Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Lý luận nhận thức của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.79 KB, 98 trang )

Mục Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài…………………………………… 01
2 Tình hình nghiên cứu………………………………………….02
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………….……… 10
4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………… 10
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu………………… 10
6 Đóng góp mới về khoa học………………………… 10
7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn….……………… 11
8 Kết cấu của luận văn………………………………………… 11
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1
Sự hình thành và phát triển lý luận nhận thức của
C.Mác và Ph.Ăngghen
1.1 Tiền đề lịch sử của sự hình thành lý luận nhận thức của Mác
và Ăngghen
1.1.1 Tiền đề triết học………………………………………………13
1.1.2 Tiền đề khoa học tự nhiên ………………………………… 18
1.2 Sự hình thành những quan điểm về nhận thức của Mác và
Ăngghen (giai đoạn 1843-1846)……………….…………………………….20
1.3 Mác và Ăngghen phát triển lý luận nhận thức
1.3.1 Mác và Ăngghen phát triển lý luận nhận thức trong nghiên
cứu kinh tế chính trị học……………………………………………………30
1.3.2 Ph.Ăngghen phát triển nhận thức luận mácxít trong nghiên
cứu khoa học tự nhiên………………………………………………………43
1.3.3 C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển học thuyết về nhận thức
trong một số tác phẩm khác………………………………………………49
Chương 2
V.I Lênin phát triển lý luận nhận thức của
chủ nghĩa duy vật biện chứng


2.1 Tiền đề lịch sử cho sự phát triển lý luận nhận thức của V.I
Lênin………………………………………………………………………. 55
2.2 V.I Lênin phát triển lý luận nhận thức (giai đoạn 1893-
1909)…………………… 57
2.3 V.I Lênin phát triển lý luận nhận thức trong thời kỳ trước và
sau cách mạng tháng Mười Nga 1917
2.3.1 Thời kỳ trước cách mạng tháng Mười……………………….73
2.3.2 Thời kỳ sau cách mạng tháng Mười…………………………83
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự ra đời của lý luận nhận thức duy vật biện chứng đã tạo nên một bước
ngoặt lớn trong sự phát triển triết học Mác. C.Mác, Ph.Ăngghen đã kế thừa
những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và thực tiễn xã hội để xây dựng nên
lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khẳng định vai trò của
nhận thức con người trong cải tạo thế giới.
Nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con
người, là quá trình tạo thành tri thức về hiện thực khách quan. Thế giới vật
chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập đối với ý thức của con người, tác
động vào các giác quan sinh ra cảm giác, hình thành ý thức. Con người (cá
nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực,
sáng tạo của nhận thức. Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý
tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức….của con người đều tham gia vào
quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả
nhận thức. Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà

nhận thức hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của
hoạt động nhận thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn
với hiện thực khách quan, phạm vi của khách thể được mở rộng đến đâu là
tùy theo sự phát triển của nhận thức, của khoa học, trước hết là của thực tiễn.
Vai trò của nhận thức luận không chỉ thể hiện đối với mỗi cá nhân mà còn với
tập thể, với cả cộng đồng xã hội. Nhận thức với trình độ cao là nhận thức lý
luận sẽ đem lại các tri thức lý luận hay hệ thống lý luận và có tác động to lớn,
tối quan trọng đối với hoạt động thực tiễn của con người. Do tính phổ biến, lý
luận có thể dẫn đường cho hoạt động thực tiễn của cả giai cấp xã hội; nhưng
khi lạc hậu, do tính phổ biến, lý luận có sự kìm hãm lớn trên diện rộng, cả xã
hội có thể mất phương hướng.
Cùng với phép biện chứng, lôgíc học, nhận thức luận mácxít có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng, khái quát và giải thích đúng đắn

2
những thành tựu mới của khoa học. Ngày nay khi khoa học tự nhiên đang ra
sức tìm kiếm một lý luận khái quát mới, những tư tưởng mới thì việc chú ý
đến những vấn đề phương pháp luận là đặc biệt quan trọng. Đó là khả năng
tổng hợp ở trình độ cao, khả năng nắm bắt và vận dụng nhuần nhuyễn, linh
hoạt, sáng tạo các nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng với tư
cách phương pháp luận và nguyên tắc chung mà tư duy phải tuân theo trong
nhận thức và giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công
nghệ và kinh tế tri thức, vai trò của nhận thức luận đã tăng lên hơn bao giờ
hết. Việc hiểu đúng và nắm vững lý luận nhận thức mácxít là một điều kiện
cần thiết để xem xét bản chất của đối tượng, đạt được những hiểu biết khái
niệm, lý luận khoa học về đối tượng, góp phần giải quyết được những vấn đề
của thực tiễn. Thiết nghĩ việc quay trở về với lịch sử phát triển tư tưởng của
các nhà kinh điển về nhận thức là một điều cần thiết đối với những ai đã và
đang tham gia vào hoạt động lý luận. Chính vì lý do đó mà chúng tôi đã chọn

đề tài Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng làm đề tài nghiên
cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay lý luận nhận thức đang được quan tâm nghiên cứu sâu sắc kể
cả về phương diện triết học lẫn phương diện khoa học nói chung. Điều đó
không chỉ do yêu cầu của kinh tế tri thức, mà còn do sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Đã có những
công trình khoa học, những bài viết liên quan đến vấn đề này.
Trước hết là những bài viết bàn đến một trong những nội dung quan
trọng của lý luận nhận thức, hoặc là về bản chất của nhận thức hoặc là về thực
tiễn, về sự thống nhất giữa phép biện chứng- lý luận nhận thức- lôgíc học v.v.
Bài viết “Nhận thức- đồ thức- tính khách quan” của tác giả Lý Cảnh
Nguyên ( Giáo sư- Tiến sĩ, Viện Triết học- Viện Khoa học xã hội Trung
Quốc) đăng trên tạp chí Triết học, số 11/ 2007. Theo tác giả, quá trình chủ thể

3
nhận thức xuất phát từ những đồ thức chung và thông qua sự điều chỉnh từng
bước để nắm bắt đúng đối tượng, biểu hiện một cách cụ thể nhận thức của con
người đi từ tính chủ quan đến tính khách quan như thế nào.
Đã có những ý kiến khác nhau trong lịch sử triết học về bản chất con
đường nhận thức và tiêu chuẩn chân lý, thể hiện trong bài viết “ Những quan
niệm khác nhau trong lịch sử triết học về bản chất con đường nhận thức và
tiêu chuẩn chân lý” của tác giả Nguyễn Tấn Hùng ( Tạp chí Triết học, số 3/
2006).
Có bài viết đi vào tìm hiểu một bộ phận quan trọng của nhận thức đó là
thực tiễn. Tác giả Cao Ngạn Khởi đã đưa ra ý kiến của mình trong “Về tính
khách quan và tính năng động của thực tiễn” (Tạp chí Triết học, số 8/2008) và
làm rõ tính khách quan và tính năng động của hoạt động thực tiễn- một vấn đề
không chỉ cần thiết về mặt lý luận, mà còn có giá trị thực tiễn. Theo tác giả,
hoạt động thực tiễn của con người vừa mang tính khách quan, vừa mang tính

năng động. Tính khách quan và tính năng động của hoạt động thực tiễn luôn
thống nhất biện chứng với nhau.
Hoạt động thực tiễn của con người vừa có tính khách quan, vừa có tính
năng động. Hoạt động thực tiễn là sự thống nhất giữa tính quy luật và tính
mục đích, giữa tính khách quan và tính năng động. Nghiên cứu tính khách
quan và tính năng động cùng mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta lý giải
chính xác tính chủ thể, từ đó tiến thêm một bước trong việc tăng cường vai trò
tích cực cũng như ngăn ngừa tác động tiêu cực của tính chủ thể trong thực
tiễn, khiến cho tính chủ thể của thực tiễn được đặt trên nền tảng khoa học,
đồng thời được phát huy một cách đầy đủ nhất. Xét trên ý nghĩa đó, việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa tính khách quan và tính năng động không chỉ
cần thiết về mặt lý luận, mà còn có giá trị thực tiễn.
Nhìn từ góc độ nhận thức luận về triết học thì tất cả hoạt động sáng tạo
của con người đều bắt nguồn từ sự thay đổi, đổi mới và tối ưu hoá. Do vậy,
phương thức tư duy (cả lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng) cũng được

4
nghiên cứu để phát huy tốt hơn năng lực nhận thức. Đó là bài viết của các tác
giả
1) Trần Trung Lập “Tăng cường phương thức tư duy, phát huy năng lực
sáng tạo triết học” (Tạp chí Triết học, số 10/ 2008)
2)“ Vai trò của các nguyên tắc, phạm trù lôgíc biện chứng đối với việc
rèn luyện năng lực tư duy biện chứng” của Trần Viết Quang (Tạp chí Triết
học, số 12/2006)
3) Edgar Morin với “ Nhập môn tư duy phức hợp” NXB Tri Thức, Hà
Nội 2009; “ Phương pháp ba: Tri thức về tri thức, nhân học về tri thức NXB
Đại học quốc gia Hà Nội 2009”
Tác giả Phạm Văn Dương trong bài viết “Về sự thống nhất giữa phép
biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học” (Tạp chí Triết học, số 5/1997) đã
nghiên cứu tư tưởng của Lênin trong “Bút ký triết học” khi ông viết “Trong

Tư bản Mác đã áp dụng lôgíc, phép biện chứng và lý luận nhận thức (không
cần ba từ: đó cùng là một cái duy nhất)”. Theo tác giả thì không có sự đồng
nhất tuyệt đối giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học mà ở đây
khi Lênin nói đến sự thống nhất là ông muốn nhấn mạnh sự thống nhất trong
tính đa dạng, khác biệt chứ không có ý hòa tan phép biện chứng, lý luận nhận
thức và lôgíc học. Không có sự thống nhất hay đồng nhất tuyệt đối, chỉ có sự
đồng nhất hay thống nhất tương đối, sự thống nhất chứa đựng sự đa dạng
khác biệt. Phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học thống nhất với
nhau chính vì chúng bắt nguồn từ một nguồn gốc thống nhất, một cơ sở thống
nhất là thế giới vật chất, có cùng mối liên hệ phổ biến như nhau, liên quan
hữu cơ với nhau và có cùng các quy luật phổ biến, các phạm trù chung nhất.
Bài viết “Về bản chất của tư duy” của tác giả Nguyễn Mạnh Cương coi
tư duy là quá trình phản ánh hiện thực khách quan, giữa tư duy trừu tượng và
nhận thức cảm tính có sự khác nhau về chất. Tác giả khẳng định vai trò của tư
duy trong việc phản ánh thế giới khách quan, tư duy trừu tượng hướng vào
việc tìm ra chân lý, nắm bắt những mối liên hệ khách quan, có tính bản chất,

5
phát hiện ra tính quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Nhờ có tư duy trừu tượng mà nhận thức của con người đi từ sự hiểu
biết có tính chất hiện tượng đến sự hiểu biết về bản chất, từ ngẫu nhiên bề
ngoài đến quan hệ có tính tất nhiên, tính quy luật.
Tác giả Phạm Thái Việt với hai bài viết:
1) “Về vai trò của lịch sử triết học dưới góc độ thống nhất giữa lôgíc và
lịch sử” (Tạp chí Triết học, số 4/1994). Trong bài viết này trên cơ sở làm sáng
tỏ mối quan hệ giữa triết học và lịch sử triết học, tác giả cho thấy ý nghĩa, vai
trò của lịch sử triết học đối với quá trình hình thành và phát triển tư duy triết
học hiện đại. Tác giả cũng khảo sát nguyên tắc thống nhất giữa lôgíc và lịch
sử do Hêghen xây dựng đã được thực hiện trong “Những bài giảng về lịch sử
triết học” của ông, tư tưởng này đã được chủ nghĩa Mác- Lênin tiếp nhận và

cải tạo nên trên cơ sở duy vật khoa học khiến cho nguyên tắc biện chứng rất
quan trọng này mang một sắc thái có tính bản chất hoàn toàn mới và được
chính các nhà kinh điển áp dụng triệt để trong các nghiên cứu về chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa đế quốc.
2) “Sự hình thành mối tương quan giữa lôgíc và lịch sử trong lịch sử
triết học” (Tạp chí Triết học, số 4/1995) khảo sát mối tương quan giữa lôgíc
và lịch sử là sự phản ánh tính thống nhất giữa bản thân sự phát triển hiện thực
với sự phát triển của nhận thức lý luận về hiện thực đó. Nhận thức lý luận,
theo tác giả, triển khai trình tự lôgíc phản ánh khách thể trong sự nhất trí với
lịch sử phát triển của khách thể ấy, tạo thành các “vòng tròn” vận động. Mỗi
bước lùi sâu vào lịch sử đều được chuyển thành một bước tiến đến sự hiểu
biết đầy đủ và sâu sắc hơn cái bản chất hiện tại; mỗi thao tác phân tích từng
bộ phận của chỉnh thể hiện tại cũng đồng thời là sự tổng hợp nó theo quy trình
mà lịch sử đã làm. Dưới ánh sáng của nguyên tắc lịch sử, quá trình sinh thành
mối tương quan giữa lôgíc và lịch sử được phổ biến như quá trình tích hợp
các tri thức lịch sử cấu thành nội dung hiện tại, phù hợp với các bậc thang
phát triển cơ bản của lịch sử triết học. Tác giả khẳng định, theo quan điểm

6
mácxít, lịch sử trước hết là lịch sử của các sự vật, hiện tượng khách quan, và
sau đó mới là lịch sử tư tưởng phản ánh hiện thực ấy bởi con người. Do đó,
cái lịch sử luôn là nguyên mẫu của lôgíc, còn cái lôgíc chẳng qua chỉ là “sự
phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thức trừu tượng và nhất quán về lý
luận”.
Bàn về một số khía cạnh của nhận thức luận là bài viết của tác giả
Nguyễn Gia Thơ “Về một số khía cạnh nhận thức luận của lôgíc quy nạp
trong triết học cổ đại Hy Lạp” (Tạp chí Triết học, số 2/1994). Tác giả cho
rằng, nếu như diễn dịch là một phương pháp tư duy thuần túy lý tính, thì quy
nạp luôn luôn bằng cách này hay cách khác gắn với tri thức kinh nghiệm.
Nhưng khi giải quyết các vấn đề liên quan đến quy nạp, chúng ta luôn thấy

thể hiện các thiên hướng của các nhà triết học khác nhau đối với chủ nghĩa
kinh nghiệm hay lý luận, chủ nghĩa duy cảm hay duy lý. Mặc dù lôgíc học
nghiên cứu các vấn đề tư duy thuần túy lý tính, nhưng lại không thể xem xét
nó tách biệt hẳn với những con đường hình thành tri thức của nhận thức luận.
Trong khi khảo sát triết học cổ đại Hy Lạp với các đại biểu như Xôcrát,
Platôn, Arixtốt tác giả đã cố gắng làm rõ vai trò của phương pháp tư duy quy
nạp trong vấn đề nhận thức luận.
Tác giả Nguyễn Anh Tuấn với bài viết “ V.I.Lênin phát triển phương
pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể” (Tạp chí Triết học, số 10/2006). Vấn đề xác
định khởi điểm của phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể trên bình diện lý
thuyết đối với các hệ thống đã hình thành và đang trong quá trình sinh thành
là hết sức quan trọng. Với suy nghĩ đó, trong bài viết này, trên cơ sở phân tích
những chỉ dẫn của V.I.Lênin về cách thức xây dựng xã hội mới ở nước Nga
sau Cách mạng tháng Mười, tác giả đã luận chứng cho tính hiệu quả cao của
việc lựa chọn đúng khởi điểm nghiên cứu theo phương pháp đi từ trừu tượng
đến cụ thể đối với việc xây dựng mô hình lý thuyết của một hệ thống đang
hình thành và đối với hoạt động thực tiễn của chủ thể tự giác. Tác giả làm rõ,
V.I.Lênin đã nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản không phải từ việc vạch ra xuất

7
phát điểm ở hiện thực cùng cấp với nó, mà ở hiện thực mới chỉ bắt đầu xuất
hiện những mầm mống yếu ớt của tương lai. Chính cách tiếp cận này đã giúp
ông phát hiện ra điểm khởi đầu lý luận và thực tiễn cộng sản chủ nghĩa và qua
đó, đã phát triển phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể mà Hêghen và
C.Mác đã xây dựng.
Nguyễn Ngọc Hà, Lê Văn Mười “Khái niệm thực tiễn trong lý luận nhận
thức: một số vấn đề cần quan tâm” (Tạp chí Triết học, số 4/2011). Bài viết
trên cơ sở xem thực tiễn là khái niệm có vị trí quan trọng trong lý luận nhận
thức duy vật, đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này, khẳng định chỉ cần định
nghĩa ngắn gọn rằng, thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, đó là hoạt

động vật chất có tư duy chỉ đạo do vậy hoạt động vật chất của con người khác
với hoạt động vật chất của con vật. Bàn đến các hình thức của thực tiễn các
tác giả cho rằng bên cạnh 3 hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động chính trị- xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học thì thực tiễn còn
có một hình thức nữa là các hoạt động vật chất của con người như ăn, mặc, ở,
đi lại, quan sát, sinh con đẻ cái. Thêm vào đó, bài viết còn cho rằng, hiểu vai
trò của thực tiễn với tính cách là tiêu chuẩn của chân lý tức là cần phải hiểu,
kết quả của thực tiễn mới là tiêu chuẩn của chân lý, chứ không cho rằng tiêu
chuẩn của chân lý nằm ở quá trình hoạt động thực tiễn như một số ý kiến.
Tác giả Phạm Văn Chung với bài viết “Về những đặc trưng cơ bản của
tri thức” (Tạp chí Triết học, số 9/2010) cũng đã đề cập đến một trong những
yếu tố đặc trưng của nhận thức luận là tri thức. Tác giả đã đưa ra và phân tích
một số đặc trưng cơ bản của tri thức. Đó là, tri thức là một dạng thái tinh thần;
tri thức là hình thức cao nhất của sự tiến hóa các hình thức phản ánh; tri thức
là kết quả của nhận thức; tri thức với tư cách là thông tin; tri thức là sự biểu
hiện, khẳng định bản chất con người. Những đặc trưng đó tuy chưa nói hết
được những thuộc tính, những mặt của tri thức, song chúng cũng đã cho thấy
tính chất nhiều chiều, đa dạng của tri thức – một đối tượng nghiên cứu hết sức
phức tạp thuộc về phạm vi nhận thức.

8
Sau nữa là các công trình nghiên cứu bàn đến những nội dung cơ bản
của lý luận nhận thức. Cuốn “Lôgíc học đại cương” của hai tác giả Nguyễn
Anh Tuấn và Nguyễn Thúy Vân, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội- 2003
nghiên cứu vai trò của lôgíc trong nhận thức về mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Cụ thể là những hình thức tư duy chung, một số vấn đề cơ bản của lôgíc
hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận và chứng minh để đạt đến nhận
thức cho đúng.
Ấn phẩm mới xuất bản của tác giả Phạm Văn Chung “Giáo trình lịch sử
triết học. Sự hình thành và phát triển triết học Mác, giai đoạn C.Mác,

Ph.Ăngghen và V.I.Lênin” NXB Đại học quốc gia Hà Nội- 2011 cũng bàn
đến nội dung lý luận nhận thức nhưng đó là nghiên cứu chung của tác giả về
triết học Mác không phải chuyên nghiên cứu về lịch sử nhận thức.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa với cuốn “Lịch sử và lôgíc” NXB Sách giáo khoa
Mác- Lênin, Hà Nội- 1982 đã trình bày quá trình hình thành, phát triển quan
niệm về phép biện chứng của lịch sử và lôgíc từ thời Hêghen cho đến các nhà
triết học hiện đại, đặc biệt chú ý phân tích việc vận dụng phương pháp lịch sử
và lôgíc trong hoạt động lý luận và thực tiễn của Mác, Ăngghen, Lênin và ý
nghĩa phương pháp luận của nó đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Các giáo trình bàn về lý luận nhận thức như “Giáo trình triết học Mác-
Lênin” Bộ giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội- 2005;
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác” Bộ giáo dục và đào tạo, NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội- 2009 không làm sáng rõ mặt lịch sử của học
thuyết Mác về nhận thức, chỉ tổng kết về mặt lý luận của học thuyết, vẫn có
những khiếm khuyết như tính chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ. Do vậy mà, chỉ
nghiên cứu lịch sử của học thuyết mới có thể làm sáng tỏ được vấn đề.
Tác giả A.P Séptulin cho rằng lôgíc biện chứng là phương pháp chung
của nhận thức, phương pháp luận của hoạt động thực tiễn trong cuốn sách
“Phương pháp biện chứng của nhận thức” Bản dịch tiếng Việt (có chỉnh lý)
của NXB Tiến Bộ và NXB Sự thật, 1989 in tại Liên Xô. Cuốn sách lý giải

9
phép biện chứng với tư cách là phương pháp nhận thức, vạch ra bản chất riêng
của phương pháp biện chứng, xem xét những nguyên tắc cơ bản của nó, đề ra
những yêu cầu quan trọng nhất đối với chủ thể nhận thức, giúp chủ thể định
hướng trong quá trình nghiên cứu khách thể, giới thiệu mối liên hệ giữa
phương pháp biện chứng với những phương pháp chuyên môn khoa học
chung và những phương pháp riêng.
Hai cuốn sách: “Lịch sử phép biện chứng mácxít” (1998) NXB Chính
trị quốc gia Hà Nội do các tác giả GS. Lê Hữu Tầng, G.S Đỗ Trọng Chuẩn và

T.S Đỗ Minh Hợp dịch và hiệu đính đã trình bày một cách có hệ thống, bao
hàm đầy đủ các yếu tố cơ bản và hoàn cảnh ra đời của phép biện chứng trong
lịch sử tư tưởng nhân loại; cho thấy lịch sử phép biện chứng hình thành, phát
triển từ khi triết học ra đời, mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng mácxít.
Và cuốn “Triết học Mác, sự phát sinh và phát triển của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thời kỳ Mác và Ăngghen” của
Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô, NXB Sự Thật Hà Nội- 1962 cho thấy triết
học Mác về lịch sử và phép biện chứng duy vật có một quá trình hình thành
và phát triển thông qua những tác phẩm tiểu biểu. Ở đây các ông đã thể hiện
đầy đủ và rõ ràng quan điểm của mình ở trong từng luận điểm, từng yếu tố
cũng như ở những đặc trưng mang tính hệ thống của chúng. Tuy nhiên với hai
cuốn sách trên các tác giả cũng mới quan tâm đến một trong những nội dung
quan trọng của triết học Mác, hoặc là về phép biện chứng duy vật hoặc là về
chủ nghĩa duy vật lịch sử chứ chưa quan tâm sâu sắc đến mặt nhận thức luận
của triết học Mác.
Có thể nói, tất cả những công trình, những bài viết mà chúng tôi vừa
nêu ít nhiều cũng đã bàn đến những nội dung của lý luận nhận thức, tuy nhiên
vẫn bộc lộ sự chưa chặt chẽ, chưa rõ ràng, đặc biệt chưa đi sâu nghiên cứu để
chỉ ra được lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác có một quá trình hình thành
và phát triển được thể hiện thông qua các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin. Bên cạnh đó, cho đến nay ở Việt Nam về cơ bản lý luận nhận

10
thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng chưa được nghiên cứu một cách có hệ
thống, vì vậy để đáp ứng thực tiễn này chúng tôi chọn đề tài “Lý luận nhận
thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: sự hình thành và phát triển lý luận
nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Phạm vi nghiên cứu là nhận thức luận do C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin

sáng lập và phát triển.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Vạch ra nội dung lý luận nhận thức của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về mặt lịch sử.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển lý luận nhận thức của
C. Mác và Ph. Ăngghen.
Hai là, tìm hiểu quá trình V.I.Lênin phát triển lý luận nhận thức của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu là hệ thống quan điểm triết học của
chủ nghĩa Mác, cụ thể là những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu cơ bản là kết hợp giữa phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgíc cùng với các phương pháp nghiên cứu khác dựa trên sự kế
thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
6. Đóng góp mới về khoa học
Hệ thống hóa lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
phương diện lịch sử.




11
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn về lý luận nhận thức
mácxít. Kết quả nghiên cứu do đó có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các
nghiên cứu liên quan.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung chính gồm 2 chương và 6 tiết,

phần kết luận và lịch sử các tài liệu tham khảo























12
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH

CHƯƠNG 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN NHẬN
THỨC CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN


1.1 Tiền đề lịch sử của sự hình thành lý luận nhận thức của Mác và
Ăngghen
Với sự ra đời và phát triển của đại công nghiệp, vào những năm 40 của
thế kỷ XIX ở Tây Âu, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn phát triển mới,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng lớn lên nhanh chóng, mạnh mẽ
trong lòng xã hội phong kiến. Đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã chứng
minh một cách hùng hồn mối liên hệ chặt chẽ giữa tự nhiên, xã hội và con
người. Do đó việc đòi hỏi nhận thức của con người phải tuân theo quy luật và
vận động trong sự thống nhất với những quy luật của tự nhiên và xã hội đã trở
thành tất yếu.
Trong khoảng thời gian này, một xu hướng chính trị mới xuất hiện cùng
với sự hình thành hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa là cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản đầu thế kỷ XIX. Họ nhận thấy cần phải thoát khỏi sự trói
buộc của ý thức hệ tư sản cũ để hình thành nên một hệ tư tưởng của riêng
mình, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xã hội và đòi hỏi cần thiết phải có một lý
luận tiên tiến khoa học để dẫn đường cho cuộc đấu tranh của họ.
Những yêu cầu của thực tiễn xã hội đó, cùng với những thay đổi về kinh
tế đã tạo tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác và sự phát triển khoa học tự
nhiên vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Song, để triết học Mác ra đời với
tư cách là một hệ thống lý luận khoa học thì nhất thiết phải nói đến vai trò của
triết học trước Mác bao gồm cả hệ thống duy vật và duy tâm. Chính vì vậy,
bên cạnh tiền đề về khoa học tự nhiên, khi đề cập đến nguồn gốc cho sự hình

13
thành và phát triển lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác không thể bỏ qua
một yếu tố rất cơ bản và quan trọng đó là tiền đề triết học trước Mác.
1.1.1 Tiền đề triết học
Tiền đề triết học đầu tiên phải kể đến là triết học cổ điển Đức với hai
nhà triết học tiêu biểu là Immanuel Kant và Georg Wilhelm Friedrich Hegel.

Đóng góp đáng kể của hai nhà triết học người Đức đối với lịch sử hình
thành và phát triển lý luận nhận thức mácxít là ở những vấn đề về nhiệm vụ
của triết học lý luận (đối với Cantơ đó là nhận thức luận); nghiên cứu các hình
thức, khả năng và giới hạn nhận thức của con người; và đặc biệt là vai trò của
phép biện chứng trong triết học Hêghen biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là
hình thức cao nhất của lôgíc học, của tư duy lôgíc trước Mác.
Immanuel Kant (1724 - 1804), người sáng lập lên nền triết học cổ điển
Đức. Ông hướng đến mục đích xây dựng một nền tảng thế giới quan mới cho
con người, xác định đối tượng và giới hạn của tri thức con người trong lí luận
nhận thức và lôgíc học. Trước tiên Cantơ thừa nhận sự tồn tại khách quan của
thế giới các “vật tự nó” ở bên ngoài con người không nhận thức được, mọi tri
thức của con người không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan tức “vật
tự nó”. Ở đây, mặc dù Cantơ đã đặt giới hạn nhận thức của con người trước
“vật tự nó” nhưng quan điểm này của ông lại chứa đựng một ý nghĩa nhất
định, nó đã đặt ra vấn đề về tính phức tạp, đầy nghịch lý của quá trình con
người nhận thức thế giới cũng như mối quan hệ “con người- thế giới” nói
chung.
Thứ hai, dựa trên khuynh hướng duy lý của Đềcáctơ, Lépnít và khoa học
tự nhiên thế kỷ XVII- XVIII, hơn ai hết, ông nhận thấy vai trò đặc biệt của tri
thức lý luận đối với khoa học với hai đặc tính là phổ quát và tất yếu, coi đây
là nền tảng của quá trình nhận thức chân lý của con người, vì vậy Cantơ coi
nhiệm vụ cơ bản của triết học lý luận là luận chứng các mệnh đề tiên nghiệm
tổng hợp có được như thế nào. Tức là làm rõ các tri thức lý luận của khoa học
có được như thế nào. Việc xác định nhiệm vụ cơ bản của triết học nhằm luận

14
chứng cơ sở của tri thức lý luận một cách có hệ thống là một trong những
thành tựu vĩ đại của triết học Cantơ.
Thứ ba, trong triết học lý luận của mình Cantơ cho rằng nhận thức luận
không phải là nghiên cứu quá trình nhận thức của con người, khám phá ra bản

chất đích thực của tự nhiên mà là hoạt động nhận thức của con người như một
chủ thể trong khuôn khổ hiện tượng luận. Hiện tượng luận là giới hạn của mọi
tri thức con người. Bởi vì theo ông, những gì mà con người biết được về sự
vật chỉ là hình ảnh, quan niệm của con người về chúng, chứ chưa phải là bản
thân các sự vật tồn tại trên thực tế, cái mà ông gọi “vật tự nó”. Và vì chúng ta
chỉ biết được về sự vật thông qua các giác quan của mình, những gì là sự biểu
hiện bên ngoài, tức là hiện tượng cho nên không bao giờ con người có thể
nhận biết được bản chất đích thực của sự vật cả.
Không gian và thời gian là những điều kiện tiên quyết cho tri thức. Luận
điểm của Cantơ: Ý niệm không có nội dung là rỗng tuếch, trực quan không có
khái niệm là mù quáng, đã đưa ra một liên hệ quan trọng về bản chất của nhận
thức mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cần phải làm sáng tỏ. Khẳng định
những điểm tích cực của triết học Cantơ, đặc biệt là việc thừa nhận tính khách
quan của “vật tự nó” đối với nhận thức của con người vì vậy, như
Ph.Ăngghen đã nói, triết học lý luận của Cantơ vẫn có đóng góp đáng kể đối
với sự phát triển triết học. Ông viết: “Còn một loạt các nhà triết học khác
không thừa nhận là có thể nhận thức được thế giới, hay ít nhất cũng không thể
nhận thức được thế giới một cách đầy đủ. Trong số các nhà triết học hiện đại,
phải kể đến Hium và Cantơ là những người đã đóng một vai trò rất lớn trong
sự phát triển của triết học”[23, tr.406]
G.W.F.Hegel (1770- 1831) là người có công lớn trong việc phát triển
triết học thế giới. Nói đến Hêghen là nói đến người đã xây dựng phép biện
chứng một cách có hệ thống để từ đó đem đến cho triết học Mác, nhận thức
luận mácxít một tiền đề lý giải và căn cứ quan trọng. Như Ph.Ăngghen đánh
giá về vai trò phép biện chứng duy tâm của Hêghen: “Nền triết học mới ở

15
Đức ra đời và đã đạt tởi đỉnh cao nhất của nó, thể hiện ở Hêghen. Công lao to
lớn nhất của nó là đã quay trở lại phép biện chứng coi đó là hình thức cao
nhất của tư duy”[19, tr.34]

Trong tác phẩm lớn “Hiện tượng học tinh thần” của mình Hêghen đề cao
vai trò của nhận thức khái niệm, coi nó là dạng nhận thức cao nhất của con
người, vì chỉ có khái niệm mới đi sâu vào bản chất của sự vật, khái niệm là
linh hồn của sự vật. Để đạt đến nhận thức sự vật bằng khái niệm thì con người
cần phải có tư duy lôgíc khái niệm. Điều đáng chú ý là, với chủ nghĩa duy lý,
Hêghen đã cố gắng giải quyết vấn đề Cantơ đã đặt ra- vấn đề không nhận thức
được bằng khoa học “vật tự nó”, bằng cách đồng nhất giữa hai yếu tố chủ thể
và khách thể, theo ông, chân lý không chỉ là thực thể mà còn là chủ thể đầy
sống động. Con người vừa là chủ thể vừa là kết quả của quá trình hoạt động
của mình. Chính trong quá trình nhận thức và cải biến thế giới tự nhiên, tư
duy và trí tuệ của con người mới hình thành, đó là một quá trình liên tục phát
triển, vì vậy chân lý là sự thống nhất giữa giữa tinh thần và vật chất.
Hêghen ý thức được rằng hạn chế này của Cantơ xuất hiện không phải là
một điều ngẫu nhiên, nó tất yếu được suy ra từ các lý do sau: thứ nhất, đó là
sự không thể khắc phục được sự phân định giữa chủ thể và khách thể. Cantơ
không cho phép có khả năng hợp nhất giữa chúng do vậy, khách thể ở ông
bao giờ cũng là cái không đạt tới được, không nhận thức được đối với chủ
thể; thứ hai, Cantơ thừa nhận khoa học tự nhiên lý thuyết là mẫu mực của
“khoa học”. Đối với khoa học tự nhiên này thì sự đối lập giữa chủ thể và
khách thể là thực sự không thể khắc phục được. Hêghen đi tìm sự đồng nhất
giữa chủ thể và khách thể, xác lập sự đồng nhất này trong quá trình nhận thức.
Chủ thể và khách thể không còn là bên ngoài đối với nhau, mà thâm nhập lẫn
nhau, sống cuộc sống của nhau.
Tuy nhiên, với hệ thống triết học duy tâm, Hêghen đã vấp phải một hạn
chế khi tuyệt đối hóa vai trò của bản thân tư duy, sự thống nhất giữa chủ thể
và khách thể, giữa tinh thần và vật chất cuối cùng được ông quy lại thành quá

16
trình vận động của “tinh thần tuyệt đối” không cứng đờ mà luôn sống động và
chuyển hóa liên tục. Điều này có nghĩa rằng, triết gia lớn người Đức đã kiên

định với chủ nghĩa duy lý mà chưa giải quyết tận gốc mối quan hệ chủ- khách
thể trong quá trình làm sáng tỏ những tiềm năng lý luận tối đa của nó. Lập
trường duy tâm của Hêghen đã cho rằng không phải ý thức, tư tưởng phát
triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội mà ngược lại
tự nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào tư duy khách quan, tinh
thần thế giới. Song, với những đóng góp vào thành tựu vĩ đại của tư duy nhân
loại, Hêghen xứng đáng là một nhà bách khoa lúc đó. Đánh giá về vai trò của
triết học Hêghen đặc biệt là Khoa học Lôgíc đối với triết học Mác, V.I.Lênin
viết: “không thể hoàn toàn hiểu được “Tư bản” của C.Mác và đặc biệt là
chương I của sách đó, nếu chưa nghiên cứu kỹ và chưa hiểu toàn bộ Lôgíc
của Hêghen”[45, tr.190]
Nói tới tiền đề cho sự hình thành lý luận nhận thức duy vật biện chứng
không thể bỏ qua vai trò của triết học duy vật trước Mác đối với sự hình thành
và phát triển học thuyết Mác về nhận thức. Chính nhờ việc khắc phục những
hạn chế chủ nghĩa duy vật trực quan thế kỷ XVII- XVIII mà Mác đã cải tạo
có hệ thống phép biện chứng duy tâm của Hêghen, xây dựng nó thành phép
biện chứng thực sự khoa học là phép biện chứng duy vật. Hạn chế của chủ
nghĩa duy vật trước Mác là mặc dù đã hiểu hoạt động thực tiễn là hoạt động
vật chất của con người, nhưng lại không thấy được vai trò của nó đối với nhận
thức của con người mà cho đó là hoạt động của con buôn đê tiện, bẩn thỉu.
Đánh giá về chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII- XVIII Mác viết:
“Khuyết điểm chủ yếu, từ trước cho đến nay, của mọi chủ nghĩa duy vật (kể
cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc) là sự vật, hiện thực, cái có thể cảm giác
được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan,
chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn;
không được nhận thức về mặt chủ quan ( ). Do vậy, trong tác phẩm “Bản
chất của Đạo Cơ Đốc” ông chỉ xem xét hoạt động lý luận là hoạt động đích

17
thực của con người, trong khi thực tiễn chỉ được xem xét và xác định dưới

hình thức biểu hiện con buôn -bẩn thỉu của nó mà thôi”[34, tr.370].
Ph.Ăngghen đã nhận xét rằng, Phoiơbắc đã đạt đến quan điểm duy vật triệt để
trong nhận thức về tự nhiên nhưng lại không đạt đến quan điểm như vậy về
lịch sử. Và chính Phoiơbắc đã tuyên bố: “Đi lùi lại đằng sau, tôi hoàn toàn
nhất trí với các nhà duy vật chủ nghĩa, nhưng tiến lên phía trước, tôi không
nhất trí với họ”[23, tr.305]
Nhưng ưu điểm mà chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc đã đem đến là một ý
nghĩa khoa học thực sự cho phép biện chứng nói riêng, cho triết học Mác nói
chung. Xét ở khía cạnh này thì không thể từ chối công lao của Phoiơbắc:
“Phoiơbắc là nhà tư tưởng duy nhất mà chúng ta nhận thấy có thái độ nghiêm
túc, phê phán đối với phép biện chứng của Hêghen; chỉ có ông mới có những
phát hiện chân chính trong lĩnh vực ấy và nói chung đã thực sự khắc phục
triết học cũ. Tầm vĩ đại của cái mà Phoiơbắc đã làm, tính giản dị khiêm tốn
của ông khi ông phát biểu trước thế giới tương phản một cách lạ lùng với cái
mà người ta nhận thấy về phương diện này ở những nhà phê phán”[27, tr.219]
Như vậy, triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm
của Hêghen và chủ nghĩa duy vật trực quan là hai tiền đề triết học cơ bản cho
sự ra đời và phát triển lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Chính nhờ việc
khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ mà Mác đã xây dựng được
nguyên tắc cơ bản đầu tiên của lý luận nhận mácxít- nguyên tắc duy vật biện
chứng ngay ở những tác phẩm đầu tiên trong giai đoạn hình thành của nó
(1843-1846). Thêm một lần nữa, đánh giá cao về vai trò phép biện chứng duy
tâm của Hêghen, C.Mác trong bộ “Tư Bản” đã viết: “Tính chất thần bí mà
phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hêghen- tuyệt nhiên không ngăn cản
Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức
những hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen, phép
biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện
được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí”[38, tr.35].

18

C. Mác, Ph.Ăngghen trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các bậc
tiền bối, phê phán và khắc phục những hạn chế của các ông, đã thực hiện một
cuộc cách mạng trong lịch sử triết học nói chung, trong lịch sử nhận thức luận
nói riêng, xây dựng lên một hệ thống lý luận thực sự khoa học- lý luận về
nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đó là nền tảng và phương pháp
luận cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con người.
1.1.2 Tiền đề khoa học tự nhiên
Những thành tựu của khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX có vai trò quan trọng không thể thiếu được cho lịch sử hình thành và phát
triển nhận thức luận mácxít. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm
bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình
trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để
phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật trong việc
giải thích thế giới, tạo điều kiện cho việc xây dựng một hệ thống lý luận về
nhận thức một cách khoa học.
Trong số những thành tựu của khoa học tự nhiên thời đó, Ăngghen nêu
bật ý nghĩa của ba phát minh lớn “đã làm cho kiến thức của chúng ta về mối
liên hệ của các quá trình tự nhiên tiến lên những bước tiến khổng lồ”: phát
minh thứ nhất là sự chứng minh được sự chuyển hóa năng lượng, bắt nguồn
từ sự phát hiện ra đương lượng cơ giới của nhiệt (do Rôbơc Mayơ, Giulơ và
Cônđinh), R.Maye đã nêu quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, sau
này Lômonôxốp là người tổng hợp lại đưa ra định luật về bảo toàn và chuyển
hóa năng lượng. Phát minh thứ hai là phát hiện của Svannơ và Slaiđen ra tế
bào hữu cơ, coi đó là một đơn vị mà từ đó mọi cơ thể, trừ những thể thấp
nhất, sinh ra và lớn lên bằng cách sinh đôi và phân hóa. Phát hiện vĩ đại thứ
ba, học thuyết về sự tiến hóa, học thuyết này được Đácuyn xây dựng lên và
trình bày lần đầu tiên một cách có hệ thống.
Những phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên cuối thể kỷ XIX đầu thế
kỷ XX đã đánh tan quan niệm cơ học về bức tranh của thế giới tự nhiên thế kỷ


19
XVII-XVIII làm cho “quan niệm mới về giới tự nhiên được hoàn thành trên
những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định
đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn
tại vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn
bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh
cửu”[15,tr.471]. Đến lượt mình khoa học tự nhiên không thể tiếp tục phát
triển nếu “ không từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư duy biện
chứng, bằng cách này hay cách khác”[15,tr.490]. Nhưng nếu tư duy biện
chứng ở triết học cổ đại chỉ mới là một trực kiến thiên tài “thì đối với chúng ta
nó là kết quả của một công trình nghiên cứu khoa học chặt chẽ dựa trên kinh
nghiệm và vì vậy nó thể hiện ra dưới một hình thức dứt khoát và rõ ràng hơn
nhiều”[15, tr.471]. Sự phát triển của khoa học tự nhiên lúc này chứng tỏ một
điều là đã đến lúc phải xây dựng một nhận thức triết học độc lập- nhận thức
triết học duy vật biện chứng.
Như vậy lịch sử nhận thức luận mácxít đã ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì nó là sự phản ánh đòi hỏi của thực tiễn xã hội, mà còn là đòi
hỏi phải giải đáp được chính xác vấn đề mà nhân loại đang đặt ra: “con người
có khả năng nhận thức được thế giới hay không ?” Có thể khẳng định, người
đầu tiên có công lao to lớn trong việc đặt ra và đã giải quyết ở mức độ nhất
định, vấn đề xây dựng một cơ sở khoa học cho nhận thức về tự nhiên, về vũ
trụ nói chung là Cantơ: “Cantơ đã mở đầu sự nghiệp khoa học của ông bằng
việc biến thái dương hệ vĩnh viễn và bất biến của Newtơn,- sau khi đã có cái
hích đầu tiên nổi tiếng kia,- thành một quá trình lịch sử: đó là quá trình xuất
hiện mặt trời và tất cả mọi hành tinh từ khối tinh vân đang xoay chuyển. Từ
đó, ông đã rút ra được cái kết luận là sự nảy sinh của thái dương hệ cũng giả
định sự tiêu vong tất yếu của nó trong tương lai”[18, tr.39]. Cantơ đã nhận ra
vai trò hết sức quan trọng của nhận thức lý tính với đặc trưng cơ bản là quá
trình tổng hợp. Còn người bắt tay vào giải đáp vấn đề đó với một quy mô, tầm
vóc hết sức to lớn chính là Hêghen. Mặc dù trên cơ sở duy tâm, nhưng triết


20
học Hêghen đã đem lại một bức tranh nhận thức lý luận biện chứng rất hoành
tráng về thế giới. Sự chuẩn bị của ông đã chín đến mức là chỉ cần “lật ngược”
phép biện chứng là có ngay quan điểm biện chứng khoa học về thế giới, và
nhiệm vụ này đã được Mác, Ăngghen hoàn thành xuất sắc.
1.2 Sự hình thành những quan điểm về nhận thức của Mác và
Ăngghen (giai đoạn 1843- 1846)
Cuộc cách mạng do Mác và Ăngghen thực hiện trong triết học và việc
các ông cải tạo có phê phán những thành tựu trước kia của tư tưởng loài người
không phải là những nhiệm vụ khác nhau, bài trừ lẫn nhau. Trái lại, như
Lênin đã nhấn mạnh: “Tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp
những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của loài người đã đặt ra”[46, tr.3]
Bắt đầu từ năm 1839, Mác say sưa đi vào lĩnh vực lịch sử triết học cổ
đại. Tập bút ký của ông về lịch sử triết học phái Êpiquya, phái khắc kỷ và phái
hoài nghi chứng tỏ điều đó. Ông có ý định viết một công trình nghiên cứu
chuyên về ba trào lưu triết học ấy, những trào lưu triết học đã phát triển trong
thời kỳ tan rã của xã hội cổ đại. Nhưng về sau Mác chỉ hạn chế trong phạm vi
hẹp hơn của những vấn đề dùng làm chủ đề cho Luận án tiến sỹ của ông- “ Sự
khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của
Êpiquya”, và đây cũng chính là xuất phát điểm cho quá trình hình thành nhận
thức luận của Mác.
Ngay từ “Tập bút ký” đầu tay cũng như “Bản luận án” Mác đã để tâm
vào giải quyết vấn đề làm ông băn khoăn là vấn đề quan hệ của triết học với
hoạt động thực tiễn, vấn đề vai trò của triết học trong sự phát triển của xã hội,
trong việc thực hiện công cuộc cải tạo xã hội. Mặc dù thời điểm này tầm ảnh
hưởng của quan điểm duy tâm vẫn còn rất lớn, nhưng ngay việc lựa chọn chủ
đề của luận án cũng đã nói lên sự phân kỳ đã bắt đầu giữa ông và Hêghen,
một người có thái độ miệt thị đối với các nhà duy vật cổ đại Hylạp, đặc biệt là
đối với Êpiquya. Song điều quan trọng là trong bản luận án, ông bộc lộ rõ sự

cố gắng vượt ra ngoài giới hạn quan niệm một bên là của Hêghen và một bên

21
là của phái Hêghen trẻ về vấn đề quan hệ của tư duy đối với hiện thực xung
quanh bên ngoài.
Nếu Hêghen quả quyết rằng tư duy phù hợp với tồn tại vì nó có ý thức
đầy đủ về bản chất sáng tạo của bản thân nó “cái gì hợp lý thì hiện thực và cái
gì hiện thực thì hợp lý”, thì Mác đại diện cho phái Hêghen trẻ đã đem lý tính
phê phán đối lập với thế giới “chưa được phê phán”, cho rằng mâu thuẫn giữa
ý thức có tính chất phê phán và tồn tại, xét đến cùng, là biến đổi tồn tại một
cách hợp lý, nâng tồn tại lên trình độ yêu cầu của lý tính. Sự thống nhất của ý
thức về hiện thực bên ngoài theo Mác cần phải trải qua những trình độ khác
nhau: sự hòa hợp; kết quả của sự phát triển của sự tự ý thức được thay thế
bằng một cuộc xung đột rất sâu sắc, cuộc xung đột này không thể giải quyết
bằng con đường lý luận (con đường phê phán) mà phải bằng thực tiễn.
Những lập luận này của Mác còn xa với quan niệm duy vật về ý thức và
sự tự ý thức với tính cách là những quan hệ nhất định của chủ thể đối với hiện
thực khách quan. Nhưng ở đây đã chứa đựng mầm mống của quan niệm sâu
sắc về mối tương quan biện chứng giữa hoạt động có ý thức của con người
với những tiền đề khách quan và kết quả của hoạt động đó, hay nói cách khác
mầm mống về mối tương quan giữa lý luận và thực tiễn, một trong những nội
dung của lý luận nhận thức duy vật biện chứng đã xuất hiện.
Mùa xuân năm 1843 “Báo sông Ranh” bị chính phủ Phổ đóng cửa vì
tuyên truyền tư tưởng cách mạng. Mác rời Côlônhơ đi Cơraixơnắc. Ở đây ông
chuyên chú nghiên cứu lịch sử hiện đại nhất là lịch sử cách mạng tư sản Pháp
1789-1794, đọc tác phẩm của các nhà duy vật Pháp như Rútxô, Môngtexkiơ
và chẳng bao lâu tiến tới chỗ xét lại triết học pháp quyền của Hêghen một
cách có phê phán. Nhờ công tác ở “Báo sông Ranh” ông thấy rõ ràng là cần
phải xét lại triết học đó. Kết quả của hoạt động đó của Mác được thể hiện
trong tác phẩm lớn đầu tay của Mác là “Góp phần phê phán triết học pháp

quyền của Hêghen” và “Lời nói đầu” của nó. Với tác phẩm này Mác bước đầu
xác lập nguyên tắc duy vật cơ bản đầu tiên cho lý luận nhận thức mácxít.

22
Nếu Hêghen coi cơ sở của xã hội là nhà nước và cái xuyên qua, quy định
mọi hiện tượng, quan hệ xã hội là “ý niệm hiện thực của nó” vì vậy, “lẽ ra
phải chỉ rõ nhà nước là hiện thực cao nhất của con người, là hiện thực xã hội
cao nhất của con người”, thì “Hêghen lại suy tôn con người kinh nghiệm đơn
nhất, con người kinh nghiệm, lên thành hiện thực cao nhất của nhà nước.”[29,
tr.363-364] Còn theo Mác, con người có phẩm chất xã hội đó chính là con
người hiện thực, nhân dân hiện thực, là những con người mà trong hoạt động
sống của mình đã tạo nên, quyết định những lĩnh vực sinh hoạt xã hội khác,
trong đó có nhà nước, chế độ chính trị của xã hội, khẳng định bản chất con
người hiện thực “Con người bao giờ cũng vẫn là bản chất của tất cả những tổ
chức xã hội ấy, nhưng những tổ chức này lại cũng thể hiện ra là tính phổ biến
hiện thực của con người, do đó cũng là cái chung của mọi người”[29, tr.365].
Nhận thức này của Mác đã phơi bày nguồn gốc sai lầm của triết học pháp
quyền Hêghen và đồng thời chỉ ra, hiểu biết của Mác sẽ dẫn ông gần đến quan
niệm duy vật về đời sống xã hội.
Tuy những tư tưởng này chỉ mang tính chất sơ khai, chưa thật rõ ràng
thông qua việc phê phán “triết học pháp quyền của Hêghen” nhưng những
quan niệm duy vật về đời sống xã hội là bước đệm quan trọng để từ lĩnh vực
xã hội Mác bước vào lĩnh vực hoạt động tinh thần, xây dựng một quan điểm
duy vật chắc chắn cho hoạt động nhận thức, phản ánh thế giới với tư cách là
một chỉnh thể thống nhất và toàn vẹn.
Trong việc đề xuất những tư tưởng đầu tiên về nhận thức Mác đã khẳng
định vai trò của lý luận triết học mà cụ thể là lý luận cách mạng trong “Lời
nói đầu của Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”. Với tác
phẩm này nguyên tắc căn bản của lý luận nhận thức đã thể hiện rõ nội dung là
một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận khoa học, đòi hỏi lý luận phải

được xây dựng phù hợp với yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp vô sản. Ông viết “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật
chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của

23
mình, và chỉ cần sấm sét của tư tưởng đánh một cách triệt để vào mảnh đất
nhân dân còn nguyên vẹn ấy là việc giải phóng người Đức thành con người sẽ
hoàn thành”; “ sự giải phóng người Đức là sự giải phóng con người. Đầu não
của sự giải phóng ấy là triết học, trái tim của nó là giai cấp vô sản. Triết học
không thể trở thành hiện thực nếu không xóa bỏ bản thân mình, nếu không
làm cho triết học biến thành hiện thực”[30, tr.589-590]
Đối với ông, lý luận không chỉ có nhiệm vụ nhận thức ra yêu cầu, địa vị
lịch sử của quần chúng nhân dân, mà còn phải có khả năng thâm nhập vào
quần chúng và trở thành lực lượng vật chất. Cần phải thấy rằng, với luận điểm
trên Mác đã nói cụ thể đến sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn
cách mạng của giai cấp vô sản, chứ không phải đề cập đến sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn nói chung. Dĩ nhiên, việc xác lập nguyên tắc này không
những nhằm định hướng cho sự đề xuất những tư tưởng triết học trong tác
phẩm mà còn là cho cả quá trình sáng tạo triết học Mác, chủ nghĩa Mác.
Sau những tác phẩm đầu tiên có ý nghĩa quan trọng, quan điểm cơ bản
đầu tiên để xây dựng lý luận nhận thức mácxít tiếp tục được C.Mác,
Ph.Ăngghen xác lập chắc chắn và rõ ràng trong “Bản thảo kinh tế triết học-
1844”, “Gia đình thần thánh hay là phê phán sự phê phán có tính phê phán
chống Bru-nô Bauơ và đồng bọn” qua việc đưa ra tư tưởng về lao động để
phê phán toàn diện phép biện chứng duy tâm của Hêghen, chuyển sự phê
phán này thành sự phê phán chủ nghĩa duy tâm nói chung một cách hoàn bị
nhất và có hệ thống nhất. Các ông kiên quyết phê phán toàn bộ triết học duy
tâm trước kia với đặc điểm của nó là đem đối lập lý luận với thực tiễn, tư biện
với khoa học thực nghiệm, triết lý trừu tượng với tính đảng; khẳng định vai
trò của lợi ích là yếu tố tạo ra động lực để quần chúng nhân dân thực hiện

nhiệm vụ lịch sử xã hội (còn theo phái Hêghen trẻ thì đó là vai trò quyết định
của sự tự ý thức): “ Đúng thế không phải lợi ích của sự phê phán tự mãn tự
túc, không phải lợi ích trừu tượng và giả tạo mà là lợi ích hiện thực, có tính
chất lịch sử, của quần chúng, một thứ lợi ích đưa tới khủng hoảng, đã thúc

×