Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY KHOÁ MINH KHAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.66 KB, 63 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang
đặt ra những thách thức cùng những cơ hội phát triển cho tất cả các doanh
nghiệp khác nhau đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh.
Vận hành theo cơ chế thị trường nghĩa là các doanh nghiệp phải tuân thủ
một cách nghiêm ngặt các quy luật khách quan của thị trường trong đó có quy
luật cạnh tranh. Dưới tác động và yêu cầu của quy luật này, các doanh nghiệp
phải vận dụng tối đa, linh hoạt và hợp thức các thủ pháp và nghệ thuật kinh
doanh để đạt tới các lợi thế tương đối để tăng trưởng và phát triển cặp thị trường
- sản phẩm, khách hàng tiềm năng - thị phần nhằm tối ưu hoá lợi nhuận mong
muốn.
Hậu quả tất yếu của động thái cạnh tranh này là một nhóm doanh nhgiệp
do không hoà nhập hoặc xác định không đúng các thủ pháp cạnh tranh nên bị
suy thoái, thậm chí phá sản và bị gạt ra khỏi thị trường, một số doanh nghiệp
thích ứng được và vận dụng đồng bộ các thủ pháp cạnh tranh hợp lý thì không
ngừng phát triển.
Hiện nay, Việt nam đă tham gia Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung (CEBT) để thành lập khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA) vào
năm 2003, đã tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
(APEC) và đang xúc tiến xin gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO).
Những sự kiện trên cũng có nghĩa là trong thời gian tới, doanh nghiệp Việt Nam
nói chung không những chỉ cạnh tranh với nhau ở trong nước mà còn phải trực
diện cạnh tranh với các doanh nghiệp ở nước ngoài.
Thực tế trong lĩnh vực sản xuất khoá và máy móc thiết bị đã phản ánh đầy
đủ và điển hình các yếu tố của môi trường kinh doanh trong cơ chế cạnh tranh.
1

Công ty khoá Minh khai là một Công ty kinh doanh trong lĩnh vực này, do
vậy đòi hỏi phải có những biện pháp thiết thực để nâng cao năng lực cạnh tranh


của doanh nghiệp trên thị trường giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển ngày
một vững mạnh.
Vấn đề này được quan tâm nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các nguyên lý
kinh doanh trong tình hình cạnh tranh nhằm nghiên cứu thực trạng hoạt động
cũng như tình hình cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của Công ty khoá Minh
Khai.
Bài viết này được chia thành 3 phần chính:
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
PHẦN II: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG TIÊU
THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY KHOÁ MINH KHAI.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY KHOÁ MINH KHAI
2

PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. VAI TRÒ VÀ LOẠI HÌNH CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Khái niệm cạnh tranh của Doanh nghiệp
Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa chủ yếu là
sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại,
đồng giá trị nhằm đặt được những ưu thế, lợi thế mục tiêu xác định. Trong hình
thái cạnh tranh thị trường, quan hệ ganh đua xảy ra giữa hai chủ thể cung (nhóm
người bán) cũng như chủ thể cầu (nhóm người mua), cả hai nhóm này tiến tới
cạnh tranh với nhau vì được liên kết với nhau bằng giá cả thị trường.
Động cơ của bất kỳ một cuộc cạnh tranh nào cũng là nhằm đạt được ưu

thế, lợi ích hơn về lợi nhuận, về thị trường mục tiêu Marketing, về nguồn cung
ứng, về kỹ thuật, về khách hàng tiềm năng…Chính vì động cơ này các chủ thể
kinh doanh căn cứ vào vị trí, thế lực của mình để lựa chọn phương cách, công cụ
cạnh tranh thích hợp.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là cường dộ các yếu tố sản xuất trong
tương quan so sánh của doanh nghiệp. Sức cạnh tranh không đồng nhất với quy
mô của doanh nghiệp và nó không được đo lường bởi các yếu tố cạnh tranh kinh
điển mà phải đặt nó trong mối quan hệ với thị trường cạnh tranh, môi trường
cạnh tranh, vì vậy ta có thể có khái niệm tổng quát:
“Sức cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hợp các yếu tố
để xác lập vị thế so sánh tương đối hiọc tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng và phát
triển bền vững, ổn định của doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với tập các
3

đối thủ cạnh tranh trong cùng một môi trường và thị trường cạnh tranh xác định
trong một khoảng thời gian hoặc một thời điểm định gía xác định”
2. Vai trò của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
2.1. Đối với doanh nghiệp.
- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệpphải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của
sản xuất kinh doanh,phải triệt để không ngừng sáng tạo, tìm tòi.
- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, nắm bắt thông tin kịp thời.
- Cạnh tranh quy định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường thông
qua những lợi thế mà doanh nghiệp đạt được nhiều hơn đối thủ cạnh tranh.
Đồng thời cạnh tranh cũng là yếu tố làm tăng hoặc giảm uy tín của doanh
nghiệp trên thương trường.
2.2. Đối với người tiêu dùng.
- Cạnh tranh mang đến cho người tiêu dùng ngày càng nhiều hơn chủng
loại hàng hoá, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng, của người
tiêu dùng. Khôngnhững thế, cạnh tranh đem lại cho người tiêu dùng sự thoả

mãn hơn nữa về nhu cầu.
2.3.Đối với nền kinh tế quốc dân:
- Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng
mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
- Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, đưa
tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao vào sản xuất, hiện đại hoá nền kinh tế
xã hội.
- Cạnh tranh góp phần xoá bỏ những độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ những
bất bình đẳng trong kinh doanh.
Tuy nhiên không phải tất cả các mặt của cạnh tranh đều mang tính tích cực
mà bản thân nó cũng phải thừa nhận các mặt tiêu cực như:
4

+ Bị cuốn hút vào các mục tiêu cạnh tranh mà các doanh nghiệp đã không
chú ý đến các vấn đề xung quanh như: xử lý chất thải, ô nhiễm môi trường và
hàng loạt các vấn đề xã hội khác.
+ Cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn tới độc quyền.
+ Cường độ cạnh tranh mạnh sẽ làm ngành yếu đi.
3. Các loại hình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Chúng ta có thể phân biệt thành bốn mức độ cạnh tranh căn cứ vào mức độ
thay thế của sản phẩm:
* Cạnh tranh nhãn hiệu:
Doanh nghiệp có thể xem những doanh nghiệp khác có bán sản phẩm và
dịch vụ tương tự cho cùng một số khách hàng với giá bán tương tự là các đối
thủ cạnh tranh của mình.
* Cạnh tranh ngành:
Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn tất cả những doanh nghiệp
cùng sản xuất một loại hay một lớp sản phẩm đều là đối thủ cạnh tranh của
mình.
* Cạnh tranh công dụng:

Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn nữa là tất cả những doanh
nghiệp sản xuất ra những sản phẩm thực hiện cùng một dịch vụ là đối tượng
cạnh tranh của mình.
Để cụ thể hơn, ta có thể phân biệt thành năm kiểu cơ cấu ngành căn cứ vào
số lượng người bán và sản phẩm đồng nhất hay rất khác biệt như sau:
+ Độc quyền hoàn toàn: Độc quyền hoành toàn tồn tại khi chỉ có một
doanh nghiệp duy nhất cung cấp một sản phẩm hay dịch vụ nhất định trong một
nước hay một khu vực nhất định.
+ Nhóm độc quyền hoàn toàn: Gồm một vài doanh nghiệp sản xuất phần
lớn một loại sản phẩm (ví dụ: dầu mỏ, thép...).
5

+ Nhóm độc quyền có khác biệt: Gồm một vài doanh nghiẹp sản xuất ra
những sản phẩm có khác nhau một phần (ví dụ: ô tô, xe máy...).
+ Cạnh tranh độc quyền: Gồm nhiều đối thủ cạnh tranh có khả năng tạo ra
những điểm khác biệt cho toàn bộ hay một phần sản phẩm của mình (ví dụ: nhà
hàng, khách sạn...).
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Gồm nhiều đối thủ cạnh tranh cùng cung ứng một
loại sản phẩm và dịch vụ (ví dụ: thị trường chứng khoán, thị trường hàng hoá...).
4. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và hợp tác:
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền
vững thì không thể duy trì một biện pháp cạnh tranh cứng nhắc. Những mối
quan hệ tốt chính là những tài sản quý giá của doanh nghiệp. Do sự biến đổi
không ngừng của môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải có sự điều
chỉnh thích hợp với những biến động đó để có thể hạn chế tối thiểu những điểm
yếu, phát huy tối đa những mặt mạnh của mình để chủ động trong kinh doanh,
khai thác tốt những cơ hội trên thị trường.
Sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc đề ra các chính sách kinh doanh là một tố
chất không thể thiếu được đối với những nhà quản lý giỏi. Có thể ở một thời
điểm nào đó, các doanh nghiệp cạnh tranh với một cường độ rất gay gắt, đôi khi

là một mất, một còn nhưng ở một thời điểm khác, do những biến động nào đó
của môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp lại liên kết, hợp tác với nhau
nhằm khai thác một cơ hội kinh doanh nào đó hoặc để chống đỡ những nguy cơ
nào đó từ phía môi trường.
II. CÁC CÔNG CỤ CẠNH TRANH CHỦ YẾU:
Mỗi chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh đều phải biết phân tích
những điểm mạnh, điểm yếu của mình để từ đó tìm ra và phát huy những thế
mạnh, hạn chế giảm bớt những mặt yếu. Sau đây là một số công cụ cạnh tranh
chủ yếu mà doanh nghiệp thường sử dụng :
6

1. Cạnh tranh bằng sự đa dạng hoá:
1.1. Đa dạng hoá sản phẩm: Có 3 phương thức:
* Đa dạng hoá đồng tâm:
Là hướng phát triển đa dạng hoá trên nền của sản phẩm chuyên môn hoá
dựa trên cơ sở khai thác mối liên hệ về nguồn vật tư và thế mạnh về cơ sở vật
chất - kỹ thuật.
Ví dụ: Công ty khoá Minh Khai ngoài sản xuất khoá còn sản xuất các loại
như bản lề, ke, chốt mạ...
* Đa dạng hoá theo chiều ngang:
Là hình thức tăng trưởng bằng cách mở rộng các danh mục sản phẩm và
dịch vụ cung cấp cho khách hàng hiện có của doanh nghiệp. Thông thường
những sản phẩm này không có mối liên hệ với nhau nhưng chúng có những
khách hàng hiện có nắm rất chắc .
* Đa dạng hoá hỗn hợp:
Là sự kết hợp của hai hình thức trên. Sử dụng chiến lược này thường là
những tập đoàn kinh doanh lớn hay những Công ty đa Quốc gia. Đa dạng hoá
hỗn hợp đang là xu thế của các doanh nghiệp hiện nay.
1.2. Khác biệt hoá sản phẩm:
Khác biệt hoá sản phẩm là tạo ra các đặc điểm riêng, độc đáo được thừa

nhận trong toàn ngành có thể là nhờ vào lợi thế công nghệ sản xuất sản phẩm.
Khác biệt hoá sản phẩm nếu đạt được sẽ là chiến lược tạo khả năng cho Công ty
thu được tỷ lệ lợi nhuận cao hơn bởi nó tạo nên một vị trí vững chắc cho hẵng
trong việc đối phó với 5 lợi thế cạnh tranh.
Khác biệt hoá sản phẩm tạo ra sự trung thành của khách hàng vào nhãn
hiệu sản phẩm, điều này sẽ dẫn đến khả năng ít biến động hơn về giá.
7

2. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm:
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, thị
trường ngày càng đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm có chất lượng cao, thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng. Doanh nghiệp cần phải thực hiện các biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong quá trình sản xuất kinh doanh, cán
bộ quản lý chất lượng phải chú ý ở tất cả các khâu trên, đồng thời phải có chế
độ kiểm tra chất lượng sản phẩm ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh
doanh do các nhân viên kiểm tra chất lượng thực hiện. Phải có sự phối kết hợp
chặt chẽ giữa các bộ phận Marketing với bộ phận nghiên cứu, thiết kế sản
phẩm...
3. Cạnh tranh bằng giá cả.
3.1. Cạnh tranh bằng chính sách định giá.
a/ Chính sách định giá cao:
Thực chất là đưa giá bán sản phẩm cao hơn giá bán trên thị trường và cao
hơn giá trị. Chính sách này thường được áp dụng cho các doanh nghiệp có sản
phẩm hay dịch vụ độc quyền, không bị cạnh tranh hoặc được áp dụng cho các
loại hàng hoá xa sỉ, sang trọng phục vụ cho đoạn thị trường có mức thu nhập
cao. Các doanh nghiệp sản xuất có các loại sản phẩm có chất lượng cao vượt
trội so với các đối thủ khác cũng có thể áp dụng chính sách định giá cao.
b/ Chính sách định giá ngang với giá cả trên thị trường.
Định ra mức giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá cả trên thị trường.

Đây là cách đánh giá khá phổ biến, các doanh nghiệp có thể tổ chức tốt các
hoạt động chiêu thị và các hoạt động bán hàng để tăng khối lượng hàng hoá tiêu
thụ nhằm nâng cao lợi nhuận.
c/ Chính sách định giá thấp.
8

Là định ra mức giá bán sản phẩm thấp hơn giá thị trường để thu hút khách
hàng về phía mình nhằm tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ.
Các doanh nghiệp có thể áp dụng chính sách định giá thấp khi muốn đưa
sản phẩm mới thâm nhập nhanh vào thị trường hoặc các doanh nghiệp có tiềm
lực tài chính mạnh cũng có thể áp dụng chính sách định giá thấp để có thể đánh
bại đối thủ hay đuổi các đối thủ mới ra khỏi thị trường.
3.2. Cạnh tranh bằng cách hạ giá thành.
Giá thành đơn vị sản phẩm được tập hợp từ các chi phí về nguyên vật liệu,
các chi phí về nhân công sản xuất và các chi phí cố định phục vụ cho sản xuất
chung. Kiểm soát giá thành gồm có:
a/ Giảm chi phí về nguyên vật liệu:
- Chi phí về nguyên vật liệu trong sản phẩm thường chiếm trên 50% tổng
giá thành sản phẩm. Có những loại sản phẩm chi phí về nguyên vật liệu chiếm
70% tổng giá thành. Vì vậy, giảm chi phí về nguyên vật liệu là biện pháp có ý
nghĩa nhất trong việc thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm.
- Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản xuất nên chỉ
cần tiết kiệm một tỷ lệ nhỏ chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đến kế
hoạch giá thành.
b/ Giảm chi phí về nhân công:
- Chi phí về nhân công trong giá thành sản phẩm chiếm tỷ lệ khá cao.
Thông thường chi phí nhân công trong giá thành đối với sản phẩm được giảm
bằng cách nâng cao năng suất lao động.
c/ Giảm chi phí cố định:
- Chi phí cố định bao gồm khấu hao tài sản cố định, các chi phí lãi cho vốn

vay và chi phí về quản lý. Để giảm chi phí cố định trong giá thành đơn vị sản
phẩm cần phải tận dụng thời gian hoạt động cuả máy móc thiết bị sản xuất, áp
dụng phương pháp khấu hao nhanh để giảm bớt hao mòn vô hình, tổ chức hợp lý
lực lượng cán bộ quản trị để giảm bớt chi phí quản lý.
9

3.3. Giảm các chi phí thương mại:
- Phí tổn thương mại gồm toàn bộ các chi phí có liên quan đến việc bán sản
phẩm từ những chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động Marketing đến các chi
phí khác như chi phí quản lý bán hàng, chi phí lưu thông. Chi phí thương mại có
thể giảm tới mức tối thiểu nhưng nếu thực hiện như vậy thì doanh nghiệp rất
khó có thể thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, giảm phí tổn thương
mại ở đây có thể hiểu giảm đến mức tối ưu chi phí cho các hoạt động có liên
quan đến bán sản phẩm như: Chi phí vận chuyển, chi phí cho công tác chiêu thị,
chi phí cho lực lượng bán hàng.
4. Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm:
4.1. Lựa chọn hệ thống kênh phân phối:
- Trước hết để tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phái nghiên cứu thị trường,
lựa chọn thị trường và lựa chọn kênh phân phối để sản phẩm sản xuất ra được
tiêu thụ nhanh chóng, hợp lý và đạt hiệu quả cao. Thông thường có 4 kênh phân
phối sau:
Sơ đồ số 1: Các loại kênh phân phối
Kiểu 1:
Kiểu 2:
10
Người bán lẻNgười sản
xuất
Người tiêu dùng
cuối cùng
Người sản xuất

Người tiêu dùng
cuối cùng

Kiểu 3:
Kiểu 4:
Việc lựa chọn kênh phân phối phải dựa trên đặc điểm sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cũng như đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của sản phẩm cần tiêu
thụ, đồng thời cũng phải dựa trên đặc điểm của thị trường cần tiêu thụ, đặc điểm
về khoảng cách giữa doanh nghiệp đến thị trường. Từ những đặc điểm trên,
doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình một hệ thống kênh phân phối hợp lý, hiệu
quả.
4.2. Một số biện pháp yểm trợ bán hàng:
a/ Chính sách quảng cáo:
Muốn thực hiện được nhiệm vụ quảng cáo đó thì quảng cáo phải thoả mãn
được những yêu cầu sau:
- Quảng cáo phải có tính tập trung cao
- Quảng cáo phải có tính trung thực
- Quảng cáo phải có tính hấp dẫn
- Quảng cáo phải có tính hiệu quả
11
Người sản
xuất
Người bán
buôn
Người bán
lẻ
Ngưòi tiêu dùng
cuối cùng
Người sản
xuất

Người bán
buôn
Người đầu cơ
môi giới
Người
bán lẻ
Người tiêu dùng
cuối cùng

Để quảng cáo cho một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó của doanh nghiệp
có thể sử dụng nhiều loại phương tiện khác nhau. Vì mỗi phương tiện quảng cáo
khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến người nhận thông tin quảng cáo nên
doanh nghiệp phải lựa chọn và kết hợp có lợi nhất các phương tiện quảng cáo
phù hợp.
b/ Một số chính sách phục vụ khách hàng:
* Chính sách thanh toán:
- Chính sách thanh toán là một công cụ nhằm hấp dẫn khách hàng về phía
doanh nghiệp. Trong trường hợp 2 doanh nghiệp cùng bán một loại sản phẩm
theo cùng một giá thì điều kiện thanh toán sẽ trở thành quyết định đối với sự lựa
chọn của người mua. Các chính sách bán trả chậm, chính sách bán trả góp
thường áp dụng cho khách hàng là người mua cuối cùng.
* Chính sách phục vụ
Ở đây là hoạt động khuyến mại nhằm hấp dẫn khách hàng về phía mình.
Chúng ta có thể chia các chính sách phục vụ khách hàng thành 2 giai đoạn chính
là chính sách phục vụ trước và sau khi bán hàng.
Cạnh tranh ngày càng gay gắt thì các hoạt động phục vụ khách hàng ngày
càng mở rộng, đặc biệt là các hoạt động, dịch vụ sau bán hàng.
Ngoài một số biện pháp trên, các doanh nghiệp còn sử dụng thêm một số
biện pháp khác như: tham gia hội chợ, chào hàng, tăng cường quảng cáo…
III. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH

TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh
nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh,
đảm bảo thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ
những mục tiêu của doanh nghiệp. Loại thị trường phổ biến trong thực tế là loại
12

thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Do vậy, các doanh nghiệp tồn tại trong
thị trường cạnh tranh đều có một vị trí nhất định của nó. Vì thế, nếu doanh
nghiệp tham gia vào thị trường mà không có khả năng cạnh tranh hoặc cạnh
tranh yếu thì không tồn tại được.
Kết quả tổng hợp các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cạnhn tranh của
doanh nghiệp được phản ánh bằng quy mô tiêu thụ. Vì vậy, phần thị trường
chiếm lĩnh của doanh nghiệp được coi là chỉ số tổng hợp đo lường tính cạnh
tranh của nó, qua chỉ số đồng nhất này có thể đánh giá thành tích của doanh
nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác cũng như so sánh thắng lợi giữa các
đối thủ cạnh tranh với nhau.
2. Tính tất yếu của nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta không một ai nói
đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh là cần thiết cho doanh nghiệp. Bởi một
thực tế là các doanh nghiệp không phải cạnh tranh với nhau mà chỉ cần thực
hiện các chỉ tiêu Nhà nước giao, nhà nước đảm bảo mọi khâu, mọi mặt trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Ngày nay nền kinh tế Nhà nước ta vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Do vậy, nó hoạt động theo quy luật khách quan vốn có của nó đó là quy
luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh.
Quy luật cạnh tranh thể hiện rất rõ trong nền kinh tế thị trường. Có kinh tế
thị trường thì tất yếu có cạnh tranh. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất.

Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần với sự tham gia của
nhiều loại hình doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. Thêm vào đó với chính
sách mở cửa của nền kinh tế, ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham
gia vào lĩnh vực kinh doanh trên thị trường Việt Nam thì tình hình cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt hơn.
13

Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra rất yếu trong cạnh tranh
so với các doanh nghiệp nước ngoài. Bởi nước ta mới chuyển đổi nền kinh tế dó
đó các doanh nghiệp Việt Nam chưa quen với cạnh tranh. Vì vậy mà hàng hoá
nước ngoài cạnh tranh gay gắt, chèn ép sản phẩm trong nước.
Hơn nữa, các hình thức trong kinh doanh, cách làm ăn của các doanh
nghiệp trong nước thường mang tính chụp giật, cạnh tranh không lành mạnh và
rất ít doanh nghiệp áp dụng chiến lược kinh doanh.
Vậy, có thể nói nâng cao khả năng cạnh tranh là một tất yếu khách quan
của các doanh nghiệp làm thay đổi mối tương quan thế và lực của doanh nghiệp
trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh.
14

PHẦN II
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG TIÊU
THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY KHOÁ MINH KHAI
I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
CÔNG TY KHOÁ MINH KHAI.
1. Quá trình hình thành và phát triển.
1.1. Quá trình hình thành.
Công ty khoá Minh Khai trước đây là nhà máy khoá Minh Khai, được
thành lập từ năm 1972 theo quyết định số 561/BKT của Bộ Trưởng Bộ Kiến
Trúc (nay là Bộ xây dựng) với sự giúp đỡ của Ba Lan về nhà xưởng, máy móc
thiết bị.

Về loại hình tổ chức:
Công ty khoá Minh Khai là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán kinh tế
độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp lý trực tiếp của Tổng công ty cơ khí
xây dựng - Bộ xây dựng.
* Trụ sở chính: 125D-Minh Khai-Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội.
* Lĩnh vực kinh doanh: Sản xuất thiết bị máy móc cho ngành xây dựng, vật
liệu xây dựng, sản xuất phụ tùng, phụ kiện bằng kim loại và kinh doanh các sản
phẩm cơ khí xây dựng
* Hình thức hoạt động: Theo ngành kinh tế sản xuất.
* Tổng số công nhân viên: 340 người, trong đó cán bộ nhân viên, quản lý là
70 người.
15

1.2. Các giai đoạn phát triển.
Năm 1972, do chiến tranh tàn phá nên Công ty đã ngừng hoạt động để đi
vào phục hồi lại, do đó đến cuối năm 1973 Công ty chính thức đi vào hoạt động.
Do đặc điểm của thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng thay đổi theo từng
thời kỳ nên quá trình phát triển của Công ty khoá Minh Khai đã trải qua các giai
đoạn sau:
- Giai đoạn từ 1973-1980: Công ty hoạt động theo đúng chức năng nhiệm
vụ, mục tiêu ngành nghề theo quy định ban đầu về sản xuất. Sản phẩm gồm các
loại: khoá, bản lề, ke cửa, chốt, móc gió. Thời gian đầu Công ty sản xuất sản
phẩm theo mẫu thiết kế của Ba Lan nên có phần nào chưa phù hợp với điều kiện
của Việt Nam.
- Giai đoạn 1981-1988: Công ty sản xuất theo kế hoạch Bộ giao. Ngoài
những sản phẩm cũ như trên còn có giàn giáo thép, bi đan và mắt sàng xi măng,
đồng thời sản xuất thêm các mặt hàng kim khí, phục vụ xây dựng như của xếp,
của chớp lật, cửa hoa. Trong giai đoạn này Công ty đã tiến hành hai vấn đề lớn:
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm và đã xuất khẩu các khoá, le, bản lề,
cremon cho các nước Hungary, Cuba, Lào và xuất khẩu tại chỗ cho Tây Đức.

+ Công ty đã nghiên cứu và chế tạo bi nghiền cho công nghiệp xi măng và
phụ tùng khác. Ngoài ra còn là đơn vị đi tiên phong trong việc nghiên cứu công
nghệ sản xuất giàn giáo thép.
- Giai đoạn từ 1989-1991: thời kỳ chuyển mạch từ cơ chế bao cấp sang cơ
chế thị trường, bước đầu có nhiều khó khăn, nhất là đối với ngành cơ khí.
Nhưng nhà máy đã đưa ra mục tiêu: giữ vững được sản xuất và tiêu thụ, không
để công nhân nghỉ vì thiếu việc làm, hàng hoá sản xuất phải tiêu thụ hết và đảm
bảo đời sống công nhân viên. Rút lại một phần lớn lao động dôi dư không có
trình độ tay nghề, sức khoẻ và chuyển sang công tác khác cho phù hợp, đồng
thời gửi cán bộ, công nhân đi lao động, học tập ở nước ngoài, một phần cho nghỉ
hưu, về mất sức.
16

- Giai đoạn từ 1992-> nay: giai đoạn này Công ty đã chuyển hoá mạnh vào
nền kinh tế thị trường. Công ty đã tiến hành sắp xếp lại sản xuất theo Nghị định
số 388/HĐBT. Công ty đã chú trọng nhiều vào việc sản xuất, đa dạng hoá các
loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế của đất nước. Việc quan
tâm tới chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật của sản phẩm được đưa lên hàng đầu.
Thời kỳ này bên cạnh việc sản xuất những mặt hàng truyền thống, Công ty đã
tung ra thị trường nhiều sản phẩm mới với mẫu mã phong phú và cải tiến tiện
lợi hơn.
Ngày 5/5/1983 Bộ trưởng Bộ xây dựng đã ký quyết địng số 163A/BXD-
TCLĐ thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước với tên gọi nhà máy khoá Minh
Khai trực thuộc liên hiệp các xí nghiệp cơ khí xây dựng-Bộ xây dựng. Ngày
7/3/1994 Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 90 TTg về việc tiếp tục sắp xếp
lại doanh nghiệp Nhà nước, liên hiệp các xí nghiệp xây dựng được gọi là Công
ty cơ khí xây dựng và nhà máy Khoá Minh khai được đổi tên thành Công ty
khoá Minh Khai.
Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, Công ty khoá Minh Khai đã
không ngững phấn đấu về mọi mặt. Công ty đã thực hiện hạch toán kinh tế độc

lập, tự cân đối về tài chính, coi trọng hiệu quả kinh tế đồng thời thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, đời sống của cán bộ công nhân viên được
nâng cao. Mặt khác, Công ty không ngừng cải tiến, mua sắm máy móc thiết bị,
nâng cao chất lượng sản phẩm và nắm bắt kịp thời thị hiếu người tiêu dùng để
tung ra thị trường những sản phẩm chất lượng cao, phù hợp với người tiêu dùng
nhất.
Hiện nay, sản phẩm của Công ty đủ sức mạnh cạnh tranh và tiêu thụ tốt
trên thị trường. Năm 1994, Công ty đã có 4 sản phẩm đạt huy chương Vàng tại
hội chợ Quốc tế Hàng công nghiệp Việt Nam. Đó là khoá MK10, khoá treo
MK10N, bản lề 100 và cremon MK 23A.
17

2. Bộ máy tổ chức và lao động.
2.1. Bộ máy tổ chức
Để đảm bảo cho tổ chức quản lý sản xuất có hiệu quả, Công ty tổ chức bộ
máy quản lý gọn nhẹ với chế độ một thủ trưởng, đứng đầu là Giám đốc Công ty,
người có quyền hành cao nhất, chịu mọi trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể
cán bộ công nhân viên trong Công ty ở mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Bộ
phận giúp việc cho Ban giám đốc bao gồm:
+ Một phó Giám đốc kỹ thuật
+ Một phó Giám đốc sản xuất
+ Các trường phòng ban khác
Cùng với hoạt động quản lý ở các phòng ban, phân xưởng sản xuất thì quản
đốc là người chịu trách nhiệm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình:
Bố trí từng tổ đội sản xuất sao cho phù hợp với khả năng trình độ của họ,
thường xuyên giám sát hướng dẫn kỹ thuật của đơn vị mình.
Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận trong bộ máy tổ chức của Công ty
khoá Minh Khai được phân bổ như sau:
- Bộ phận Marketing:
Là bộ phận tham mưu cho ban Giám đốc về tình hình thị trường, giá cả, vật

tư, sản phẩm có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời đề xuất
các phương án có liên quan đến các hoạt đông hỗ trợ trước và sau khi bán hàng.
- Bộ phận kế hoạch:
Là bộ phận giúp ban Giám đốc lập kế hoạch đôn đốc, theo dõi các kế hoạch
sản xuất tiêu thụ ngắn và dài hạn. Ngoài ra còn thu nhận các thông tin từ các bộ
phận để kịp thời kiểm tra và chỉnh lý các kế hoạch của Công ty, đồng thời thực
hiện các công việc đột xuất khi cần.
- Bộ phận kỹ thuật:
18

Xây dựng các định mức kinh tế -kỹ thuật đồng thời nghiên cứu và lập ra
các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Ngoài ra còn phải thiết kế khuôn mẫu, bản
vẽ thiết kế, nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Hơn nữa còn phải xác định thời gian bảo trì sửa chữa đại tu máy móc sản xuất.
- Bộ phận KCS:
Kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập vào kho của Công ty theo
tiêu chuẩn phòng kỹ thuật đề ra.
- Bộ phận cung tiêu:
Cùng phòng kế hoạch xây dựng các phương án đảm bảo cung ứng đầy đủ
và kịp thời các thông tin cần thiết để cân đối giữa vật tư, lao động và máy móc
thiết bị, đồng thời kết hợp với phòng kế hoạch để có phương án tiêu thụ sản
phẩm hợp lý với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty
- Bộ phận tài vụ:
Giúp Giám đốc về quản lý tài chính, kế toàn thống kê thực hiện hạch toán
sản xuất kinh doanh, thanh quyết toán với khách hàng và Nhà nước. Ngoài ra
còn làm nhiệm vụ tính bảo hiểm và thuế.
- Bộ phận tổ chức, lao động tiền lương.
Tham mưu cho Giám đốc về việc sắp xếp, bố trí lao động trong Công ty về
số lượng, trình độ nghiệp vụ, tay nghề từng phòng ban, phân xưởng. Kiểm tra
định mức đơn giá và giải quyết các chế độ chính sách cho người lao động.

- Bộ phận hành chính:
Giải quyết các hoạt động hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh toàn
Công ty về mặt hành chính.
- Bộ phận cơ khí:
Có nhiệm vụ tạo phôi ban đầu như: dập đinh ra các khuôn mẫu (phôi, ke,
khoá) hay đúc tay nằm nhón đồng thoi để tiện lõi khoá. Nếu bộ phận giản đơn
thì bộ phận có thể hoàn chỉnh như bản lề, chốt cửa. Ngoài ra, phân xưởng cơ khí
còn làm theo đơn đặt hàng như: giàn giáo, cửa xếp, cửa hoa. Với số công nhân
19

không lớn trong phân xưởng nhưng đây là đơn vị mạnh nhất tạo ra giá trị sản
lượng lớn nhất trong Công ty.
- Bộ phận cơ điện:
Chịu trách nhiệm sửa chữa thường xuyên, trùng tu máy móc, thiết bị trong
Công ty cả phần cơ và phần điện. Phân xưởng này đảm bảo cho các phân xưởng
khác làm việc liên tục không bị gián đoạn bởi máy móc, thiết bi hay đường điện.
Phân xưởng còn chịu trách nhiệm chế tạo khuôn mẫu ke, bản lề khoá. Đây là
nhiệm vụ khá quan trọng và phức tạp đòi hỏi độ chính xác để đảm bảo khi đúc
chi tiết khoá có thể khớp nhau được.
- Bộ phận lắp ráp:
Có nhiệm vụ lắp ráp toàn bộ các loại khoá từ các bộ phận, chi tiết thành
phẩm hoàn chỉnh.
- Bộ phận mạ:
Mạ quai khoá, ke bản lề, chốt cửa. Công nghệ mạ đòi hỏi phải có kỹ thuật
cao và theo quy trình công nghệ nghiêm ngặt để đảm bảo sản phẩm mạ có độ
bền và độ bóng cao.
Các phân xưởng này chịu sự điều khiển của quản đốc phân xưởng và Phó
giám đốc kỹ thuật chỉ đạo trực tiếp.
Loại hình sản xuất của Công ty là kiểu chế biến liên tục, quy mô sản xuất
thuộc loại vừa, sản phẩm có thể tạo ra cùng trên một quy trình sản xuất theo

cùng một phương pháp công nghệ song giữa các loại, các thứ thành phẩm có
những đặc tính khác nhau về kích cỡ, yêu cầu kỹ thuật cả về mặt mỹ thuật.
Trang bị kỹ thuật của Công ty chủ yếu là những máy móc cũ được Ba Lan trang
bị từ khi mới thành lập: máy tiện, máy đập, máy bào. Cùng với sự tăng trưởng
kinh tế Công ty đã trang bị thêm một số máy móc, sửa chữa một số máy móc cũ
cho phù hợp với yêu cầu tạo ra sản phẩm mới.
20

2.2. Lao động
Trong những năm gần đây trước sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị
trường, để có thể đáp ứng được tình hình sản xuất kinh doanh, Công ty khoá
Minh Khai đã tiến hành sắp xếp và bố trí lại đội ngũ lao động, nhằm tạo ra được
một đội ngũ lao động không những giỏi một nghề mà còn biết được nhiều nghề,
đồng thời tạo ra một sự thay đổi linh hoạt trong sản xuất kinh doanh để có thể
đáp ứng được mọi yêu cầu của thị trường. Để làm được điều này hàng năm
Công ty đã cho công nhân đi đào tạo thêm hay tổ chức các khoá thi nâng bậc với
mục đích là nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Hơn thế, với những người có
tài và tâm huyết với nghề nghiệp đươc nhà máy kịp thời phát hiện và cho đi
đào tạo thêm để trở thành cán bộ nòng cốt của Công ty. Nhờ vậy, trong những
năm qua hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã có những nét thay đổi rõ
rệt.
Bảng số 1: Cơ cấu và chất lượng đội ngũ lao động
(Nguồn: Thống kê lao động Phòng kế hoạch năm 2001)
Danh mục Đơn vị Tổng số %
Tổng số lao động có trong danh sách
Người 340 100
- Số lao động nữ Người 160
- Số lao động nam Người 180
I. Số lao động có trình độ
Chuyên môn kỹ thuật

+ Có trình độ từ đại học, cao đẳng trở lên
- Lao động nam 41 12,06
- Lao động nữ 15 4,41
+ Có trình độ trung học chuyên nghiệp 27 7,94
- Lao động nam 17 5,24
- Lao động nữ 10 2,7
+ Công nhân kỹ thuật 272 80
- Lao động nam 146 42,94
- Lao động nữ 126 37,06
II. Lao động trực tiếp
1. Trình độ
- Bậc nghề 1/7 48 14,12
21

- Bậc nghề 2/7 67 19,70
- Bậc nghề 3/7 47 13,82
- Bậc nghề 4/7 37 10,88
- Bậc nghề 5/7 55 16,18
- Bậc nghề 6/7 14 4,12
- Bậc nghề 7/7 4 1,18
2. Số lao động trong các ngành nghề
+ Công nhân xây dựng 6 1,76
- Lao động nữ 3 0,88
- Lao động nam 3 0,88
+ Công nhân lắp máy 0
+ Công nhân cơ khí 261 76,76
- Lao động nữ 135 39,7
- Lao động nam 126 37,06
+ Công nhân kỹ thuật khác 0
+ Lao động phổ thông 5

- Lao động nữ 5 1,47
- Lao động nam 0 0
III. Số lao động trong các ngành
Lao động gián tiếp
1. Lãnh đạo quản lý 19 5,59
- Lao động nữ 5 1,47
- Lao động nam 14 4,12
2. Làm công tác KH-KT 15 4,41
- Lao động nữ 0 0
- Lao động nam 15 4,41
3. Làm công tác chuyên môn 4 1,18
- Lao động nữ 4 1,18
- Lao động nam 0 0
4. Làm công tác nghiệp vụ 18 5,29
- Lao động nữ 13 3,82
- Lao động nam 5 1,47
5. Làm công tác hành chính 8 2,35
- Lao động nữ 1 0,29
- Lao động nam 7 2,06
6. Làm công tác khác 4 1,18
- Lao động nữ 3 0,88
- Lao động nam 1 0,29
V. Chia lao động theo nhóm tuổi
340 100
- Từ 40 tuổi trở xuống 277 72,65
- Từ 41 tuổi – 50 tuổi 79 23,23
22

- Từ 51 tuổi trở lên 14 4,12
3. Máy móc thiết bị và quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm

3.1. Máy móc thiết bị.
Công ty khoá Minh Khai thành lập được tương đối lâu, máy móc thiết bị
của Công ty được nhập từ nhiều nước như Liên Xô cũ, Tiệp Khắc, Ba Lan,
Trung Quốc. Các loại máy móc của Công ty tương đối lạc hậu, đã trải qua thời
gian sử dụng tương đối dài, có thiết bị đã bị khấu hao hết từ lâu nhưng vẫn còn
được sử dụng do đó đã gây ô nhiễm môi trường xung quanh và làm ảnh hưởng
tới sức khoẻ của công nhân.
Việc nâng cao chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào đổi mới trang
thiết bị máy móc. Qua bảng kê máy móc thiết bị dưới đây, chúng ta sẽ hiểu kỹ
hơn về tình hình máy móc thiết bị của Công ty khoá Minh Khai.
Biểu số 2: Biểu kê các máy móc, thiết bị của Công ty
(Nguồn: Phòng kế hoạch năm 2000)
Stt Tên máy móc thiết bị
Nước sản
xuất
Công suất
thiết kế
Năm sử
dụng
Tình trạng
23

1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
11
12
13
14
Máy phay FHJ-9
Máy xọc 7a-420
Máy khoan bàn KDS-360
Khoan đứng WKA-40
Máy mài một đầu BBT-
350
Máy khoan đứng 2a-125T
Búa máy 160 Kg
Máy tiện T6M16
Máy cuốn lò xo
Bể mạ NIKEN (nhựa)
Máy cưa cầu 85-72
Máy bơm lọc
Máy TAZO Z51-2
Khoan bàn Z51-2
Tiệp
Liên Xô
Nhật
Ba Lan
Tiệp
Liên Xô
Bungary
Việt Nam
Việt Nam

Việt Nam
Liên Xô
Hungary
Ba Lan
Trung Quốc
2,5 KW
1,5 KW
0,3 KW
4,67 KW
3 KW
3 KW
1000 lít
1,5 KW
0,2 KW
0,4 KW
1993
1996
1995
1974
1990
1996
1994
1987
1990
1995
1996
1995
1974
1988
Đang sử dụng

Đang sử dụng
Đang sử dụng
Hỏng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
Đang sử dụng
3.2. Về quy trình công nghệ
Hầu hết các quy trình công nghệ sản xuất ở Công ty khoá Minh Khai trước
đây là đơn giản, quá trình sản xuất sản phẩm phải trải qua các phân xưởng.
Nhưng do bố trí hợp lý giữa các phân xưởng nên công tác tổ chức sản xuất và
quản lý chất lượng sản phẩm tương đối thuận tiện.
Phôi tiện, chi tiết bán thành phẩm gia công thuê ngoài được nhập vào kho
vật tư, từ kho vật tư xuất phôi tiện, các chi tiết bán thành phẩm xuống phân
xưởng cơ khí, sau khi gia công xong được nhập vào kho thành phẩm nếu sản
phẩm đó xuất bán. Cũng ở công đoạn này, sản phẩm nào bị hỏng thì được nhập
lại kho vật tư. Từ kho bán thành phẩm được xuất xuống phân xưởng mạ, phân
xưởng lắp ráp. Số sản phẩm ở phân xưởng mạ được nhập vào kho chi tiết hoàn
chỉnh và từ kho chi tiết hoàn chỉnh xuống phân xưởng lắp ráp hoàn chỉnh rồi
được nhập vào kho thành phẩm xuất bán.
Quy trình công nghệ sản xuất khoá của Công ty được tóm tắt theo sơ đồ
sau:
24


Sơ đồ 2: Quy trình sản xuất khoá của Công ty khoá Minh Khai
4. Về nguyên vật liệu chính mà Công ty đã và đang sử dụng.
Trong thời kỳ bao cấp, Công ty được cung cấp nguyên vật liệu theo chỉ
tiêu, sản xuất sản phẩm ra được phân bố tiêu thụ theo kế hoạch Nhà nước. Do
vậy mà nguyên liệu sản xuất của Công ty không đồng bộ, không liên tục và
không hợp lý, chẳng hạn có lúc nguyên liệu có trong kho rất nhiều, có lúc lại
không đủ để sản xuất Sản phẩm của Công ty trong thời kỳ này chưa có đối thủ
cạnh tranh, hơn nữa được Nhà nước giao kế hoạch tiêu thụ nên mặc dù sản
phẩm

×