Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.13 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN ĐẮC LÝ




NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN
NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ XÃ HỘI LÝ
TƯỞNG

Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60.22.80


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Thanh Bình








HÀ NỘI - 2008



1
MỤC LỤC
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn. 8
6. Đóng góp của Luận văn. 8
7. Ý nghĩa của Luận văn. 9
8. Kết cấu của Luận văn: 9
NỘI DUNG 10
Chương 1. 10
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHỦ YẾU CHO SỰ HÌNH THÀNH
QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ XÃ HỘI LÝ TƯỞNG. 10
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc với sự hình thành và phát triển
quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. 10
1.2. Những tiền đề tư tưởng, văn hóa với sự ra đời quan niệm của Nho giáo về xã hội lý
tưởng. 19
Chương 2 29
QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ XÃ HỘI LÝ TƯỞNG 29
2.1. Những đặc trưng cơ bản của xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo. 29
2.2. Mẫu người lý tưởng trong xã hội lý tưởng theo quan niệm của Nho giáo 48
2.3. Phương thức tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng 61
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89










2
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Nho giáo hình thành ở Trung Quốc và du nhập vào Việt Nam cách đây
hàng ngàn năm. Từ khi hình thành chế độ phong kiến Việt Nam, đặc biệt từ thế
kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam đều sử dụng
Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng và là công cụ để trị nước và quản lý xã hội,
đều vận dụng quan niệm của Nho giáo về mô hình xã hội lý tưởng để kiến lập
và phát triển xã hội phong kiến Việt Nam về mọi mặt. Đồng thời, với tư cách là
một trong những hình thái ý thức xã hội, Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều mặt,
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam, là một trong những
yếu tố căn bản góp phần hình thành và tác động sâu sắc đến văn hóa truyền
thống Việt Nam.
Ngày nay, nhân loại đang bước vào nền văn minh công nghệ với những
biến đổi sâu sắc, xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở rộng, v.v. Nước ta đang tiến
hành xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
có sự quản lý của nhà nước. Ở nước ta hiện nay, tuy cơ sở kinh tế - xã hội của
Nho giáo về cơ bản không còn tồn tại, nhưng Nho giáo không phải đã mất đi,
mà nó còn tồn tại dai dẳng, lâu dài và tác động tích cực và cả tiêu cực đến nhiều
mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam. Vì vậy, vấn đề
có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cấp thiết là, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã

hội, đưa nước ta trở thành một nước “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” thì không thể không giải quyết mối quan hệ biện chứng
giữa xã hội truyền thống và xã hội hiện đại, giữa con người truyền thống và con
người hiện đại Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy thì trước hết, cần phải có
một cái nhìn khách quan, toàn diện, đúng đắn về Nho giáo và cũng để từ đó mà
hiểu đúng về Nho giáo.
Trong học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, quan niệm về xã hội lý
tưởng không chỉ là một trong những nội dung cơ bản nhất mà còn là sự biểu

3
hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất trong học thuyết này. Từ trước đến nay, trong
nghiên cứu về Nho giáo nói chung và quan niệm của Nho giáo về xã hội lý
tưởng nói riêng vẫn chưa đi đến thống nhất, mà còn có nhiều ý kiến khác nhau,
thậm chí còn có những nhận định trái chiều nhau. Ngoài ra do, quan niệm về xã
hội lý tưởng của các nhà Nho được trình bày đan xen với nhiều nội dung khác,
cho nên trong những nghiên cứu này, nội dung của quan niệm ấy chưa được
nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống. Vì vậy theo chúng tôi, nghiên
cứu những nội dung cơ bản của Nho giáo về xã hội lý tưởng trong điều kiện
hiện nay không chỉ đơn thuần là để hiểu biết thêm về Nho giáo mà điều quan
trọng là có cái nhìn đúng về Nho giáo; không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những
hạn chế của nó mà còn vạch ra để tiếp thu, phát triển và vận dụng những giá trị
tích cực của Nho giáo trong việc thực hiện những nhiệm vụ và mục đích của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, dưới góc độ tiếp
cận triết học, sự cần thiết phải nghiên cứu và trình bày quan niệm của Nho giáo
về xã hội lý tưởng một cách có hệ thống và trên cơ sở đó, mà chỉ ra và phân
tích những đặc trưng cơ bản của xã hội lý tưởng theo quan niệm của Nho giáo.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi cho rằng, cần phải tiếp tục
nghiên cứu những nội dung cơ bản cùng những giá trị và hạn chế trong quan
niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng trong luận văn này. Vì vậy, chúng tôi lựa
chọn vấn đề: “Những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội

lý tưởng” làm đề tài nghiên cứu của Luận văn thạc sĩ Triết học này, với hy vọng
làm sáng tỏ thêm những tiền đề, điều kiện dẫn đến sự hình thành quan điểm của
Nho giáo về xã hội lý tưởng và một nội dung cơ bản của Nho giáo về xã hội lý
tưởng, qua đó có căn cứ để vạch ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan
niệm ấy.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Nho giáo đã du nhập và phát triển ở Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch
sử, nó đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Việt Nam, là công cụ quan

4
trọng trong việc cai trị, quản lý xã hội của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam.
Vì vậy, việc nghiên cứu Nho giáo và vai trò, ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt
Nam là một vấn đề thu hút nhiều người quan tâm. Từ trước cho đến nay, liên
quan đến đề tài, việc nghiên cứu Nho giáo nói chung và quan niệm của Nho
giáo về xã hội lý tưởng nói riêng có thể khái quát thành hai hướng chính:
- Hướng nghiên cứu thứ nhất: Nghiên cứu Nho giáo là để hiểu đúng về
Nho giáo, thấy được những giá trị tích cực và những hạn chế tiêu cực của Nho
giáo và nhất là vai trò, ảnh hưởng của nó đối với xã hội và con người Việt Nam.
Hướng nghiên cứu này thu hút được nhiều người quan tâm và được nghiên cứu
ở nhiều góc độ khác nhau. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các công
trình nghiên cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đăng Thục,
Đào Duy Anh, Quang Đạm, Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Phan Ngọc, Nguyễn Tài
Thư, Lê Sỹ Thắng, Trần Đình Hượu, Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Trần Ngọc
Vương, Vũ Minh Tâm, Lê Văn Quán, Trần Nguyên Việt,…v.v.
Trong các công trình nghiên cứu này, trước hết phải kể đến các công trình
nghiên cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, v.v. Các ông nghiên cứu Nho
giáo qua lăng kính của nhà nho và với sự tôn sùng Nho giáo, cho nên họ đều
nhìn thấy Nho giáo không chỉ là một học thuyết chính trị - xã hội mà còn là học
thuyết đạo đức học, học thuyết triết học. Các ông đặc biệt đề cao vai trò của
Nho giáo trong xây dựng và hoàn thiện đạo đức của con người và xã hội; coi

việc tu thân là cái gốc của tề gia, trị quốc, bình thiên hạ…v.v.
Sau khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam, sự tiếp cận
Nho giáo được nghiên cứu dưới lăng kính mới, với một thái độ khách quan,
khoa học và biện chứng. Các công trình nghiên cứu của các tác giả này đã phân
tích một cách khá toàn diện và sâu sắc tư tưởng Nho giáo. Chẳng hạn, trong
Nho giáo xưa và nay, tác giả Quang Đạm cho rằng, Nho giáo có cả mặt tích cực
và mặt tiêu cực. Việc vạch ra mặt hạn chế, tiêu cực của Nho giáo, theo tác giả là
cần thiết nhưng không phải là để “truy tố, bắt đền” nó mà để “Nhìn rõ và loại

5
trừ tận gốc một cách khách quan và khoa học những hậu quả cụ thể của nó trong
hệ tư tưởng và trong cuộc sống xã hội chúng ta ngày nay”, cũng không phải để “
truy tặng, khen thưởng” nó, mà là để “giữ gìn và phát huy nhằm thúc đẩy sự
nghiệp chúng ta tiến lên”. Tập thể tác giả (mà Vũ Khiêu là chủ biên) của công
trình Nho giáo xưa và nay đã tập trung nghiên cứu hàng loạt vấn đề như: Sự ra
đời và phát triển của Nho giáo; Mối quan hệ giữa Nho giáo với kinh tế, xã hội,
giáo dục, văn hóa; Hồ Chí Minh và Nho giáo; Tình hình Nho giáo ở một số
nước châu Á; Những hạn chế cũng như những giá trị mà Nho giáo mang lại cho
các nước châu Á. Tác giả Phan Ngọc, trong Bản sắc văn hóa Việt Nam, từ việc
đề cập đến các vấn đề cơ bản của Nho giáo, Nho học và Đạo giáo đã đi đến
khẳng định, Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa truyền thống Việt Nam
cũng như đời sống hiện thực của con người Việt Nam hiện nay. Không dừng lại
ở đó, một số công trình nghiên cứu của các tác giả như: Nguyễn Tài Thư, Trần
Đình Hượu, Trần Văn Giàu, Vũ Minh Tâm, Trần Nguyên Việt, Đỗ Thị Hòa
Hới, Nguyễn Thanh Bình,…v.v đều khẳng định ảnh hưởng của Nho giáo đến xã
hội con người Việt Nam trong lịch sự và hiện nay là hết sức sâu sắc, đa diện, đa
chiều, ….
Hiện nay, một trong những vấn đề được quan tâm sâu sắc chính là tiếp
tục bổ sung và cụ thể hóa những căn nguyên, cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng. Với bài viết Bước

đầu tìm hiểu Bác Hồ với học thuyết của Nho gia, tác giả Lê Văn Quán đã đưa ra
những dẫn chứng để chứng minh học thuyết Nho gia đã ảnh hưởng đến Bác Hồ
như thế nào. Bác đã khẳng định cần phải kế thừa, phát huy những điểm tích cực
của Nho gia và nhấn mạnh giáo dục, cần phải kết hợp giữa học với hành; người
cách mạng phải hội đủ 5 điều: trí – tín – nhân – dũng – liêm. Và tác giả cũng chỉ
ra rằng, trên thực tế, Bác đã kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố Nho giáo với truyền
thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc: nhân, nghĩa, trí, tín, dũng, trung, cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Cũng tác giả Lê Văn Quán, với bài viết Bác Hồ với

6
học thuyết Nho giáo đã khẳng định, Hồ Chí Minh là người rất am hiểu Nho giáo
và vận dụng một cách tài tình những tinh hoa của Nho giáo vào điều kiện cách
mạng nước ta. Người vận dụng Nho giáo trong việc rèn luyện đạo đức cách
mạng, trong việc phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ đồng thời phản đối chế
độ đẳng cấp Nho giáo. Hay như tác giả Nguyễn Văn Hồng với bài viết Ảnh
hưởng của văn hóa Khổng giáo Trung Hoa qua sự tiếp nhận chọn lọc, sáng
tạo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, qua phân tích đã đi đến khẳng định,
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, Người đã chọn lọc
những tinh hoa từ những chuẩn mực đạo đức Nho giáo và vận dụng một cách
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam….vv. Ngoài ra, nghiên cứu
vấn đề này, còn có nhiều tác giả khác như tác giả Phan Văn Hoàng với bài viết
Chủ tịch Hồ Chí Minh với những yếu tố tích cực của Nho giáo; tác giả Minh
Anh với bài viết Hồ Chí Minh với Nho giáo; tác giả Kiều Thu Hoạch với bài
viết Hồ Chí Minh với di sản Nho giáo; tác giả Lê Ngọc Tân với bài Hồ Chí
Minh và tư tưởng Khổng giáo; …v.v.
- Hướng nghiên cứu thứ hai: Nghiên cứu Nho giáo chỉ chủ yếu là nhằm
vạch ra những hạn chế tiêu cực của Nho giáo, để từ đó và chủ yếu là nhằm bài
xích Nho giáo, coi Nho giáo là vô dụng, là có hại, không phù hợp với thời đại
khoa học và dân chủ. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các công trình nghiên
cứu của Vi Chính Thông, Trần Độc Tú, Trần Khuê, Nguyễn Thị Thanh Xuân,

Mai Trung Hậu,…v.v. Các tác giả này đã từ những yếu tố, tính chất tiêu cực và
hạn chế của Nho giáo để bảo vệ quan điểm của mình rằng, Nho giáo là có hại,
nó không có giá trị đối với văn hóa truyền thống và hiện nay ở Trung Quốc và
Việt Nam. Chẳng hạn, theo như tác giả Mai Trung Hậu thì, “Nho giáo về cơ bản
mâu thuẫn với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam”; hay như một ý kiến
khác của tác giả Hà Thúc Minh cho rằng, ngay khi hình thành, “Nho giáo cũng
không phải là động lực phát triển kinh tế, thì ngày nay đối với nền kinh tế thị
trường càng khó có thể coi Nho giáo là một động lực phát triển kinh tế” vì theo

7
tác giả, “Nội dung giảng dạy chủ yếu của Nho giáo là lễ giáo, đạo đức chứ
không phải là sản xuất, khoa học, kinh tế”. Rõ ràng, những quan điểm trên chủ
yếu là phủ nhận vai trò và ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội Việt Nam trước
kia, đặc biệt là trong thời đại hiện nay. Do vậy mà, những ý kiến này là siêu
hình, không có sức thuyết phục và không có được sự đồng thuận cao trong giới
nghiên cứu Nho giáo.
Sự trình bày trên đây càng cho thấy, nghiên cứu, đánh giá về Nho giáo và
ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội và con người Việt Nam là một vấn đề
hết sức phức tạp, đòi hỏi cần phải nghiên cứu và làm rõ thêm.
Cũng trong hướng nghiên cứu thứ nhất, nghiên cứu quan niệm của Nho
giáo về xã hội lý tưởng là một vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong
các công trình nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề này, phải kể đến các tác giả
Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Hiến Lê, Phạm Văn Khoái, Nguyễn Thanh
Bình,…v.v. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về xã hội lý
tưởng chỉ dừng lại ở các bài báo đăng trên các tạp chí, hay được nghiên cứu
trong tổng thể học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, trong tổng thể tư
tưởng của một số nhà Nho tiêu biểu ở Trung Quốc và Việt Nam. Cho nên trong
những công trình này, các tác giả cũng mới chỉ ra những nét khái quát nhất mô
hình xã hội lý tưởng của Nho giáo và những đặc trưng cơ bản của xã hội lý
tưởng trong quan niệm của Nho giáo mà thôi. Tiếp tục hướng nghiên cứu quan

niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo, từ góc độ nghiên cứu triết học, chúng tôi
nhận thấy rằng, cần phải nghiên cứu, làm rõ thêm về nội dung, dù chỉ là những
nội dung cơ bản trong quan niệm này của Nho giáo một cách có hệ thống để từ
đó có cơ sở chỉ ra những giá trị và hạn chế chủ yếu của nó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích của Luận văn là: Xuất phát từ Lý do chọn đề tài và Tình hình
nghiên cứu liên quan đến đề tài, thông qua nghiên cứu những tiền đề, điều kiện
và những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng để

8
chỉ ra những giá trị, hạn chế chủ yếu của nó và từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong
việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ của Luận văn là: Để đạt được mục đích trên, Luận văn tập
trung làm rõ những nội dung chủ yếu sau:
- Những điều kiện, tiền đề chủ yếu cho sự hình thành và phát triển quan
điểm của Nho giáo về xã hội lý tưởng;
- Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong quan niệm
của Nho giáo về xã hội lý tưởng;
- Chỉ ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan niệm trên của
Nho giáo.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
. Cơ sở lý luận của Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của triết học
Mác - Lênin về xã hội và con người.
. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp
biện chứng duy vật của Triết học Mác – Lênin kết hợp với một số phương pháp
nghiên cứu khoa học khác, như phương pháp lôgic và lịch sử; phương pháp
phân tích - tổng hợp; phương pháp đối chiếu – so sánh.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn.
. Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng
. Phạm vi nghiên cứu:

- Một số tác phẩm của Nho giáo, chủ yếu là Tứ thư, Ngũ kinh;
- Các tác phẩm và các công trình nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo
Việt Nam.
6. Đóng góp của Luận văn.
Luận văn trình bày có hệ thống những nội dung chủ yếu trong quan niệm
của Nho giáo về xã hội lý tưởng.



9
7. Ý nghĩa của Luận văn.
Từ góc độ triết học, Luận văn bước đầu làm sáng tỏ và trình bày có hệ
thống những tiền đề, điều kiện ra đời và những nội dung cơ bản trong quan
niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc gảng dạy, nghiên cứu
và học tập về Nho giáo nói chung và quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tưởng
nói riêng.
8. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
của Luận văn gồm 2 chương với 5 tiết.
Chương 1. Những điều kiện và tiền đề chủ yếu cho sự hình thành quan
niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng, với 2 tiết.
Chương 2. Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng, với 3 tiết.

10
NỘI DUNG
Chương 1.
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHỦ YẾU CHO SỰ HÌNH THÀNH
QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ XÃ HỘI LÝ TƯỞNG.
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc với sự

hình thành và phát triển quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng.
Theo nhiều tài liệu sử học Trung Quốc, khoảng hơn 2000 năm tr.CN
(2205 -1766), nhà Hạ - nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên ở Trung Quốc đã
xuất hiện. Trải qua quá trình phát triển, đến thế kỷ thứ XVIII tr.CN, Thành
Thang - người đứng đầu nhà Thương đã lật đổ vua Kiệt nhà Hạ, lập nên nhà
Thương và đặt kinh đô ở đất Bạc, tỉnh Hà Nam ngày nay. Đến thế kỷ XIV
tr.CN, vua Bàn Canh – nhà Thương đã dời đô đến đất Ân nên đổi tên thành nhà
Ân. Rồi đến khoảng thế kỷ thứ XII tr.CN, bộ tộc Chu nổi lên ở khu vực sông Vị
thuộc tỉnh Thiểm Tây, ra sức phát triển nông nghiệp và chinh phục các bộ tộc
lân cận, chuẩn bị thế lực lật đổ nhà Thương. Hệ quả là, đến thế kỷ thứ XI tr.CN,
Chu Vũ Vương con của Chu Văn Vương đã diệt vua Trụ nhà Thương, lập ra
nhà Chu ở phía Tây – gọi là nhà Tây Chu, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ lên lên
giai đoạn phát triển cao hơn.
Dưới thời nhà Tây Chu, vua nhà Chu tự phong là “Thiên tử”, là lãnh chúa
tối cao thống trị toàn bộ đất đai và thần dân trong thiên hạ. Để biểu đạt uy quyền
của thiên tử nhà Chu, trong sách Đại cương Lịch sử triết học phương Đông cổ
đại có dẫn lời của người xưa: “Dưới bầu trời không có chỗ nào không phải là
đất nhà vua, khắp mặt đất không người nào không là tôi nhà vua” [6, tr.164].
Như vậy có thể thấy, ở thời Tây Chu, quyền lực của “Thiên tử” là tối cao, là vô
hạn, “Lễ, nhạc, chinh phạt tự Thiên tử xuất”. Tuy nhiên, đến khoảng năm 771
tr.CN, khi Chu Bình Vương dời đô về phía Đông thì nhà Chu suy yếu, “mệnh
lệnh nhà Chu không ai theo, chế độ tông pháp dần bị phá bỏ, các nước chư hầu
phân dã đến khoảng 160 nước. Nhà Chu không còn khống chế được các vua chư

11
hầu. Đây là thời điểm mở đầu thời Xuân Thu (bắt đầu từ năm 770 đến năm 475
tr.CN). Trung Quốc bước vào thời kỳ giao thời giữa hai chế độ xã hội – giai
đoạn suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ và sơ kỳ chế độ phong kiến đang
lên” [6. tr164 – 165].
Nho giáo, như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, về cơ bản là học

thuyết chính trị - xã hội và đạo đức ra đời từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc (770
– 221 tr.CN), thời kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ và hình thành chế độ
phong kiến sơ kỳ. Để nghiên cứu nội dung, tính chất và những giá trị hạn chế
của một học thuyết chính trị - xã hội nào đó, nhất thiết phải dựa trên một cơ sở
lí luận và phương pháp luận khoa học. Theo triết học Mác – Lênin, con người
và ý thức của con người tuy có thể tác động vào xã hội, vào tồn tại xã hội nhưng
ý thức, tư tưởng của con người lại do cái xã hội, cái tồn tại xã hội ấy quy định.
Như sách Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc đã dẫn lời của C.Mác: “Không
phải ý thức con người quyết định tồn tại xã hội mà ngược lại, chính tồn tại xã
hội đã quyết định ý thức con người” [69, tr.6]. Cho nên, khi nghiên cứu tư
tưởng của một thời đại nào đó của lịch sử, nếu chúng ta muốn có một kết luận
chính xác, điều quan trọng bậc nhất là phải nắm bắt được tình hình kinh tế và
tình hình chính trị của thời đại ấy; hiểu biết những nét căn bản phương thức sản
xuất của thời đại ấy và những hình thức căn bản của sự phát triển những mâu
thuẫn của thời đại, ở tính đối lập của những mâu thuẫn và tính thống nhất các
mặt đối lập trong thời đại đó. Dựa trên cơ sở lí luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng,
điều quan trọng và có ý nghĩa quyết định là nắm bắt được tình hình kinh tế,
chính trị - xã hội của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc – cơ sở hình thành quan
niệm ấy của Nho giáo về xã hội lí tưởng. Ở thời kỳ này, tình hình kinh tế, chính
trị xã hội biểu hiện tập trung ở những điểm sau:
Thứ nhất: Nền kinh tế có những chuyển biến mạnh mẽ, sức sản xuất có
bước phát triển, do “Công cụ sản xuất, nhất là công cụ bằng đồ sắt đã bắt đầu

12
xuất hiện” với sự ra đời của nhiều công cụ lao động mới, “việc dùng bò kéo cày
trở thành phổ biến” [6, tr.165]. Với sự xuất hiện của công cụ lao động bằng sắt
đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền sản xuất xã hội phát triển – cơ sở của những
sự chuyển biến về kinh tế, chính trị, xã hội thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc. Mô
tả sự xuất hiện của kim loại trong xã hội, sách Quốc ngữ có viết: “Đồng thau để

đúc kiếm kích… sắt dùng để đúc cuốc cào và quả cân” [6, tr.165]. Chính sự
chuyển biến ấy “không chỉ thúc đẩy kỹ thuật luyện sắt phát triển mà còn tạo
điều kiện cho việc khai khẩn đất hoang, phát triển kỹ thuật canh tác, “dẫn thủy
nhập điền”, góp phần nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp” [6,
tr.165] mà còn tạo điều kiện cho các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa đều phát
triển, “đặc biệt là sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hóa trong các nước chư
hầu Tề, Trịnh, …” [69, tr.39]. Cũng chính nhờ vào sự chuyển biến của công cụ
lao động mà làm cho các nước chư hầu như Tề, Trịnh có sự phát triển vượt bậc
hơn hẳn so với nhà Chu. “Trường hợp nhà họ Quý, một gia thần ở nước Lỗ
được đánh giá là “giàu hơn Chu Công, ông tổ của nước Lỗ, đã phần nào minh
chứng cho tình hình đó” [37, tr.125]. Vì vậy mà qua đó, các nước chư hầu có
thêm điều kiện và cơ hội đua nhau gây chiến để tranh giành quyền lực, tranh
giành địa vị, đất đai với nhà Chu. Và khi các nước chư hầu nhỏ, nhờ vào sự cố
gắng nỗ lực của bản thân mà trở nên phát triển hùng mạnh, thì không có lí do gì
các nước đó lại cam chịu bị các nước khác ở trên thống trị, nô dịch. Vì thế, việc
các nước đó gây chiến tranh nhằm xác lập lại địa vị của mình, phân chia lại bờ
cõi trong thiên hạ cũng là một sự tất yếu. Đây là một nguyên nhân quan trọng
bậc nhất dẫn đến tình trạng xã tắc loạn lạc, tình trạng trong thiên hạ “vua không
ra vua, cha không ra cha, con không ra con” diễn ra phổ biến – một bối cảnh xã
hội quan trọng đưa đến sự nảy sinh, hình thành các học thuyết chính trị - xã hội,
đặc biệt là học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, trong đó có quan niệm của
Nho giáo về xã hội lý tưởng. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, mặc dù đã có
sự phát triển như vậy nhưng đời sống kinh tế, xã hội vẫn phụ thuộc và chịu sự

13
tác động của điều kiện tự nhiên (hạn hán, thiên tại, bão lụt,…v.v.), tình trạng
mất mùa vẫn diễn ra hết sức phổ biến, tình cảnh dân ly tán, tha phương cầu thực
khắp nơi. Vì vậy, một vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn được đặt ra là,
muốn đưa xã hội từ tình trạng loạn lạc trở thành một xã hội có trật tự thì, “Vua
phải theo đúng đạo làm vua, tôi phải theo đúng đạo làm tôi, cha phải theo đúng

đạo làm cha, con phải theo đúng đạo làm con”. Nhưng để đạt được mục đích
này thì một trong những yêu cầu chủ yếu là, “Thiên tử”, các vua chư hầu, các
quan đại phu phải thi hành đúng “Đạo”, đúng “Lễ” của nhà Chu, phải xây dựng
một xã hội thái bình, thịnh trị. Và theo nhà Nho, xã hội ấy là xã hội Đại đồng,
xã hội hữu đạo – đó cũng chính là xã hội lý tưởng cần phải được thiết lập, duy
trì. Bởi theo như Khổng Tử thì, “Thiên hạ yên trị thì việc lễ nhạc đều xuất phát
từ thiên tử; thiên hạ vô đạo thì việc lễ nhạc và chinh phạt xuất phát từ các vua
chư hầu. Xuất phát từ chư hầu thì ít khi giữ nổi quá mười đời; xuất phát từ các
quan đại phu ít khi giữ nổi quá năm đời. Các bồi thần nắm giữ quyền chính
trong nước ít ai giữ nổi quá ba đời. Thiên hạ yên trị, việc chính trị không ở trong
tay các quan đại phu. Thiên hạ yên trị thì người dân thường chẳng nghị luận
việc nước” [22, tr.597 -598].
Thứ hai: Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất ra đời là cơ sở cho sự
xuất hiện của các giai cấp và các tầng lớp mới trong xã hội, làm cho các mâu
thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ngày càng mở rộng và gay gắt. Ở Trung
Quốc, thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc, trong cấu trúc các quan hệ thân tộc đã
có những thay đổi căn bản theo xu hướng những liên hệ thân thuộc theo huyết
thống giảm dần, những liên hệ kinh tế trên cơ sở sở hữu ruộng đất tăng lên.
Những chính sách về ruộng đất do những đại diện của phái Pháp gia như Quản
Trọng, Thương Ưởng đưa ra đã dần làm thay đổi các quan hệ về sở hữu ruộng
đất. Theo đề nghị của Quản Trọng, vua Tề Hoàn Công đã áp dụng những mức
thuế khác nhau đối với ruộng đất nhằm làm giảm hiện tượng nông dân bỏ ruộng
đất canh tác, ly tán bốn phương. Đến Thương Ưởng, lối chia ruộng đất bình

14
quân theo chế độ tỉnh điền đã không còn. Những biến đổi về kinh tế tất yếu dẫn
đến những thay đổi về thiết chế xã hội và các quan hệ xã hội. Mâu thuẫn giữa
các tầng lớp trong xã hội trở nên phổ biến: Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc nhà
Chu và giai cấp địa chủ mới với nông dân; Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc cũ,
bảo thủ muốn duy trì chế độ thống trị cũ với một bộ phận quý tộc mới muốn

thực hiện cải cách để duy trì sự thống trị của mình; Mâu thuẫn giữa các phe phái
trong nội bộ quý tộc với nhau muốn tiêu diệt lẫn nhau, tranh giành với nhau
nhằm thiết lập quyền thống trị cho riêng mình. Trong phạm vi xã hội, đó là mâu
thuẫn giữa Thiên tử với các nước chư hầu. Nếu như ở đầu thời Chu (Tây Chu),
Thiên tử có quyền uy tối cao, mọi việc đều do “thiên tử xuất”, “Dưới trời đất đai
nào chẳng là của vua, dân ở trên đất người nào mà chẳng là tôi tớ của vua” , thì
đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, thiên tử nhà Chu không còn giữ vai trò tối cao
như trước, mà giờ đây, nền chính trị lại do các nước chư hầu làm bá chủ và chi
phối. Mâu thuẫn gay gắt trong giới quý tộc đã làm cho xã hội rối ren, trật tự xã
hội bị đảo lộn, tình trạng cướp bóc, tranh giành nhau về địa vị, quyền lực, đất
đai, ….v.v không được khắc phục, ngăn chặn. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử
đã gọi đây là thời đại: quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử (nhà
vua không theo đúng đạo làm vua, bề tôi không theo đúng đạo làm bề tôi, cha
không theo đúng đạo làm cha, con không theo đúng đạo làm con). Mô tả về sự
hỗn loạn đẳng cấp và danh phận, trong thiên Bát dật, sách Luận ngữ, Khổng tử
than rằng, “Các nước kém mở mang còn có vua, không hề giống như các nước ở
Trung hoa (cứ như thể) không vua” [22, tr.241].
Sở dĩ có tình trạng mâu thuẫn như trên cũng xuất phát từ sự phát triển của
sản xuất. Bên cạnh sự phát triển của các nước chư hầu như Tề, Trịnh thì đối lập
lại với nó là sự suy vi của nhà Tây Chu. Vì thế một mặt, dẫn đến tình trạng hình
thành sự lớn mạnh và thôn tính lẫn nhau của các lãnh chúa địa phương; mặt
khác, thiên tử, tên lãnh chúa cao nhất dần dần giảm mất địa vị và vai trò thống
trị thiên hạ. Phản ánh sự suy vong của nhà Tây Chu, trong sách Kinh Thi có nói:

15
“Đến lúc đạo vua đã suy vi, lễ nghi bị thay đổi, chính giáo bị sút kém. Chính trị
trong nước đã đổi khác, phong tục trong nhà cũng đổi khác, do đó mới có những
biến phong, biến nhã” (Biến phong, biến nhã- những bài nói lên sự suy vong
của chế độ) [69, tr.39]. Phản ánh tình trạng rối loạn xã hội, nhất là tình hình
chính trị rối ren, xã hội thối nát, sách Kinh Thi có viết: “Nhân hữu thổ điền, Nhữ

phản hữu chi! Nhân hữu nhân dân, Nhữ phúc đoạt chi! Thử nghi vô tội, Nhữ
phản thu chi! Bản nghi hữu tội, Nhữ phúc duyệt chi”, nghĩa là “Người ta có
ruộng đất, Mày lại chiếm lấy! Người ta có người, Mày lại cướp mất! Người này
đáng vô tội, Mày lại bắt giam! Kẻ kia đáng có tội, thì mày lại ưa” [62, tr. 63].
Tiếp nữa, phản ánh thời đại binh cách loạn ly, xã hội mờ tối, người ta càng sống
thêm ngày nào càng khổ thêm ngày đó, có khi muốn tránh chính sự phiền hà,
mà không sao hóa thành chim, thành cá để tránh cho thoát, tình cảnh ấy, trong
chương Tiểu nhã, sách Kinh Thi đã chép lại rằng: “Phỉ thuần, phỉ diên, Hàn phi
lệ thiên, Phỉ chiên, phỉ vũy, Tiềm đạo vu uyên!”, nghĩa là: “Không phải chim
cút, không phải con diều, là sao mà bay tít lên trời cao được? Không phải cá
chiên, không phải cá vũy, làm sao mà lặn trốn xuống vực sâu được?” [62, tr.
61].
Thứ ba: Các nước chư hầu xâm lấn và thôn tính lẫn nhau, chiến tranh
khốc liệt và kéo dài đã làm cho nhân dân sống trong đau khổ, tình trạng bề tôi
giết vua, con giết cha, anh em giết nhau đã trở thành hiện tượng phổ biến. Cảnh
tượng đánh nhau giành đất, thây chết đầy đất, đánh nhau giành thành, thây chết
đầy thành phản ánh một thời kỳ chiến tranh khốc liệt có một không hai trong
lịch sử Trung Quốc, thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc. Từ năm (722 – 479
tr.CN), nhà Chu sau khi dời đô về phía Đông, các đời vua suy nhược, chư hầu tự
do phóng túng, người xưng Công, kẻ xưng Bá, tranh giành, đánh nhau không
ngớt, trong nước rối loạn, nhân dân hoặc phải làm binh lính, hoặc phải chịu hậu
quả chiến tranh, đời sống của họ thật vô cùng khốn khổ. Đó là thời kỳ của 12
nước chư hầu tranh giành, thôn tính lẫn nhau, trong những nước ấy thì các nước

16
chư hầu như nước Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống là những nước lớn và mạnh hơn cả.
Tuy nhà Chu đã suy, chính lệnh thiên tử không được các nước chư hầu tuân
theo nữa, nhưng ân đức của các tiên vương chưa phai mờ trong suy nghĩ của
con người thời đó nên nhân tâm còn theo. Vì thế mà, “chư hầu nào có mưu
lược, thường lấy cớ “Tôn phò nhà Châu, đánh dẹp giặc rợ” để làm minh chủ sai

khiến thiên hạ” [66, tr.378]. Các nước chư hầu thâu tóm được quyền lực trong
tay, tự xưng hùng, xưng bá, tình trạng đó trong lịch sử Trung Hoa còn được gọi
là thời kỳ Ngũ bá, “đó là Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, Tương
Công nước Tống, Trang Công nước Sở, Mục Công nước Tần” [66, tr.378].
Đến thời Chiến Quốc, các chư hầu đua nhau mở mang bờ cõi, lại chuyên
tâm hưởng lạc, việc chính trị đều giao cho bề tôi, khanh tướng chuyên quyền
nên dẫn tình trạng đoạt ngôi, cướp vị như họ Điền ở nước Tề, sáu quan Khanh ở
nước Tấn. Vì thế mà ở thời kỳ này xuất hiện tình trạng bảy nước đánh nhau liên
miên mà lịch sử gọi thời gian ấy là Chiến Quốc, và bảy nước ấy là Thất hùng.
Chính trong hoàn cảnh lịch sử ấy đã tạo thêm những nhân tố thúc đẩy sự ra đời
của của nhiều tư tưởng, học thuyết.
Như vậy, với sự phát triển kinh tế, những biến đổi trong lĩnh vực chính trị
- xã hội như trên, có thể đi đến một số kết luận về thời kỳ Xuân Thu – Chiến
Quốc. Đó là một xã hội “hỗn loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận; các chư
hầu xâm lấn và thôn tính lẫn nhau; sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp
giữa nông dân và bọn lãnh chúa phong kiến, và địa vị của bọn lãnh chúa phong
kiến lớn bị lung lay; sự rối loạn của những quan hệ tông pháp” [69. tr.84]. Nếu
như thời Tây Chu, vận hành xã hội nhờ lễ nhạc, các quan hệ xã hội cũng được
đánh giá theo tiêu chuẩn lễ nhạc thì đến thời Khổng tử, lễ nhạc đã băng hoại,
chư hầu lẫn át thiên tử, quan đại phu lại giàu có và thế lực mạnh hơn vua chư
hầu.
Trước một thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội như vậy, để duy trì sự tồn
tại và giữ vững được địa vị và uy quyền của mình, các nước đã đua nhau trọng

17
dụng kẻ sỹ. Nhiều nước đã tập hợp kẻ sỹ với số lượng lớn như trong thái ấp của
Mạnh Thường Quân nuôi tới 3000 kẻ sỹ, Tín Lăng Quân ở nước Ngụy, Bình
Nguyên Quân ở nước Triệu có hàng trăm, hàng ngàn kẻ sỹ trong nhà, … Nhờ
phương thức “chiêu hiền, đãi sỹ” này mà các tư tưởng, các học thuyết chính trị -
xã hội được nảy sinh và phát triển. Chính điều này đã tạo ra một giai đoạn đặc

biệt trong lịch sử tư tưởng của Trung Quốc. Người ta gọi đây là thời kỳ “Bách
gia tranh minh” (Trăm nhà đua tiếng) hay “Bách gia chư tử” (Trăm nhà trăm
thầy). Bách gia bao gồm nhiều học phái tiêu biểu: Âm dương gia, Nho gia, Mặc
gia, Danh gia, Pháp gia, Đạo gia, Tung hoành gia, Nông gia, Tạp gia, Binh gia,
Tiểu thuyết gia, …v.v.
Các học thuyết trên đây đều tập trung giải quyết một vấn đề lớn (cũng là
một nhiệm vụ) thực tiễn của xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc đặt
ra là, làm thế nào để đưa đất nước, thiên hạ từ trạng thái rối loạn trở thành thái
bình, thịnh trị ? Mỗi học phái đều bằng cách này hay cách khác đã đưa ra
phương pháp trị nước theo quan điểm và lập trường riêng của mình. Pháp gia
cho rằng, muốn trị nước, đưa đất nước trở nên giàu về kinh tế, mạnh về quân sự
phải dựa vào thuật trị nước và pháp luật. Mặc gia lại khẳng định, muốn nước trị
phải thực hành “kiêm ái” (cùng yêu nhau) không kể sang hèn, giàu nghèo. Bởi
theo họ, nếu các nước chư hầu yêu nhau thì không còn chiến tranh, các gia chủ
yêu nhau thì không còn oán hận, kẻ sang không khinh miệt người hèn, kẻ gian
trá không gạt người đần độn thì loạn sẽ không thể nào có được. Nho giáo thì
chủ trương con đường đức trị vì theo nhà Nho, dùng đức trị thì dân mới tâm
phục, dùng sức mạnh thì mau thắng nhưng không bền,… v.v.
Xét ở góc độ nhất định, một số tư tưởng về đường lối trị nước của các học
thuyết nêu trên đã phát huy được trong thực tiễn và phần nào giúp cho các
vương hầu, quý tộc giữ được địa vị và lẫn át các nước khác. Chẳng hạn như, tư
tưởng dùng pháp luật để trị nước, sự kết hợp Thế - Thuật – Pháp trong đạo trị
nước do Hàn Phi Tử nêu ra và đã được vua Tần ứng dụng thành công, nhờ đó

18
nước Tần đã chinh phục được các nước khác và thống nhất Trung Quốc vào
năm 221 tr.CN, mở ra một thời kỳ lịch sử mới của Trung Quốc thời cổ đại.
Trong số các học thuyết chính trị xã hội ra đời vào thời kỳ Xuân Thu -
Chiến Quốc đáng chú ý là Nho giáo, học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức
tiêu biểu nhất và có ảnh hưởng lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc cũng như

ở nhiều nước khác như Nhật Bản, Singapo, Việt Nam, …
Người có công sáng lập ra và phát triển Nho giáo là Khổng Tử (551 – 479
tr.CN). Ông sinh ở ấp Trâu, thuộc làng Xương Bình nước Lỗ. Tổ tiên trước kia
của ông là người nước Tống, cha là Thúc Lương Ngột. Lương Ngột khi đã quá
tuổi lấy Nhan Thị, hai người cầu tự ở núi Ni Khâu rồi sinh Khổng Tử. Khi còn
nhỏ, Khổng Tử thích chơi trò bày các khay để cúng và chơi trò tế lễ. Khi Khổng
Tử mười bảy tuổi, có quan đại phu là Mạnh Ly Tử ốm sắp chết, dặn người con
cả sẽ thay mình là Ý Tử: “Khổng Khâu là con cháu của bậc thánh nhân, tổ tiên
bị giết ở Tống, người ông sáu đời là Phất Phụ Hà lại được nối ngôi làm vua,
nhưng nhường ngôi cho Lệ Công. Đến thời chính khảo phụ giúp Đái Công, Vũ
Công và Tuyên Công, ba lần được làm thượng khanh nhưng lại càng cung kính
…. Khi ta chết rồi thế nào cũng phải thờ ông ta làm thầy” [58, tr.197]. Như vậy
có thể thấy rằng, Khổng Tử được đánh giá là người thuộc dòng dõi quý tộc đang
trên đà sa sút, học rộng biết nhiều. Sống trong thời kỳ loạn lạc, được tận mắt
chứng kiến cảnh chiến tranh cướp bóc và thêm nữa, xuất phát từ quyền lợi và
địa vị của bản thân thuộc tầng lớp quý tộc đang bị sa sút, Khổng Tử luôn ôm ấp
hoài bão chính trị là xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị theo khuôn mẫu của
thời Tam đại mà tiêu biểu là nhà Tây Chu, coi đó là một chế độ chính trị hợp lí
nhất – một xã hội lí tưởng. Đó là xã hội có đạo đức, có trật tự: Quân quân, thần
thần, phụ phụ, tử tử (Vua theo đúng đạo làm vua, bề tôi theo đúng đạo làm bề
tôi, cha theo đúng đạo làm cha, con theo đúng đạo làm con). Như vậy, một xã
hội lý tưởng theo quan niệm của Khổng Tử là quay lại với mô hình, thiết chế xã
hội thời Tây Chu. Để chứng tỏ cho điều đó, chúng ta có thể thấy qua mấy câu

19
tóm tắt dưới đây của ông trong sách Luận ngữ, rằng : “Nhà Ân dựa theo lễ của
nhà Hạ, có những điều thêm bớt thì cũng có thể biết được; Nhà Chu dựa theo lễ
của nhà Ân có những điều thêm bớt cũng có thể biết được” và “Nhà Chu lấy cả
hai đời Hạ, Ân làm gương nên đạo thịnh vượng thay! Ta theo nhà Chu” [69,
tr.85].

Như vậy là, trước một thực trạng xã hội hỗn loạn về đẳng cấp và danh
phận; các chư hầu xâm lấn và thôn tính lẫn nhau; sự phát triển của những mâu
thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn lãnh chúa phong kiến; sự rối loạn của
những quan hệ tông pháp, trong xã hội Trung Quốc thời Xuân thu – Chiến quốc
và đồng thời, xuất phát từ địa vị thống trị quyền lợi của tầng lớp thống trị ấy,
với tư cách là nhà tư tưởng, Khổng Tử và các nhà Nho sau ông luôn ôm ấp hoài
bão được mang cái trí tuệ của mình xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị - một
xã hội lý tưởng và theo các nhà Nho, xã hội lý tưởng là một xã hội được xây
dựng và duy trì bằng đường lối đức trị. Chỉ bấy nhiêu điều nêu trên cũng có thể
có đủ căn cứ để lí giải cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng
và tại sao xã hội lý tưởng theo mô hình của Nho giáo lại là xã hội được xây
dựng theo đường lối đức trị.
1.2. Những tiền đề tư tưởng, văn hóa với sự ra đời quan niệm của
Nho giáo về xã hội lý tưởng.
Cũng giống như nhiều gia, phái khác, Nho giáo với tư cách là một học
thuyết chính trị - xã hội và đạo đức được ra đời trên cơ sở của hiện thực xã hội
Trung Quốc lúc bấy giời. Chính nhu cầu thực tiễn của thời Xuân Thu – Chiến
Quốc là nguyên nhân cơ bản nhất, trực tiếp nhất cho sự ra đời tư tưởng của Nho
giáo nói chung và quan niệm của Nho giáo về xã hội lí tưởng nói riêng. Tuy
nhiên, nếu như chỉ khẳng định điều kiện kinh tế - xã hội là nguyên nhân duy
nhất cho sự ra đời của Nho giáo thì chưa đủ. Bản thân học thuyết Nho giáo nói
chung và quan niệm về xã hội lý tưởng nói riêng của Nho giáo còn được ra đời

20
và phát triển trên nền tảng văn hóa, tư tưởng đạo đức truyền thống của Trung
Quốc từ trước đến bây giờ.
Ngay từ thời kỳ nhà Hạ, nhà Thương – Ân đến thời kỳ nhà Chu – giai
đoạn hình thành và phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa, thế giới
quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo - duy tâm với các biểu tượng về “Thiên
mệnh”, về ý chí của “Thượng đế” và quỷ thần – được xem là những lực lượng

tinh thần tối cao, chi phối và quyết định sự sinh thành, biến hóa của vũ trụ, đời
sống xã hội và con người. Không những thế, ở đời Thương, Chu còn tồn tại phổ
biến quan niệm duy tâm thần bí rằng, con người có thể thông đạt được với
Thượng đế và quỷ thần; ông vua đương triều cần phải thờ tổ tiên của mình,
trong đó người xa nhất, vị sáng lập ra dòng họ là một vị thần tối cao trên trời -
đó là Đế hay Thượng Đế. Các quan niệm duy tâm tôn giáo này được truyền lại
cho đời sau, nhưng đến thời nhà Chu thì, Thượng Đế dần dần mất tính nhân
hình và riêng tư để trở thành ông Trời (Thiên), và Trời chủ yếu là thế lực che
chở cho dòng họ của hoàng tộc nhưng đồng thời cũng là người phán xử hoàng
tộc.
Để biện hộ cho sự lật đổ nhà Thương, các nhà tư tưởng nhà Chu đã sáng
tạo ra lý thuyết Mệnh trời (Thiên mệnh) và xây dựng ra những điển hình về các
ông vua lí tưởng, hoàn hảo, mẫu mực và những hình tượng mẫu mực ấy, theo họ
là các hình tượng vua Nghiêu, vua Thuấn. Đồng thời, họ gán cho những vị vua
cuối cùng của nhà Thương những đặc tính trái với vị vua mẫu mực thời trước.
Những đặc tính đó là: kiêu ngạo, tàn nhẫn, và cho đó là nguyên nhân khiến nhà
Thương và hoàng tộc của nhà Thương bị hủy diệt. Những tội lỗi này, theo các
nhà tư tưởng nhà Chu, đã khiến cho Trời không ban cho nhà Thương ân huệ là
trị nước, trị dân cũng như không được hưởng nước, hưởng dân nữa, cũng không
xem ông vua đó là những đứa con của trời (Thiên tử) nữa.
Do đó và cũng từ đó, trong tư tưởng truyền thống tôn giáo, chính trị
Trung Hoa trước thời kỳ Khổng Tử đã xuất hiện tư tưởng “Kính thiên” hay

21
“mệnh trời” và tư tưởng “hiếu đễ”. Khi khẳng định như vậy, có thể thấy, có sự
gắn bó chặt chẽ giữa tôn giáo, chính trị và đạo đức trong truyền thống tư tưởng,
văn hóa Trung Hoa với tư tưởng Khổng tử - người có công sáng lập và phát
triển Nho giáo chủ yếu thành một học thuyết chính trị - xã hội.
Trung Quốc vốn là quốc gia đất rộng, người đông, có một nền văn hóa
phát triển sớm và bậc cao ở thời cổ đại. Cùng với Ấn Độ và Hy Lạp, dân tộc

Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại một nền văn minh lớn, là một trong ba
nền văn minh cổ. Theo các nhà nghiên cứu thì, chữ viết ở Trung Hoa xuất hiện
rất sớm, khoảng thế kỷ XIII – XII tr.CN. Đó là chữ “giáp cốt văn” và “kim đỉnh
văn”. Những hiểu biết của người Trung Quốc về các lĩnh vực như thiên văn học,
địa lý, trồng trọt, chăn nuôi, đo lường, làm lịch, thuốc chữa bệnh, xây dựng các
thể chế nghi lễ… khá sâu sắc. Chẳng hạn, trong xã hội Trung Hoa cổ đã có một
số bộ sách về sau được coi là kinh điển của Nho giáo như: Thi, Thư, Lễ, Nhạc,
Dịch.
Những tri thức phong phú kể trên là kết quả của hoạt động thực tiễn lâu
dài mà nhân dân lao động Trung Quốc đúc kết được. Những tri thức này không
những góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất, xã hội phát triển mà còn là tiền đề
cho sự ra đời các học thuyết triết học, chính trị, đạo đức, và tôn giáo ở thời
Xuân Thu – Chiến Quốc, trong đó có Nho giáo. Chính Khổng Tử cũng khẳng
định, ông không có ý định sáng tạo ra một thứ triết học mới, và càng không có ý
định tạo ra một tôn giáo mới, mà chỉ truyền lại những tư tưởng của các hiền triết
ngày xưa trước ông mà thôi. Khổng Tử đã dùng những kinh đó làm tài liệu để
giảng dạy cho đệ tử của mình. Vì vậy có thể thấy một sự kế thừa những tư
tưởng về “kính thiên”, về “thiên mệnh” trong việc hình thành quan niệm của
nhà Nho về xã hội lý tưởng Chẳng hạn như trong thiên Nghiêu viết, sách Luận
ngữ, khi đề cập đến mẫu người lý tưởng trong xã hội lý tưởng – người quân tử,
Khổng tử nói: “Chẳng biết mệnh trời, không lấy gì để làm người quân tử. Chẳng

22
biết lễ, không lấy gì để lập thân. Chẳng phân biệt nổi lời phải trái, không lấy gì
để biết người” [22, tr.690].
Một nhân tố nữa làm tiền đề cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo về xã
hội lí tưởng chính là những truyền thuyết, những huyền thoại cổ xưa về một thời
đại hoàng kim của dân tộc Trung Hoa. Đó là huyền thoại về các vị vua sáng như
vua Nghiêu và vua Thuấn – các ông vua sống rất bình dân, ở nhà lá, ăn mặc
giản dị như dân, yêu dân và giỏi trị nước, an dân. Ở xã hội đó, người nào cũng

sung sướng, đủ ăn, không có trộm cướp, cha thì từ, con thì hiếu, người già được
kính trọng, không có ai cô độc, muộn vợ muộn chồng, … Mặc dù đây chỉ là
những huyền thoại, nhưng trong những điều kiện cho phép, huyền thoại đó sẽ là
điều kiện, tiền đề cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo về xã hội lí tưởng. Tuy
nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, huyền thoại về các vị vua Nghiêu và vua Thuấn
là do Khổng Tử tự nghĩ ra để biện giải, lí giải cho quan niệm của ông về xã hội
lý tưởng.
Quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo đã được hình thành trên nền
tảng văn hóa truyền thống của Trung Hoa từ các thời đại Hạ, Thương, đến đầu
thời nhà Chu. Ngay từ thời Tam đại, vua Nghiêu đã đặt ra vấn đề “truyền hiền”
(truyền ngôi cho người hiền tài). Đây là điều đáng quý nhất, các ông thánh đó
không coi ngôi vua là của riêng mình, của nhà mình, của dòng họ mình. Khi
tuổi cao, họ không truyền lại cho con của mình mà truyền cho người hiền. Theo
các tài liệu sử học Trung Quốc thì, vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua
Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ. Đến nhà Hạ (2197 – 1766 tr.CN), khi nói về đức
của vua Hạ Vũ, sử cũ đã chép rằng, vua Vũ chỉ lo kẻ sỹ đến chờ ở cổng nhà
mình để góp ý kiền mà mình không tiếp được nên tóc không kịp búi, ăn một bữa
đứng dậy đến 3 lần, v.v. Ông được các nhà Nho sau này tôn sùng về đạo đức.
Vua Thang ở đời nhà Thương (1766 – 1134 tr.CN) là tấm gương về đạo đức, là
người có đạo đức thương dân và luôn tu dưỡng không ngừng về đạo đức cho
bản thân mình. Hình tượng “lưới của vua Thang” (ông đi săn chỉ bủa lưới có 3

23
bề) đã được nhiều nhà văn, nhà thơ sau này nhắc tới để ca ngợi những người có
đạo đức. Truyền thống trọng đạo đức đã được thể hiện một cách sâu sắc và rõ
nét ở thời đại nhà Chu (1134 – 221 tr.CN). Người ta đề cao hai đức “kính thiên”
(kính trọng trời – vị thánh tối cao có ý chí, có nhân cách), và “hiếu tổ” ( có hiếu
với tổ tiên). Kính và Hiếu là hai khái niệm đạo đức cốt lõi trong thang giá trị
đạo đức ở thời nhà Tây Chu (1134 – 771 tr.CN).
Ra đời trong hoàn cảnh ở Trung Quốc có rất nhiều học phái, trào lưu tư

tưởng, vì vậy quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng còn trên cơ sở tiếp
thu, kế thừa các tư tưởng của nhiều lý thuyết khác ở thời Xuân Thu – Chiến
Quốc. Và ở mức độ nhất định, quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo còn
ảnh hưởng và chịu sự chi phối của các tư tưởng xã hội đương thời. Để thấy rõ
hơn sự kế thừa tư tưởng của Khổng Tử trong các trào lưu tư tưởng, văn hóa
đương thời, sách Sử ký Tư Mã Thiên có viết: “Nam Cung Kính Thúc nói với vua
nước Lỗ: “Xin nhà vua cho tôi cùng Khổng Tử đến đất Chu. Vua nước Lỗ cho
ông ta một cỗ xe, hai con ngựa, một người đầy tớ, cùng Khổng Tử đến đất Chu
để hỏi về lễ. Khổng Tử yết kiến Lão Tử ở đấy.” [58, tr.198]. Một tài liệu khác
cũng viết rằng, chính Trang Tử đã từng nói đến việc Khổng Tử đã từng đi tìm
Lão Đam để hỏi về chữ đạo. Khi tiễn biệt, Lão Đam – Lão Tử có nói với Khổng
Tử rằng: “Tôi nghe nói người giàu sang tiễn nhau bằng tiền bạc, người nhân tiễn
nhau bằng lời nói. Tôi không phải là người giàu sang, mạn phép tự coi là người
nhân mà tiễn ông bằng lời này: kẻ thông minh và sâu sắc thì khó sống vì ham
phê bình người; kẻ giỏi biện luận biết nhiều thì nguy tới thân vì hay nêu cái xấu
của người. Kẻ làm con và kẻ làm tôi đều không có cách gì để giữ mình cả” [40,
tr.43]. Chính lời khuyên ấy của Lão Tử - người sáng lập phái Đạo gia lại thể
hiện rõ tư tưởng của ông, ông chủ trương phải lấy đức để báo oán, vì ông cho
rằng, nếu lấy oán để báo oán thì oán sẽ tăng thêm. Ông đề cao đức khiêm
nhường, khoan dung, tri túc của con người.

24
Thêm nữa, chúng ta còn có thể thấy sự kế thừa quan niệm về xã hội lý
tưởng của Nho giáo ở các học phái khác. Trước một xã hội rối loạn về quan
niệm đẳng cấp và danh phận; các chư hầu xâm chiếm và thôn tính lẫn nhau; sự
phát triển của những mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn lãnh chúa phong
kiến, cũng sự rối loạn của những quan hệ tông pháp trong xã hội Trung Hoa
thời Xuân thu – Chiến quốc ngày càng trở nên phổ biến, các học phái khác
trong “Bách gia chư tử” nói chung đều đi tìm câu trả lời của thời đại. Tuy mỗi
học phái có những quan niệm, lý giải khác nhau và cách giải quyết khác nhau về

vấn đề trên nhưng đều có một điểm chung là đưa ra quan niệm về một xã hội lý
tưởng tương đối có hệ thống và lập luận khá chặt chẽ. Trước khi nghiên cứu,
phân tích những nội dung chủ yếu trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý
tưởng – phần chủ yếu của luận văn này, theo chúng tôi, sự cần thiết phải trình
bày một cách khái lược nhất những nội dung chính trong quan niệm của một số
trào lưu triết học, chính trị - xã hội ở Trung Hoa thời cổ đại về xã hội lý tưởng
như Mặc gia, Đạo gia và Pháp gia.
Mặc Tử - người sáng lập phái Mặc gia cho rằng, “muốn có một quốc gia
thống nhất, quyền hành tập trung vào một người tài đức do dân cử lên, không có
đảng phái, tư tưởng từ trên xuống dưới nhất loạt như nhau, ai cũng lo lợi chung
của đồng bào, xã hội; dân đông đúc mà đủ ăn đủ mặc, cần và kiệm, không có sự
xa hoa; tóm lại là muốn được “chính bình dân an”; cơ hồ ông còn nghĩ đến một
thế giới đại đồng nữa” [40, tr.217] .
Như vậy, xã hội lý tưởng trong quan niệm của Mặc Tử và phái Mặc gia là
một xã hội hòa bình, thống nhất, tuyển chọn hiền tài chủ yếu là từ nhân dân mà
ra, do nhân dân bầu lên, vì nhân dân mà gánh vác; là một xã hội mà trong đó,
nhân dân giàu có, đủ ăn đủ mặc, …. Còn phương thức chủ yếu để đi đến một xã
hội đó theo Mặc tử là “kiêm ái”, tức là mọi người cùng yêu nhau không phân
biệt sang hèn. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, quan niệm của Mặc gia về một xã
hội lý tưởng ấy thì tốt đẹp là vậy, nhưng con đường để tạo lập và duy trì cái xã
hội đó mà phái Mặc gia đưa ra là không tưởng. Bởi vì, đứng trước một xã hội

×