự quan tâm đặc biệt . Khổ ng Tử nêu nhân luân, theo đó trong quan
hệ với bề tôi vua phải là người có nhân, bề tôi phải trung với vua; cha phải từ,
con phải hiếu; chồng phải có nghĩa với vợ, còn vợ phải tùy theo chồng; anh
nhường em kính; bạn bè quan hệ với nhau phải tin cậy lẫn nhau. Mạnh Tử
trên tinh thần ấy đã xác định mối quan hệ qua lại một cách bình đẳng hơn, đó
là ngũ luân: phụ tử hữu thân; quân thần hữu nghĩa ; phu phụ hữu biệt ; trưởng
ấu hữu tự ; bằng hữu hữu tín . Tuy nhiên , đến thời Hán , Đổng Trọng Thư dù
vẫn tiếp tục đề cao đạo đức gia đình như Khổng Mạnh , ông đã vận dụng

thuyết Âm dương ngũ hành vào việc xem xét các phương diện đạo đức xã hộ i
và cá nhân, làm cho các mối quan hệ xã hộ i trở nên hà khắc , một chiều, đó là
đạo đức tam cương (vua tôi, cha con, chồng vợ). Tam cương phản ánh sự
phục tùng vô điều kiện của bề tôi với vua, con đối với cha, vợ đối với chồng,
tức là âm phải tùy thuộc vào dương. Các chuẩn mực đạo đức cá nhân (ngũ
thường- nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) được Đổng Trọng Thư tham chiếu với Ngũ
hành (Mộc, Kim, Hỏa, Thủy, Thổ).
17


Lĩnh vực kinh tế cũng được các nhà nho đề cập tới nhưng không phải là
nội dung cơ bản, ở đó vấn đề công bằng luôn được đặt lên hàng đầu chứ
không phải là điều kiện vật chất quy định sự phồn thịnh của đất nước và cá
nhân con người. Khổng Tử cho rằng, việc chính trị trước hết phải làm cho dân
đông, dân giàu và sau đó là giáo hóa dân. Song, khi đề cập đến việc bất đắc dĩ
phải bỏ hai trong ba thứ là binh khí , lương thực và dân tín thì Khổ ng Tử
khẳng định ngay rằng, có thể bỏ binh khí và lương thực chứ không được đánh
mất lòng tin của dân. Mạnh Tử thì đề cao hằng sản và biện pháp thực hiện nó
là chế độ tỉnh điền và giảm thuế má cho dân. Tuân Tử đề cao sức mạnh của
dân, cho rằng vua là thuyền, dân là nước, chở thuyền và lật thuyền cũng là
dân.
Nói tóm lại , Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội đề ra nhiệm
vụ quản lý xã hộ i và con người bằng đạo đức . Chính vì vậy học thuyết này
còn gọi là học thuyết chính trị - đạo đức. Dù dưới hình thức phát triển nào đi
nữa, dùng đức để cảm hóa con người vẫn là chủ đề chính. Nếu Mạnh Tử kêu
gọi “tồn tâm dưỡng tính” thì Tống Nho kêu gọi “tồn thiên lý, diệt nhân dục”
và mục đích chung vẫn là xây dựng xã hộ i hài hòa , lý tưởng. Học thuyết này
ảnh hưởng mạnh tới các nước trong khu vực như Triều Tiên , Nhật Bản và
Việ t Nam , đồng thời góp phần thiết lập và duy trì chế độ phong kiến trung
ương tập quyền ở mỗi nước.

1.1.2. Sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam
Nho giáo vào Việ t Nam khá sớm , ít nhất là từ thời kỳ đô hộ của Đông
Hán.
Sau khi xâm chiếm nước ta, giai cấp phong kiến nước ngoài đã ra sức
củng cố chế độ nô dịch của chúng, tạo ra những biến chuyển lớn trên các lĩnh
vực xã hội, kinh tế, chính trị, tư tưởng. Chế độ phong kiến theo kiểu Trung
Quốc dần dần được thiết lập ở Việt Nam. Trên đất nước ta diễn ra một cuộc
đấu tranh gay gắt lúc âm ỉ, lúc công khai giữa nhân dân Việt Nam với chế độ
tàn bạo và chính sách đồng hoá của bọn xâm lược.
18


Trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng, nhà nước của bọn xâm lược du nhập
và phát triển cả Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo vào nước ta, trong đó Nho
giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và xiềng xích nô dịch của nhân dân.
Ngay từ thời Tây Hán, Nho giáo từ Trung Quốc đã từng bước được du
nhập vào Việt Nam, với hai Thái thú Tích Quang và Nhâm Diên. Văn tự
Trung Quốc đã được sử dụng vừa phục vụ cho nhu cầu hành chính của quân
xâm lược, vừa truyền bá Nho giáo với các sách kinh điển của Nho giáo như
Tứ thư, Ngũ kinh. Từ thời Mã Viện đã mở lớp dạy Nho cho con em quan lại,
địa chủ Hán tộc và cho một số con em tầng lớp trên của xã hội Việt Nam.
Đến đời Sỹ Nhiếp làm Thái thú ở Giao Chỉ thì Nho giáo lại càng được
phổ biến rộng rãi trong tầng lớp quý tộc, thống trị ở Giao Châu.
Dưới thời Bắc thuộc, các triều đại Trung Hoa: Hán, Tần, Tống, Tề,
Lương, Tuỳ, Đường, đã cho dân Việt Nam học tập Nho giáo, Đạo giáo và
Phật giáo như bên Trung Quốc. Ở giai đoạn đầu du nhập thì Nho giáo vẫn
chưa vào sâu được trong dân gian. Ưu thế vẫn thuộc về Phật giáo và Đạo
giáo.
Sau khi giành được độc lập, ở những triều đại đầu tiên trong lịch sử
như: Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, thì Phật giáo được coi là Quốc giáo. Tuy nhiên,

chế độ phong kiến trong quá trình củng cố, xây dựng và phát triển, Phật giáo
không thể đảm đương được trách nhiệm quản lý nhà nước và càng tỏ rõ yếu
kém trước nhu cầu của thời đại. Chính vì thế mà các vua chúa dần dần quan
tâm đặc biệt đến Nho giáo hơn, tích cực phát triển Nho giáo.
Năm 1070, Lý Thánh Tông (1034 - 1072) xây dựng văn miếu thờ Chu
Công, Khổng Tử và 72 hiền. Quốc Tử Giám được thành lập để làm nơi học
tập cho con em quý tộc, quan lại. Nền Đại học Việt Nam bắt đầu từ đó. Lý
Nhân Tông (1073 - 1127) mở khoa thi Tam trường (1075). Lý Nhân Tông lại
đặt Hàn lâm viện (1086). Tuy vậy, chế độ khoa cử thời Lý chưa được quy
định hẳn hoi, dẫu rằng nó là hình thức tuyển dụng quan chức tốt nhất cho bộ
máy quan liêu của nhà nước phong kiến tập quyền.
19


Sang vương triều Trần, do yêu cầu củng cố chế độ phong kiến, bộ máy
nhà nước cần được tăng cường, chế độ khoa cử đã được tổ chức quy củ để
thường xuyên đào tạo những lớp quan lại sung vào bộ máy nhà nước.
Do nhu cầu củng cố nhà nước tập quyền, Nho giáo đã được giai cấp
phong kiến phát triển như là hệ tư tưởng chính thống của nó. Chế độ giáo dục
và chế độ khoa cử đều dựa trên cơ sở Nho giáo mà đào tạo những tầng lớp
quan lại trung thành với chế độ phong kiến tập quyền. Về mặt này, rõ ràng
Nho giáo có tác dụng mạnh mẽ hơn Phật giáo, trong khi Phật giáo hướng con
người vào thế giới bên kia, thì Nho giáo chủ động, tích cực trong vai trò nhập
thế, phục vụ lợi ích cho giai cấp phong kiến thống trị và tôn ti trật tự xã hội.
Nho giáo ngày càng phát triển. Tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo.
Đại bộ phận tầng lớp quan lại trong bộ máy nhà nước đều xuất thân từ nho sĩ.
Tầng lớp này ngày càng nắm được những địa vị quan trọng trong bộ máy nhà
nước. Họ là những kẻ đại diện cho giai cấp địa chủ. Hệ tư tưởng của họ là hệ
tư tưởng Nho giáo.
Và như vậy, Nho giáo gắn liền với quyền lợi đẳng cấp quý tộc. Tầng

lớp nho sĩ đa số xuất thân từ giai cấp địa chủ nhỏ, muốn có địa vị trong xã hội
bằng cách thông qua Khổng giáo, thông qua thi cử để đạt mục đích của mình.
Từ chỗ không được ưa thích trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
Nho giáo đã dần dần giữ vị trí ngày càng tăng trong việc đề cao uy thế của
nhà vua, xây dựng một hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới, đảm bảo mối
quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và nhân dân.
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam, trải qua quá trình tiếp biến với
văn hoá bản địa cho nên nó không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của
nó nữa. Nó đã được Việt Nam hoá. Nho sĩ Việt Nam vì lợi ích bảo vệ và xây
dựng tổ quốc, đã khai thác những quan điểm tích cực của Nho giáo để khẳng
định những giá trị truyền thống của dân tộc.
Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan
hệ giữa người với người. Nhân nghĩa là hai phạm trù trung tâm đứng hàng
20


đầu trong năm giá trị cơ bản của đạo đức Khổng giáo (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín).
Cùng với việc truyền bá Nho giáo vào nhân dân, nho sĩ Việt Nam đã
hoạt động mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và đã có những đóng
góp đáng kể, góp phần hình thành và củng cố những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Từ thế kỷ XI trở đi, các triều đại phong kiến Việt Nam đã
vận dụng các nguyên tắc cơ bản của Nho giáo để trị nước, đặc biệt từ thời Lê
Sơ, Nho giáo được độc tôn, làm tiền đề cho sự độc tôn lần thứ hai dưới triều
Nguyễn.
1.2. Những nguyên nhân cơ bản của sự độc tôn Nho giáo dƣới
triều Nguyễn
1.2.1. Sự độc tôn Nho giáo lần thứ nhất dưới thời Lê Sơ là tiền đề
quan trọng cho sự độc tôn Nho giáo lần thứ hai dưới triều Nguyễn
Năm 1428, sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa chống sự xâm lược và

đô hộ của nhà Minh, Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) lên ngôi, lập lên vương triều Lê.
Trong những năm trị vì đất nước, Lê Lợi đã xây dựng một bộ máy nhà nước
theo mô hình của nhà Trần, ban hành một số văn bản pháp luật dưới dạng các
chỉ dụ, lệnh, chiếu…, thi hành các chính sách nhằm phát triển sản xuất nông
nghiệp cùng một số biện pháp an sinh xã hội…, tạo ra sự ổn định và hưng
khởi bước đầu cho đất nước sau hơn 20 năm bị giặc chiếm đóng và tàn phá.
Nho giáo đã bắt đầu chiếm vị trí độc tôn trong thượng tầng kiến trúc phong
kiến.
Giai cấp phong kiến Việt Nam thời Lê Sơ lấy Nho giáo làm công cụ
thống trị tinh thần, làm cơ sở lý luận và quy tắc đạo đức để củng cố trật tự xã
hội và bảo vệ quyền thống trị của chế độ phong kiến tập quyền chuyên chế.
Hệ tư tưởng Nho giáo được quán triệt vào nhiều chủ trương chính sách của
nhà nước phong kiến và có ảnh hưởng sâu sắc trong mọi lĩnh vực văn hoá
đương thời.
21


Lê Thánh Tông là một ông vua tinh thông Nho giáo và đã nâng Nho
giáo lên địa vị cao nhất. Ngay sau khi lên nắm quyền, Lê Thánh Tông chủ
trương và xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế, đề cao uy quyền và
quyền hành thực tế của vua, tăng cường sự chi phối quyền lực của triều đình
xuống các địa phương.
Các biện pháp cải cách đã được thực hiện từng bước. Nhà nước
phong kiến thời Lê đề ra chính sách nhằm củng cố và phát triển đất nước như
chủ trương “trọng nông”, “ức thương”. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam, tư tưởng “trọng nông”, “ức thương” được thể chế hoá và được triệt
để thực hiện thông qua các chính sách và biện pháp cụ thể của nhà nước.
Cũng từ đây hình thành quan niệm phân tầng xã hội, chia xã hội thành tứ dân
là sĩ, nông, công, thương, tạo cơ sở vững chắc cho Nho giáo phát triển mạnh
mẽ.

Trong xã hội phong kiến thế kỷ XV, địa vị của tầng lớp nho sĩ được
đề cao, làm rường cột của nhà nước phong kiến, làm nguồn bổ sung vào bộ
máy quan liêu. Tầng lớp Nho sĩ ấy đã được đào tạo từ một chế độ giáo dục và
thi cử lấy Nho giáo làm cơ sở.
Trên cơ sở thuyết “Chính danh, định phận” và “Đạo Nhân”: Tam
cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức của Nho giáo, nhà nước phong kiến
thời Lê Sơ ra sức ổn định và củng cố các quan hệ phong kiến với những thứ
bậc tôn ti chặt chẽ. Nhà vua có một uy quyền vô thượng, được xem là “con
trời”. Chế độ phong kiến trung ương tập quyền được phát triển, bộ máy quan
liêu ngày càng mở rộng. Thượng tầng kiến trúc phong kiến trở thành hoàn
chỉnh với địa vị độc tôn Nho giáo và sự ra đời của bộ luật Hồng Đức.
1.2.2. Nguyên nhân chính trị - xã hội và tư tưởng của Đại Việt từ thế
kỷ XVI đến thế kỷ XIX
a. Nguyên nhân chính trị - x hội
Nhà Lê Sơ tồn tại 100 năm, do hậu duệ của Lê Thánh Tông bất tài và
vô đạo đức, đã đẩy triều đại này đến chỗ sụp đổ bằng cuộc đảo chính của nhà
22


Mạc. Nhà Mạc khi nắm quyền thống trị vẫn tiếp tục duy trì hình thức tổ chức
nhà nước phong kiến thời Lê Sơ lấy Nho giáo làm trụ cột hệ tư tưởng. Tuy
nhiên, nhà Mạc do không duy trì được quyền thống trị của mình lâu dài, sau
nhiều năm đánh nhau với các thế lực phục hồi nhà Lê gọi là Nam Triều, buộc
phải rời kinh đô Thăng Long chạy lên vùng Cao Bằng, Tuyên Quang.
Tuy nhà Lê trở lại thống trị đất nước, nhưng thực quyền lại thuộc về
họ Trịnh do Trịnh Kiểm làm chúa. Nguyễn Hoàng là em vợ của Trịnh Kiểm
vì sợ anh rể sát hại, đã xin vào đất Thuận Quảng để sinh cơ lập nghiệp. Vì
vậy, nước Đại Việt bị chia làm hai: Đàng Trong và Đàng Ngoài, lấy sông
Gianh làm giới tuyến.
Với ý đồ tách Đàng Trong ra khỏi sự thống trị của nhà Lê - Trịnh,

Nguyễn Hoàng và những người nối nghiệp như Nguyễn Phúc Nguyên,
Nguyễn Phúc Tần, v.v., một mặt, củng cố việc phòng thủ đất Thuận Quảng,
chống lại các cuộc tấn công của quân Trịnh, mặt khác, tìm cách mở rộng lãnh
thổ xuống phía nam.
Từ năm 1611, Nguyễn Hoàng đã cử chủ sự Văn Phong, nhân sự cướp
phá biên giới của quân Chămpa, đánh vào, chiếm đất, đặt thành phủ Phú Yên.
Vốn suy nhược từ cuối thế kỷ XV, Chămpa không còn cơ sở và điều kiện để
hồi phục và đến đây, hoàn toàn hoà nhập vào Đại Việt.
Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên nối ngôi Nguyễn Hoàng, quyết định
thải hồi các quan lại do nhà Lê cử, cải tổ lại bộ máy chính quyền. Buổi đầu,
mặc dầu nhân dân quen gọi những người đứng đầu dòng họ thống trị là chúa,
các chúa Nguyễn vẫn chỉ xưng quốc công. Năm 1692, chúa Phúc Chu dự định
tách Đàng Trong thành một nước riêng, tự xưng Đại Việt quốc vương, nhưng
việc không thành. Nối tiếp ý đồ đó, năm 1744 chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng
vương, thành lập triều đình, đổi các chức Ký lục, Nha uý, Đô tri, cai bạ thành
Lại bộ, Lễ bộ, Hình bộ, Hộ bộ và đặt thêm 2 bộ Binh và Công, đặt Hàn Lâm
viện.
23


Do đặc trưng của Đàng Trong, ở nửa đầu thế kỷ XVII, quan lại được
bổ nhiệm theo tiến cử, thân tộc. Năm 1646, chúa Nguyễn Phúc Lan bắt đầu
mở khoa thi, 2 cấp Chính đồ (cấp cao) và Hoa văn (cấp thấp). Về sau nhiều kỳ
thi được mở tiếp, song sang thế kỷ XVIII, chế độ mua quan bán tước bắt đầu
phát triển. Như nhận xét của Lê Quý Đôn: “Mọi người tranh nhau nộp tiền để
lĩnh bằng. Đến nay (cuối thế kỷ XVIII), một xã mà có đến 16 - 17 tướng thần,
hơn 20 xã trưởng cùng làm việc”[64; tr.351].
Như vậy, từ sau khi Nguyễn Hoàng từ bỏ đất Bắc, định cư tại vùng
đất Thuận Quảng, họ Nguyễn dần dần xây dựng vùng đất Đàng Trong thành
một lãnh địa riêng, có chính quyền độc lập, mặc dầu, cho đến trước năm 1744

vẫn giữ tước vị Quốc công, dùng niên hiệu của vua Lê. Trong khi đó, nhân
dân vẫn luôn luôn xem vùng đất Thuận Quảng là Đàng Trong của nước Đại
Việt xưa.
Nhìn chung, trong giai đoạn đầu, tình hình kinh tế Đàng Trong từng
bước đã có những bước tiến triển rõ rệt; với bộ máy chính quyền non trẻ, ít
tập trung quan liêu, chủ yếu thiên về thực dụng - kinh tế, chưa có sự ràng
buộc dân chúng chặt chẽ. Trong nông nghiệp, nhà Nguyễn đã hoàn thành xứ
sở phương Nam, công cuộc khẩn hoang nhanh chóng được tiến hành. Đời
sống nhân dân phần nào được cải thiện, xã hội tương đối ổn định.
Vùng đất phía nam Thuận Quảng đã diễn ra quá trình sáp nhập lãnh
thổ Đàng Trong được diễn ra suốt từ 1611 cho đến giữa thế kỷ XVIII, đồng
thời cũng là quá trình di dân lập ấp của cư dân Việt ở Đàng Trong. Bị áp bức
bóc lột nặng nề, hàng loạt nông dân nghèo mất đất đã rủ nhau đi vào phía
Nam khai hoang, thành lập xóm làng. Nhiều người đã đến tận vùng cực nam
trên đất Thuỷ Chân Lạp, thậm chí sang cả đất Thái Lan. Bên cạnh số người
này còn có một số binh sĩ và gia đình, hoặc đóng đồn khẩn hoang hoặc đi làm
đồn điền. Để nhanh chóng khai thác vùng đồng bằng sông Cửu Long, các
chúa Nguyễn đã khuyến khích quan lại, địa chủ giàu có ở Thuận Hoá mộ dân

×