Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Lý luận nhận thức của Chủ nghĩa duy vật biện chứng tt.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.19 KB, 34 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐẶNG THỊ HẠNH




LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT BIỆN CHỨNG




LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học







Hà Nội- 2011



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐẶNG THỊ HẠNH




LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT BIỆN CHỨNG



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học

Mã số: 60 22 80


Người hướng dẫn khoa học: T.S Phạm Văn Chung





Hà Nội- 2011

Mục Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài…………………………………… 01
2 Tình hình nghiên cứu………………………………………….02
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………….……… 10
4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………… 10
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu………………… 10
6 Đóng góp mới về khoa học………………………… 10
7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn….……………… 11
8 Kết cấu của luận văn………………………………………… 11
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1
Sự hình thành và phát triển lý luận nhận thức của
C.Mác và Ph.Ăngghen
1.1 Tiền đề lịch sử của sự hình thành lý luận nhận thức của Mác
và Ăngghen
1.1.1 Tiền đề triết học………………………………………………13
1.1.2 Tiền đề khoa học tự nhiên ………………………………… 18
1.2 Sự hình thành những quan điểm về nhận thức của Mác và
Ăngghen (giai đoạn 1843-1846)……………….…………………………….20
1.3 Mác và Ăngghen phát triển lý luận nhận thức
1.3.1 Mác và Ăngghen phát triển lý luận nhận thức trong nghiên
cứu kinh tế chính trị học……………………………………………………30
1.3.2 Ph.Ăngghen phát triển nhận thức luận mácxít trong nghiên
cứu khoa học tự nhiên………………………………………………………43
1.3.3 C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển học thuyết về nhận thức
trong một số tác phẩm khác………………………………………………49
Chương 2
V.I Lênin phát triển lý luận nhận thức của
chủ nghĩa duy vật biện chứng


2.1 Tiền đề lịch sử cho sự phát triển lý luận nhận thức của V.I
Lênin………………………………………………………………………. 55
2.2 V.I Lênin phát triển lý luận nhận thức (giai đoạn 1893-
1909)…………………… 57
2.3 V.I Lênin phát triển lý luận nhận thức trong thời kỳ trước và
sau cách mạng tháng Mười Nga 1917
2.3.1 Thời kỳ trước cách mạng tháng Mười……………………….73
2.3.2 Thời kỳ sau cách mạng tháng Mười…………………………83
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
MỞ ĐẦU
Sự ra đời của lý luận nhận thức duy vật biện chứng đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự phát
triển triết học Mác. C.Mác, Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và thực tiễn xã
hội để xây dựng nên lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khẳng định vai trò của nhận thức
con người trong cải tạo thế giới.
Nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri
thức về hiện thực khách quan. Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập đối với ý thức của
con người, tác động vào các giác quan sinh ra cảm giác, hình thành ý thức. Con người (cá nhân, nhóm
người, giai cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận thức. Khi nhận thức, các
yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức….của con người đều tham gia
vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức. Còn khách thể
nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong
phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với
hiện thực khách quan, phạm vi của khách thể được mở rộng đến đâu là tùy theo sự phát triển của nhận
thức, của khoa học, trước hết là của thực tiễn.

Cùng với phép biện chứng, lôgíc học, nhận thức luận mácxít có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
việc xây dựng, khái quát và giải thích đúng đắn những thành tựu mới của khoa học. Ngày nay khi khoa
học tự nhiên đang ra sức tìm kiếm một lý luận khái quát mới, những tư tưởng mới thì việc chú ý đến
những vấn đề phương pháp luận là đặc biệt quan trọng. Đó là khả năng tổng hợp ở trình độ cao, khả năng
nắm bắt và vận dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt, sáng tạo các nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện
chứng với tư cách phương pháp luận và nguyên tắc chung mà tư duy phải tuân theo trong nhận thức và
giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức, vai
trò của nhận thức luận đã tăng lên hơn bao giờ hết. Việc hiểu đúng và nắm vững lý luận nhận thức mácxít
là một điều kiện cần thiết để xem xét bản chất của đối tượng, đạt được những hiểu biết khái niệm, lý luận
khoa học về đối tượng, góp phần giải quyết được những vấn đề của thực tiễn. Thiết nghĩ việc quay trở về
với lịch sử phát triển tư tưởng của các nhà kinh điển về nhận thức là một điều cần thiết đối với những ai đã
và đang tham gia vào hoạt động lý luận. Chính vì lý do đó mà chúng tôi đã chọn đề tài Lý luận nhận thức
của chủ nghĩa duy vật biện chứng làm đề tài nghiên cứu của mình.
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung chính gồm 2 chương và 6 tiết, phần kết luận và lịch sử các
tài liệu tham khảo.







PHẦN NỘI DUNG CHÍNH

2
CHƯƠNG 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA C.MÁC VÀ
PH.ĂNGGHEN


1.1 Tiền đề lịch sử của sự hình thành lý luận nhận thức của Mác và Ăngghen
Với sự ra đời và phát triển của đại công nghiệp, vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu, chủ
nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn phát triển mới, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng lớn lên
nhanh chóng, mạnh mẽ trong lòng xã hội phong kiến. Đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã chứng minh
một cách hùng hồn mối liên hệ chặt chẽ giữa tự nhiên, xã hội và con người. Do đó việc đòi hỏi nhận thức
của con người phải tuân theo quy luật và vận động trong sự thống nhất với những quy luật của tự nhiên và
xã hội đã trở thành tất yếu.
Trong khoảng thời gian này, một xu hướng chính trị mới xuất hiện cùng với sự hình thành hình thái
kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đầu thế kỷ XIX. Họ nhận thấy cần
phải thoát khỏi sự trói buộc của ý thức hệ tư sản cũ để hình thành nên một hệ tư tưởng của riêng mình, đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn xã hội và đòi hỏi cần thiết phải có một lý luận tiên tiến khoa học để dẫn đường
cho cuộc đấu tranh của họ.
Những yêu cầu của thực tiễn xã hội đó, cùng với những thay đổi về kinh tế đã tạo tiền đề cho sự ra
đời của triết học Mác và sự phát triển khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Song, để
triết học Mác ra đời với tư cách là một hệ thống lý luận khoa học thì nhất thiết phải nói đến vai trò của
triết học trước Mác bao gồm cả hệ thống duy vật và duy tâm. Chính vì vậy, bên cạnh tiền đề về khoa học
tự nhiên, khi đề cập đến nguồn gốc cho sự hình thành và phát triển lý luận về nhận thức của chủ nghĩa
Mác không thể bỏ qua một yếu tố rất cơ bản và quan trọng đó là tiền đề triết học trước Mác.
1.1.1 Tiền đề triết học
Tiền đề triết học đầu tiên phải kể đến là triết học cổ điển Đức với hai nhà triết học tiêu biểu là
Immanuel Kant và Georg Wilhelm Friedrich Hegel.
Đóng góp đáng kể của hai nhà triết học người Đức đối với lịch sử hình thành và phát triển lý luận
nhận thức mácxít là ở những vấn đề về nhiệm vụ của triết học lý luận (đối với Cantơ đó là nhận thức
luận); nghiên cứu các hình thức, khả năng và giới hạn nhận thức của con người. Luận điểm của Cantơ: Ý
niệm không có nội dung là rỗng tuếch, trực quan không có khái niệm là mù quáng, đã đưa ra một liên hệ
quan trọng về bản chất của nhận thức mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cần phải làm sáng tỏ. Khẳng
định những điểm tích cực của triết học Cantơ, đặc biệt là việc thừa nhận tính khách quan của “vật tự nó”
đối với nhận thức của con người vì vậy, như Ph.Ăngghen đã nói, triết học lý luận của Cantơ vẫn có đóng
góp đáng kể đối với sự phát triển triết học. Ông viết: “Còn một loạt các nhà triết học khác không thừa
nhận là có thể nhận thức được thế giới, hay ít nhất cũng không thể nhận thức được thế giới một cách đầy

đủ. Trong số các nhà triết học hiện đại, phải kể đến Hium và Cantơ là những người đã đóng một vai trò rất
lớn trong sự phát triển của triết học”[23,tr.406]
Và đặc biệt là vai trò của phép biện chứng trong triết học Hêghen biểu hiện ra là lý luận nhận thức
và là hình thức cao nhất của lôgíc học, của tư duy lôgíc trước Mác. Lập trường duy tâm của Hêghen đã
cho rằng không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội

3
mà ngược lại tự nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào tư duy khách quan, tinh thần thế giới.
Song, với những đóng góp vào thành tựu vĩ đại của tư duy nhân loại, Hêghen xứng đáng là một nhà bách
khoa lúc đó. Đánh giá về vai trò của triết học Hêghen đặc biệt là Khoa học Lôgíc đối với triết học Mác,
V.I Lênin viết: “không thể hoàn toàn hiểu được “Tư bản” của C.Mác và đặc biệt là chương I của sách đó,
nếu chưa nghiên cứu kỹ và chưa hiểu toàn bộ Lôgic của Hêghen”[45,tr.190]
Sau triết học cổ điển Đức, không thể bỏ qua vai trò của triết học duy vật trước Mác đối với sự hình
thành và phát triển học thuyết Mác vể nhận thức. Chính nhờ việc khắc phục những hạn chế chủ nghĩa duy
vật trực quan thế kỷ XVII- XVIII mà Mác đã cải tạo có hệ thống phép biện chứng duy tâm của Hêghen,
xây dựng nó thành phép biện chứng thực sự khoa học là phép biện chứng duy vật.
Nhưng ưu điểm mà chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc đã đem đến là một ý nghĩa khoa học thực sự
cho phép biện chứng nói riêng, cho triết học Mác nói chung. Xét ở khía cạnh này thì không thể từ chối
công lao của Phoiơbắc: “Phoiơbắc là nhà tư tưởng duy nhất mà chúng ta nhận thấy có thái độ nghiêm túc,
phê phán đối với phép biện chứng của Hêghen; chỉ có ông mới có những phát hiện chân chính trong lĩnh
vực ấy và nói chung đã thực sự khắc phục triết học cũ. Tầm vĩ đại của cái mà Phoiơbắc đã làm, tính giản
dị khiêm tốn của ông khi ông phát biểu trước thế giới tương phản một cách lạ lùng với cái mà người ta
nhận thấy về phương diện này ở những nhà phê phán”[27, tr.219]
Như vậy, triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa
duy vật trực quan là hai tiền đề triết học cơ bản cho sự ra đời và phát triển lý luận nhận thức duy vật biện
chứng. Chính nhờ việc khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ mà Mác đã xây dựng được
nguyên tắc cơ bản đầu tiên của lý luận nhận mácxít- nguyên tắc duy vật biện chứng ngay ở những tác
phẩm đầu tiên trong giai đoạn hình thành của nó (1843-1846). C.Mác, Ph.Ăngghen trên cơ sở kế thừa
những thành tựu của các bậc tiền bối, phê phán và khắc phục những hạn chế của các ông, đã thực hiện một
cuộc cách mạng trong lịch sử triết học nói chung, trong lịch sử nhận thức luận nói riêng, xây dựng lên một

hệ thống lý luận thực sự khoa học- lý luận về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đó là nền tảng
và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con người.
1.1.2 Tiền đề khoa học tự nhiên
Những thành tựu của khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có vai trò quan trọng
không thể thiếu được cho lịch sử hình thành và phát triển nhận thức luận mácxít. Những phát minh lớn của
khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong
việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình
thành phép biện chứng duy vật trong việc giải thích thế giới, tạo điều kiện cho việc xây dựng một hệ thống
lý luận về nhận thức một cách khoa học.
Trong số những thành tựu của khoa học tự nhiên thời đó, Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát
minh lớn “đã làm cho kiến thức của chúng ta về mối liên hệ của các quá trình tự nhiên tiến lên những
bước tiến khổng lồ”: phát minh thứ nhất là sự chứng minh được sự chuyển hóa năng lượng, bắt nguồn từ
sự phát hiện ra đương lượng cơ giới của nhiệt (do Rôbơc Mayơ, Giulơ và Cônđinh), R.Maye đã nêu quy
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, sau này Lômonôxốp là người tổng hợp lại đưa ra định luật về bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng. Phát minh thứ hai là phát hiện của Svannơ và Slaiđen ra tế bào hữu cơ,
coi đó là một đơn vị mà từ đó mọi cơ thể, trừ những thể thấp nhất, sinh ra và lớn lên bằng cách sinh đôi và

4
phân hóa. Phát hiện vĩ đại thứ ba, học thuyết về sự tiến hóa, học thuyết này được Đácuyn xây dựng lên và
trình bày lần đầu tiên một cách có hệ thống.
Những phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã đánh tan quan
niệm cơ học về bức tranh của thế giới tự nhiên thế kỷ XVII-XVIII làm cho “quan niệm mới về giới tự
nhiên được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định
đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở thành
nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần
hoàn vĩnh cửu”[15,tr.471]. Đến lượt mình khoa học tự nhiên không thể tiếp tục phát triển nếu “ không từ
bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư duy biện chứng, bằng cách này hay cách khác”[15,tr.490].
Nhưng nếu tư duy biện chứng ở triết học cổ đại chỉ mới là một trực kiến thiên tài “thì đối với chúng ta nó
là kết quả của một công trình nghiên cứu khoa học chặt chẽ dựa trên kinh nghiệm và vì vậy nó thể hiện ra
dưới một hình thức dứt khoát và rõ ràng hơn nhiều”[15,tr.471]. Sự phát triển của khoa học tự nhiên lúc

này chứng tỏ một điều là đã đến lúc phải xây dựng một nhận thức triết học độc lập- nhận thức triết học
duy vật biện chứng.
1.2 Sự hình thành những quan điểm về nhận thức của Mác và Ăngghen (giai đoạn 1843-
1846)
Cuộc cách mạng do Mác và Ăngghen thực hiện trong triết học và việc các ông cải tạo có phê phán
những thành tựu trước kia của tư tưởng loài người không phải là những nhiệm vụ khác nhau, bài trừ lẫn
nhau. Trái lại, như Lênin đã nhấn mạnh: “Tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp những
vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của loài người đã đặt ra”[46,tr.3]
Giai đoạn này là sự hình thành những nguyên tắc cơ bản đầu tiên quan trọng, mang tính tư tưởng
sâu sắc, có ý nghĩa đặt nền móng cho toàn bộ quá trình sáng tạo và phát triển hệ thống lý luận nhận thức.
Những quan điểm xuất phát này cho thấy Mác đã từng bước thoát khỏi sự chi phối của nền triết học cũ,
hình thành nên một thế giới quan mới gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn chính trị- xã hội.
Các tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này có thể kể đến: “Lời nói đầu của Góp phần phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen”, “Bản thảo kinh tế triết học- 1844”, “Gia đình thần thánh hay là phê phán sự phê
phán có tính phê phán chống Bru-nô Bauơ và đồng bọn”, “Hệ tư tưởng Đức”, “ Bức thư Mác gửi P.V
Annencốp ngày 28 tháng Chạp năm 1846”,“ Sự khốn cùng của triết học”; và “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản”.
Trong việc đề xuất những tư tưởng đầu tiên về nhận thức Mác đã khẳng định vai trò của lý luận
triết học mà cụ thể là lý luận cách mạng trong “Lời nói đầu của Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen”. Với tác phẩm này nguyên tắc căn bản của lý luận nhận thức đã thể hiện rõ nội dung là một
trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận khoa học, đòi hỏi lý luận phải được xây dựng phù hợp với yêu
cầu của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Ông viết “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản
là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình, và chỉ cần
sấm sét của tư tưởng đánh một cách triệt để vào mảnh đất nhân dân còn nguyên vẹn ấy là việc giải phóng
người Đức thành con người sẽ hoàn thành”; “ sự giải phóng người Đức là sự giải phóng con người. Đầu
não của sự giải phóng ấy là triết học, trái tim của nó là giai cấp vô sản. Triết học không thể trở thành hiện
thực nếu không xóa bỏ bản thân mình, nếu không làm cho triết học biến thành hiện thực”[30,tr.589-590]

5
Đối với ông, lý luận không chỉ có nhiệm vụ nhận thức ra yêu cầu, địa vị lịch sử của quần chúng

nhân dân, mà còn phải có khả năng thâm nhập vào quần chúng và trở thành lực lượng vật chất. Cần phải
thấy rằng, với luận điểm trên Mác đã nói cụ thể đến sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn
cách mạng của giai cấp vô sản, chứ không phải đề cập đến sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nói
chung. Dĩ nhiên, việc xác lập nguyên tắc này không những nhằm định hướng cho sự đề xuất những tư
tưởng triết học trong tác phẩm mà còn là cho cả quá trình sáng tạo triết học Mác, chủ nghĩa Mác.
Khi nhận xét những quan điểm của Phoiơbắc về tôn giáo, Mác đã để lại những bút ký có giá trị to
lớn và sau này được đặt tên là “Luận cương về Phoiơbắc”. Tài liệu này được viết vào năm 1845 và bao
gồm 11 luận điểm. Nội dung tài liệu đã cho thấy những khía cạnh nội dung rất quan trọng của lý luận nhận
thức mácxít trong đó tư tưởng trung tâm là quan điểm về thực tiễn. Trong “Bút ký” thông qua việc chỉ ra
những hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy vật cũ và chủ nghĩa duy tâm, những đặc trưng của thực tiễn, vị
trí và vai trò của nó trong đời sống xã hội và trong nhận thức đã được vạch ra rõ ràng.
Sau khi chỉ ra những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật cũ chỉ xem thực tiễn chỉ là hoạt động của con
buôn đê tiện, bẩn thỉu, những dòng chữ ngắn gọn, đầy xúc tích trong “Luận cương về Phoiơbắc” đã thấm
đẫm quan điểm về thực tiễn với đặc trưng, vị trí và vai trò của nó trong đời sống xã hội và trong nhận
thức. Cụ thể, thực tiễn là quan hệ chủ thể- khách thể, là hoạt động khách quan- cảm tính, ông viết
“Phoiơbắc không hài lòng với tư duy trừu tượng, đã nhờ đến trực quan cảm tính; nhưng ông ta không coi
tính cảm giác là hoạt động thực tiễn của cảm giác con người”[34,tr.376]; là hoạt động có tính xã hội- lịch
sử và là thực chất của mọi sinh hoạt, mọi đời sống xã hội, bởi vì “mọi đời sống xã hội, về thực chất, là có
tính thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách
hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy”[34,tr.377].
Và quan trọng hơn, thực tiễn còn là hoạt động có tính phê phán- cách mạng: “Học thuyết duy vật về
sự thay đổi của hoàn cảnh và về sự giáo dục quên rằng hoàn cảnh do con người thay đổi và bản thân người
giáo dục cũng phải được giáo dục. Do vậy, học thuyết đó buộc phải chia xã hội thành hai bộ phận- trong
đó một bộ phận đứng trên xã hội. Sự trùng hợp giữa sự thay đổi của hoàn cảnh và hoạt động của con
người, hay là sự tự thay đổi, chỉ có thể được xem xét và được hiểu một cách hợp lý như là thực tiễn cách
mạng”[34,tr.371]. Trong những đặc trưng đó, thì thực tiễn là thực chất của mọi đời sống xã hội, là hoạt
động bản chất của xã hội, đó là đặc trưng cơ bản nhất. Đặc trưng về thực tiễn được Mác chỉ ra đã bao quát
hết nội dung về thực tiễn, và có thể xem đây như một định nghĩa về thực tiễn.
Quan điểm của Mác về thực tiễn được đề cập toàn diện hơn trong việc khẳng định rõ nguyên tắc cơ
bản của lý luận nhận thức về vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận thức qua luận điểm: “Vấn đề

tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một
vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý,
nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy mình. Sự tranh cãi về tính hiện
thực hay tính không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy”[34,tr.375].
Ở đây nhận thức phải chứng tỏ ý nghĩa, “sức mạnh”, tính chân lý của nó trong thực tiễn, nói cách khác,
nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn và phải được vận dụng, kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ xác định
được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, Mác đã xác định được chức năng của triết học là cải tạo thế
giới: Các nhà triết học chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau nhưng vấn đề là cải tạo thế giới.

6
Và như vậy với quan điểm về thực tiễn thì một trong những nội dung cơ bản của lý luận nhận thức duy vật
đã được xác định rõ ràng.
Vậy là, từ hoạt động thực tiễn chính trị, từ hoạt động báo chí, từ chỗ nhận ra được mối liên hệ thực
sự giữa triết học và thực tiễn, giữa tư tưởng và khát vọng về một nền triết học mới, Mác đã đặt cơ sở cho
lý luận nhận thức- nhận thức luận duy vật. Nhận thức này được xác lập từ việc lật ngược quan niệm của
Hêghen về mối liên hệ giữa nhà nước, gia đình và xã hội công dân thể hiện trong hai tác phẩm đầu tiên
đến việc làm rõ những quan niệm về con người, xã hội, về “lao động tha hóa”, đặc biệt việc hoàn thiện
những phạm trù về kinh tế như lợi ích, sản xuất vật chất, phương thức sản xuất, khái niệm “hình thức xã
hội” trong Hệ tư tưởng Đức đã cho thấy những tư tưởng duy vật khoa học về lịch sử đã được hình thành
với tư cách một hệ thống lý luận khoa học, và do đó tính chặt chẽ, rõ ràng cho việc tiến đến xây dựng một
lý luận nhận thức duy vật có cơ sở bền chặt của nó. Bên cạnh đó, nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho việc xác
lập quan điểm duy vật là cải tạo phép biện chứng của Hêghen trên lập trường duy vật, vì vậy có thể khẳng
định rằng, cùng với những tư tưởng mới về nhận thức thì sự hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
không tách rời chủ nghĩa duy vật biện chứng tuy chúng không hoàn toàn trùng khít về thời gian, điều đó
cũng có nghĩa là lý luận nhận thức của triết học Mác luôn nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với phép biện
chứng duy vật, và với quan niệm duy vật về lịch sử.
Đánh giá của Ph.Ăngghen về “Luận cương về Phoiơbắc”: “ Đó là những bút ký vội vàng để còn
nghiên cứu thêm, chứ tuyệt nhiên không phải để in, nhưng đó là những luận cương vô cùng quý giá, vì đó
là văn kiện đầu tiên chứa đựng mầm mống thiên tài của một thế giới quan mới”[25,tr.527-528] đã cho
thấy quá trình đề xuất những tư tưởng triết học mới về lịch sử làm tiền đề cho việc xây dựng hệ thống

nhận thức duy vật biện chứng đã thực hiện xong cùng với quan điểm duy vật biện chứng đã hình thành về
cơ bản. Vì vậy, trong giai đoạn từ 1843-1846 song song với hai quá trình hình thành này thì nguyên tắc
duy vật cơ bản đầu tiên, cùng với một trong nhiều nội dung của nhận thức luận duy vật biện chứng cũng
đã được đề xuất.
1.3 Mác và Ăngghen phát triển lý luận nhận thức
1.3.1 Mác và Ăngghen phát triển lý luận nhận thức trong nghiên cứu kinh tế chính trị học
Giai đoạn này là sự phát triển học thuyết cả về lý luận và thực tiễn. Giai đoạn này được tiến hành
bởi Mác và Ăngghen với các tác phẩm: “Các bản thảo kinh tế những năm 1857- 1858” và Lời nói đầu của
nó, “ Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, “ C.Mác. Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, đặc
biệt là trong “Tư bản” một công trình nghiên cứu về kinh tế vĩ đại nhất của nhà sáng lập chủ nghĩa cộng
sản khoa học. Ở đây, những phương pháp của lý luận nhận thức duy vật biện chứng: phương pháp trừu
tượng- cụ thể, phương pháp kết hợp giữa lôgíc và lịch sử đã được áp dụng vào một khoa học cụ thể, do đó
lý luận nhận thức duy vật với những nội dung mới của nó đã không còn tồn tại chỉ như là những phương
pháp chung của quá trình nhận thức khoa học nữa, mà đã mang một hình thái đặc thù- phương pháp luận
của khoa kinh tế chính trị.
Sau khi có được những điều kiện và tiền đề cần thiết, nhận thức luận duy vật đã bắt đầu bước vào
giai đoạn phát triển với những nghiên cứu đầu tiên của Mác và Ăngghen trong kinh tế chính trị học thể
hiện ở tác phẩm: “Các bản thảo kinh tế những năm 1857- 1858” và Lời nói đầu của nó.

7
“Các bản thảo kinh tế những năm 1857- 1858” có ý nghĩa như một “kế hoạch”, “một dự án” nghiên
cứu kinh tế rất toàn diện của Mác. Cùng với việc thể hiện những quan điểm duy vật sâu sắc, trong tác
phẩm này Mác đã phát triển lý luận nhận thức ở vấn đề phương pháp luận của nhận thức, làm rõ phương
pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Ngay trong “Lời nói đầu” (trích các bản thảo kinh tế năm 1857- 1858) Mác khẳng định phương
pháp của khoa kinh tế chính trị là: “từ cái cụ thể, cho sẵn trong biểu tượng, người ta đi tới những trừu
tượng ngày càng nghèo nàn hơn, cho tới khi đi đến những tính quy định đơn giản nhất…cuối
cùng,….không phải là một biểu tượng hỗn độn về một tổng thể, mà là một tổng thể phong phú với rất
nhiều tính quy định và quan hệ”[32,tr.877], rồi sau đó “cái tổng thể, như nó đã thể hiện trong trí óc với tư
cách là một tổng thể được tư duy, là một sản phẩm của bộ óc đang tư duy, bộ óc này quán triệt được thế

giới theo phương thức riêng vốn có của nó, theo một phương thức khác với phương thức quán triệt thế
giới này của nghệ thuật, tôn giáo, tinh thần thực tiễn”[32,tr.878]; và “ngay cả trong phương pháp lý luận,
chủ thể, xã hội phải thường xuyên có mặt trong quan niệm của chúng ta như là một tiền đề”[32,tr.878]
Mác cho thấy phương pháp này đòi hỏi trước hết là phải tìm ra cái trừu tượng làm điểm xuất phát
để từ đó tư duy tiến lên nắm đối tượng trong tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó. Cái trừu tượng xuất phát đó
trong nghiên cứu của Mác chính là nền sản xuất vật chất tư bản chủ nghĩa, để rồi sau đó ông xem xét toàn
bộ sự vận động của hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa với kết cấu chung tất yếu của nó trong tính
nhiều mặt, nhiều yếu tố và các mối liên hệ. Từ đây, ông mới đi đến nhận thức về xã hội tư sản với những
đặc trưng cụ thể trong tính toàn vẹn của nó. Cái chỉnh thể này là cái cụ thể, là một “tổng thể phong phú
với rất nhiều tính quy định và quan hệ”: “xã hội tư sản là một tổ chức sản xuất phát triển nhất và đại diện
nhất trong lịch sử. Vì vậy, các phạm trù biểu thị những quan hệ của xã hội đó, kết cấu của xã hội đó, đồng
thời cũng cho ta cái khả năng hiểu thấu được kết cấu và các quan hệ sản xuất của tất cả các hình thái xã
hội đã diệt vong; xã hội tư sản đã được xây dựng lên trên những tàn dư và những yếu tố của những hình
thái xã hội ấy, một phần kéo theo sau nó những tàn dư còn chưa khắc phục được, một phần thì phát triển
đầy đủ tác dụng của những cái trước kia chỉ tồn tại dưới dạng một dấu hiệu báo trước mà thôi”[33,tr.71]
Ông viết thêm: “Cái cụ thể sở dĩ là cụ thể vì nó là sự tổng hợp của nhiều tính quy định, do đó, nó là
sự thống nhất của cái đa dạng. Cho nên trong tư duy, nó biểu hiện là một quá trình tổng hợp, là kết quả,
chứ không phải là điểm xuất phát, mặc dù nó là điểm xuất phát thực sự và do đó cũng là điểm xuất phát
của trực quan và của biểu tượng. Trên con đường thứ nhất, toàn bộ biểu tượng biến một cách tinh vi thành
một tính quy định trừu tượng; trên con đường thứ hai, những tính quy định trừu tượng lại dẫn tới sự mô tả
lại cái cụ thể bằng con đường của tư duy”[32,tr.887]. Tại đây, con đường biện chứng của sự nhận thức với
đối tượng đặc thù là khoa kinh tế- chính trị đã được Mác vạch ra với hai giai đoạn, hai quá trình mà theo
cách gọi của Mác trong “Lời nói đầu” này thì quá trình đó phải trải qua hai con đường. Trên con đường
thứ nhất sự nhận thức bắt đầu từ những biểu tượng cảm tính ban đầu, được trừu tượng hóa và khái quát
hóa bằng con đường thứ hai, hiện ra với tư cách là cái cụ thể trong tính đầy đủ, trọn vẹn. Con đường thứ
hai đó của nhận thức được Mác coi như là trình độ lý luận cao hơn của quá trình nhận thức khoa học, vì
việc nhận thức một cách khoa học cái cụ thể, cái hoàn chỉnh, cái thống nhất trong vô số biểu hiện của quá
trình lịch sử của cái đó không thể thực hiện được một cách trực tiếp trong giai đoạn thứ nhất của việc
nghiên cứu nó, mà phải bước sang giai đoạn thứ hai của quá trình đó- giai đoạn nhận thức cái cụ thể trong


8
tính trừu tượng bằng con đường tư duy: “phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể chỉ là cái phương pháp
nhờ nó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái tạo nó với tư cách là một cái cụ thể trong tư duy. Nhưng
đó quyết không phải là quá trình phát sinh ra bản thân cái cụ thể”[32,tr877-878]
Đoạn văn trên, còn chỉ ra một yếu tố rất quan trọng, đặc trưng của phương pháp tư duy đi từ trừu
tượng đến cụ thể, đó là quá trình tổng hợp. Quá trình này chỉ thực sự bắt đầu khi đã nắm được cái trừu
tượng xuất phát, cái được xem là “một tính quy định trừu tượng” được tạo ra một cách “tinh vi”. Tuy
nhiên, đối với Mác “từ trừu tượng đến cụ thể” không phải là quá trình thuần túy của tư duy, mà trước hết
đó chính là quá trình phát triển khách quan của đối tượng. Quá trình ấy bắt đầu từ cái trừu tượng xuất
phát, là từ “tế bào mầm” để đi đến cái cụ thể, tức là toàn bộ đối tượng ở trạng thái trưởng thành, phát triển
nhất. Vậy để mô tả đúng quá trình ấy của sự vật thì người ta phải áp dụng phương pháp nhận thức đi từ
trừu tượng đến cụ thể, phương pháp do chính sự phát triển của đối tượng quy định, cho nên việc tái hiện
quá trình phát triển khách quan đó trong tư duy được biểu hiện thành quan hệ giữa cái trừu tượng và cái cụ
thể về lý luận: “cái tổng thể, như nó đã thể hiện trong trí óc với tư cách là một tổng thể được tư duy, là
một sản phẩm của bộ óc đang tư duy, bộ óc này quán triệt được thế giới theo phương thức riêng vốn có
của nó, theo một phương thức khác với phương thức quán triệt thế giới này của nghệ thuật, tôn giáo, tinh
thần thực tiễn”[32,tr.878]; “ngay cả trong phương pháp lý luận, chủ thể, xã hội phải thường xuyên có mặt
trong quan niệm của chúng ta như là một tiền đề”[32,tr.878]. Song, điều đáng quan tâm hơn là nội dung
khoa học lý luận nhận thức mácxít đã trở thành phương pháp đặc thù cho một khoa học mới- khoa kinh tế
chính trị để “từ cái cụ thể, cho sẵn trong biểu tượng” người ta đi tới “một tổng thể phong phú với rất nhiều
tính quy định và quan hệ”.
Trong “Lời nói đầu” một phương diện nữa của phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể cũng được
chỉ rõ, đó là mối tương quan giữa cái lôgíc và cái lịch sử. Điểm xuất phát trong nghiên cứu xã hội tư sản
là từ các tiền đề lịch sử cho sự nảy sinh của chủ nghĩa tư bản, nhưng với sự tác động của phương pháp
lôgíc thì khách thể nghiên cứu lại được quan tâm ở các mặt giữ vai trò quyết định trong quá trình phát
triển. Mác viết: “Nói chung, trong bất kỳ một môn khoa học lịch sử, xã hội nào cũng vậy, khi nghiên cứu
tiến trình của các phạm trù kinh tế cần phải thường xuyên thấy rằng chủ thể, ở đây là xã hội tư sản hiện
đại đã cho sẵn trong thực tế cũng như trong đầu óc, và vì vậy các phạm trù biểu thị những hình thái tồn tại
và những điều kiện tồn tại, thường chỉ là những mặt cá biệt của cái xã hội xác định đó, của cái chủ thể đó,
và vì thế, đối với khoa học cũng vậy, xã hội đó quyết không phải chỉ xuất hiện từ khi người ta lần đầu tiên

nói đến cái xã hội đó với tư cách là một xã hội như thế. Cần phải nắm vững điều đó, bởi vì nó cung cấp
ngay những lý do có tính chất quyết định để phân chia đối tượng”[32, tr885]
Phương pháp lôgíc cũng như nguyên tắc thống nhất giữa lôgíc và lịch sử không những có liên hệ
chặt chẽ với phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể mà còn hòa thành một khối với nó, phản ánh đối
tượng trong hệ thống phạm trù lôgích, trong quá trình vận động biện chứng của tư tưởng đi từ trừu tượng
đến cụ thể. Do vậy, việc nghiên cứu các phạm trù kinh tế trong xã hội tư sản phải được bắt đầu từ mối
quan hệ qua lại của chúng chứ không phải là trình tự lịch sử phát triển của chúng, các quan hệ phát triển
hơn có thể tồn tại về mặt lịch sử trước các quan hệ giản đơn, Mác nhấn mạnh: “Sắp xếp các phạm trù kinh
tế theo cái trình tự mà chúng đóng vai trò quyết định trong lịch sử, là một điều không thể được và sai
lầm”[32,tr.886]. Mác không theo sự dẫn dắt bởi trình tự lịch sử, mà bởi trình tự lôgíc.

9
Nội dung phương pháp luận của lý luận nhận thức tiếp tục được bổ sung trong nghiên cứu kinh tế
chính trị với các tác phẩm “ Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, “ C.Mác. Góp phần phê phán
khoa kinh tế chính trị”, đặc biệt là trong “Tư bản” một công trình nghiên cứu về kinh tế vĩ đại nhất của
nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Trước hết, Mác tiếp tục phát triển một cách sáng tạo trong “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị” và “Tư bản” nội dung phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ cái cụ thể bậc nhất đến cái cụ thể
bậc hai trên cơ sở sự thống nhất của phân tích và tổng hợp, của quy nạp và diễn dịch. Ở đây, Mác đồng
thời cải tạo một cách duy vật tư tưởng của Hêghen về sự đi lên từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, sau khi đã
rút ra cái hạt nhân hợp lý trong tư tưởng đó, gạt bỏ cái vỏ thần bí, áp dụng tư tưởng ấy vào quá trình phản
ánh được quan niệm một cách biện chứng.
Sau khi giải quyết vấn đề điểm xuất phát của việc nghiên cứu kinh tế chính trị là hàng hóa, Mác xác
minh tính tất yếu của sự tiến lên về mặt lý luận từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, từ cái đơn giản đến cái
phức tạp. Để nghiên cứu đối tượng trong tất cả tính cụ thể của nó, nghĩa là trong mọi liên hệ và quan hệ
của nó, tất nhiên phải tạm thời gạt bỏ tính muôn vẻ của những quan hệ vốn có của nó và nghiên cứu nó
dưới dạng thuần túy rồi sau đó chuyển sang nghiên cứu nó trong mọi liên hệ của nó với các hiện tượng
khác. Chẳng hạn, trước khi phân tích sản xuất tư bản chủ nghĩa trong sự thống nhất của nó với sự lưu
thông hàng hóa, lúc đầu Mác chỉ nghiên cứu sự sản xuất trên đại thể (tập I của bộ Tư bản) rồi ông nghiên
cứu sự lưu thông tư bản chủ nghĩa trong hình thức chung tách riêng khỏi sản xuất (tập II của bộ Tư bản)

và chỉ sau đó ông mới vẽ ra bức tranh toàn diện về sản xuất và lưu thông không phải để xét một cách riêng
rẽ mà cùng một lúc, trong sự thống nhất sinh động, cụ thể của chúng (tập III của bộ Tư bản)
Vận động của tư tưởng từ cái cụ thể cảm tính đến cái trừu tượng, sự vận động này đặc trưng cho sự
phân tích, có sự thống nhất của nó với tổng hợp, và do vậy sẽ làm cho sự vận động của tư tưởng từ cái
trừu tượng đến cái cụ thể được bổ sung và phát triển thêm, coi như kết quả của nhận thức và đến những
hình thức biểu hiện muôn vẻ của cái cụ thể ấy. Nhờ chuyển từ phân tích đến tổng hợp, hiện thực (khách
thể) được nghiên cứu hiện ra trước trí tưởng tượng của nhà nghiên cứu như một toàn bộ thống nhất. Nhờ
có sự phân tích và những thủ đoạn nghiên cứu khác, Mác đã phát hiện ra giá trị thặng dư; còn khi sử dụng
tổng hợp (trong sự thống nhất với phân tích) thì ông chỉ rõ giá trị thặng dư được cụ thể hóa như thế nào
trong những hình thức khác nhau của thu nhập tư bản chủ nghĩa trong lợi nhuận thương nghiệp, trong lợi
tức địa tô… Sự phân tích và tổng hợp không những nối tiếp nhau mà còn có mặt trong mỗi hành vi của
quá trình nhận thức hiện thực. Khi Mác nghiên cứu, chẳng hạn, bản chất mâu thuẫn của hàng hóa, ông
không những nhờ phân tích mà phân tích hàng hóa ra giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, mà còn dùng tổng
hợp để chỉ rằng những phương diện mâu thuẫn lẫn nhau ấy của hàng hóa là những phương diện của cái
toàn bộ thống nhất- của sản xuất và trao đổi hàng hóa giản đơn; của sản xuất và trao đổi hàng hóa tư bản
chủ nghĩa. Khi nghiên cứu giá trị thặng dư, tư bản….Mác cũng làm như vậy
Trong quá trình nghiên cứu bằng phân tích và tổng hợp Mác cũng dùng quy nạp và diễn dịch, nghĩa
là những phương pháp nhận thức, khi tư duy về cơ bản đi từ sự quan sát các sự kiện riêng biệt tới những
kết luận chung (quy nạp) và dựa vào những kết luận chung nghiên cứu những sự kiện riêng biệt (diễn
dịch). Lênin nói rằng, trong “Tư bản” Mác có hai lối phân tích- diễn dịch và quy nạp, sự phân tích cẩn
thận một số lượng lớn những sự kiện kinh tế có tính chất kinh nghiệm đi trước mọi kết luận chung trong

10
“Tư bản” và “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”. Ở Mác kết luận chung được rút ra trên cơ sở
phân tích quy nạp (gắn liền với sự phân tích diễn dịch) là cơ sở cho sự phân tích diễn dịch (gắn liền với
quy nạp) những hiện tượng mới với mục đích nhận thức về bản chất của chúng, về những quy luật phát
triển của chúng.
Quy nạp và diễn dịch cũng như phân tích và tổng hợp một lần nữa được Mác nghiên cứu không
phải như những hình thức nghiên cứu độc lập, tách rời với phương pháp biện chứng xét trong toàn bộ, mà
như là phương pháp, thủ đoạn nhận thức phục tùng những yêu cầu của phép biện chứng. Phân tích và tổng

hợp, quy nạp và diễn dịch ở Mác biểu hiện ra như những cái giống với những quá trình xảy ra trong bản
thân hiện thực (sự phân chia cái toàn bộ thành từng bộ phận, sự tổng hợp các bộ phận thành cái toàn bộ
và….) nghĩa là phản ánh những quá trình khách đó. Mác viết: “….Tiến trình của tư duy trừu tượng đi từ
cái đơn giản nhất lên cái phức tạp là phù hợp với quá trình lịch sử hiện thực”[32,tr.880]
Sau nữa, trong khi nghiên cứu tính quy luật khách quan của sự phát triển chủ nghĩa tư bản, Mác chỉ
ra rằng sự nghiên cứu lôgíc quá trình lịch sử chỉ dẫn tới sự nhận thức nó một cách thực sự khi sự nghiên
cứu ấy phản ánh quá trình lịch sử những giai đoạn cơ bản của nó một cách tuần tự như tình hình diễn ra
trong hiện thực khách quan. Về mối liên hệ này Ph.Ăngghen viết: “lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư
duy cũng phải bắt đầu từ đó, và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh quá trình lịch sử
dưới một hình thái trừu tượng và nhất quán về lý luận; nó là sự phản ánh đã được uốn nắn, nhưng là uốn
nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực đã cung cấp, hơn nữa mỗi yếu tố đều có
thể được xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới cái hình
thái cổ điển của nó”[21,tr.614-615]
Tác phẩm “Tư bản” là kiểu mẫu sáng ngời của phương pháp nghiên cứu lôgíc. Theo Mác, khi
nghiên cứu sự phát triển của khách thể nằm trong một giai đoạn phát triển nhất định của nó, không nên
nắm các yếu tố đang tác động qua lại trong kết cấu của nó theo trình tự là chúng đã xuất hiện trong tiến
trình lịch sử phát sinh, hình thành của khách thể như thế nào, mà cần phải xuất phát từ chỗ là những yếu tố
ấy chiếm vị trí như thế nào trong sự vận động và phát triển trên giai đoạn hiện tại của khách thể. Cụ thể
hơn, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tư bản- địa tô, Mác nói rằng thoạt nhìn không có gì tự nhiên hơn là
bắt đầu phân tích sản xuất tư bản chủ nghĩa từ địa tô, từ sở hữu ruộng đất bởi vì nó gắn liền với ruộng đất,
là nguồn gốc của mọi sản xuất, của mọi tồn tại, và với nông nghiệp là hình thái sản xuất đầu tiên. Nhưng
Mác lại cảnh báo rằng, không có gì sai lầm hơn thế? Dưới chủ nghĩa tư bản vấn đề đã bị thay đổi một cách
căn bản. Ở đây, tư bản đó là lực lượng kinh tế thống trị tất cả, còn sản xuất công nghiệp cũng chiếm địa vị
thống trị và chi phối tất cả các ngành sản xuất khác. Địa tô cũng bị chi phối bởi tư bản, phục tùng tư bản,
ngày càng biểu hiện là phạm trù phái sinh và thứ hai so với phạm trù tư bản, nó dần dần trở thành phạm
trù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa- địa tô tư bản chủ nghĩa. Trường hợp tương tự cũng diễn ra
khi phân tích lôgíc các phạm trù: tư bản công nghiệp- tư bản thương nghiệp- tư bản tiền tệ. Mác chỉ ra
rằng quan hệ giữa những phạm trù ấy trong kết cấu nội tại của xã hội tư bản không phù hợp với sự phát
triển lịch sử của những phạm trù ấy, sự phát triển này lại diễn ra theo trình tự ngược lại: tư bản thương
nghiệp- tư bản cho vay- tư bản công nghiệp.

Nhưng phương pháp lôgíc cũng không tách rời và đứng độc lập với phương pháp lịch sử. Điều này
được thể hiện trong việc lựa chọn điểm xuất phát làm nghiên cứu của mình. Mác đã bắt đầu từ hàng hóa

11
bởi: Một mặt nó là cái yếu tố mà từ đó bắt đầu lịch sử phát triển của sản xuất hàng hóa nói chung, và mặt
khác là “tế bào” sơ đẳng, đơn giản nhất, nó là cơ sở của toàn bộ xã hội tư sản với tư cách là giai đoạn phát
triển cao hơn của sản xuất hàng hóa. Ngay trong điểm xuất phát đó của sự nghiên cứu, do vậy có sự phù
hợp giữa yếu tố lôgíc và yếu tố lịch sử: cả trên quan điểm lịch sử của chủ nghĩa tư bản lẫn trên quan điểm
sự phản ánh lôgíc nó trong tư duy.
Hay hàng hóa với tư cách là phạm trù đầu tiên và đơn giản nhất đối với sự phân tích chủ nghĩa tư
bản, từ hàng hóa dẫn đến sự ra đời của tiền tệ trong những điều kiện lịch sử nhất định và hàng hóa đến
lượt mình lại là điểm xuất phát của sự xuất hiện tư bản (cùng với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa)
rồi tư bản với tư cách là giá trị lại có khả năng tự tăng lên bắt nguồn từ tiền tệ bằng việc chiếm hữu sản
xuất từ phái tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay và sự xuất hiện hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa sức lao
động. Ở đây tiến trình tư tưởng của Mác đi từ hàng hóa và tiền tệ (phương pháp lôgíc) với tư cách là
những hiện tượng kinh tế kém phát triển hơn, đến tư bản với tư cách là hiện tượng phát triển hơn, phù hợp
với quá trình lịch sử thực tế.
Cũng tương tự như vậy, sự nghiên cứu những hình thức của giá trị, bắt đầu từ hình thức trao đổi
giản đơn hay ngẫu nhiên, và kết thúc bằng hình thức đầy đủ hoặc mở rộng và cuối cùng là hình thức tiền
tệ của giá trị. Đồng thời người ta thấy rằng những phạm trù trừu tượng chung hơn của chính trị- kinh tế
học khác với những phạm trù cụ thể hơn của nó, phản ánh những giai đoạn sớm hơn trong sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản (hàng hóa, trao đổi, tiền tệ….). Sự quá độ từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang sản xuất
và lưu thông hàng hóa tư bản chủ nghĩa, sự quá độ từ sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối sang sản xuất giá
trị thặng dư tương đối, từ hiệp tác đến công trường thủ công và từ công trường thủ công đến đại công
nghiệp cũng chứng tỏ rằng Mác đã phản ánh cái lịch sử vào trong cái lôgíc. Trong khi nói lên tính đặc thù
cơ bản ấy của lôgíc Tư bản, Lênin viết rằng bộ Tư bản đã vạch ra lịch sử của chủ nghĩa tư bản và phân
tích những khái niệm tóm tắt lịch sử ấy.
Như vậy, tiến trình nghiên cứu một cách lôgíc, tính liên tục của các phạm trù của “Tư bản” phản
ánh những giai đoạn lịch sử cơ bản trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Mác chứng minh rằng cái
lôgíc của một khoa học thống nhất một cách khăng khít với lý luận của khoa học đó, với nội dung của

những luận điểm quan trọng nhất của khoa học đó, những luận điểm này khái quát, tổng kết lịch sử của
đối tượng được nghiên cứu và lịch sử của khoa học nghiên cứu đối tượng ấy. Chính trị kinh tế học do Mác
sáng lập ra khái quát một cách sâu sắc nhất về mặt lý luận lịch sử của chủ nghĩa tư bản và đồng thời cũng
cải tạo một cách có phê phán toàn bộ lịch sử của khoa kinh tế qua nghiên cứu hình thái tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở tài liệu của lịch sử chủ nghĩa tư bản và của lịch sử chính trị- kinh tế học coi như một
khoa học, Mác đã xác minh về mặt lý luận luận điểm về sự thống nhất giữa phép biện chứng duy vật, lôgíc
học và nhận thức luận. Trong bài “Các Mác” Lênin viết: “Trong quan niệm của Mác, phép biện chứng bao
hàm trong nó cái mà ngày nay người ta gọi là lý luận về nhận thức, nhận thức luận, lý luận này cũng phải
nghiên cứu đối tượng của mình một cách lịch sử, bằng cách nghiên cứu và khái quát nguồn gốc và sự phát
triển của nhận thức, của sự chuyển biến từ không biết đến biết”[48, tr.38]. Phép biện chứng, lôgíc học và
nhận thức luận của chủ nghĩa Mác gắn liền với lịch sử của nhận thức mà chúng ta nghiên cứu, khái quát,
tổng kết. Tất cả những cái đó chứng tỏ rằng “Tư bản” và những tác phẩm kinh tế của Mác đồng thời chính
là những công trình nghiên cứu thiên tài về triết học, trong đó những quy luật và những phạm trù quan

12
trọng nhất của phép biện chứng duy vật được nghiên cứu, những nguyên lý của nhận thức luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng được xác minh một cách khoa học.
Sau khi tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” của Mác ra đời, Ăngghen đã có bài
viết về tác phẩm này với tựa đề “C.Mác- Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”. Tại đây những nội
dung, ưu điểm và hạn chế của hai phương pháp là lịch sử và lôgíc được vận dụng trong kinh tế chính trị
học đã được Ph.Ăngghen chỉ ra, đồng thời ông cũng cho thấy sự bổ sung lẫn nhau giữa chúng. Ông viết:
“Việc phê phán khoa kinh tế chính trị, ngay cả theo phương pháp đã được xây dựng, vẫn có thể tiến hành
bằng hai cách: lịch sử hoặc lôgíc. Vì trong lịch sử cũng như trong phản ánh của lịch sử trên sách báo, tiến
trình phát triển, xét về toàn bộ, cũng đi từ những quan hệ đơn giản nhất đến những quan hệ phức tạp hơn,
nên tiến trình phát triển lịch sử của các trước tác kinh tế chính trị học cũng đem lại sợi dây chỉ đạo tự
nhiên mà sự phê phán có thể đi theo; đồng thời các phạm trù kinh tế xét về toàn bộ, cũng xuất hiện theo
một trình tự y như trong tiến trình phát triển lôgíc vậy”[21,tr.614]
Ph.Ăngghen cũng giải thích nếu sử dụng riêng phương pháp lịch sử thì “sẽ làm cho công việc trở
thành vô cùng tận”: “Lịch sử thường phát triển qua những bước nhảy vọt và những bước khúc khuỷu
quanh co, và nếu nhất định bất cứ ở chỗ nào cũng đều phải đi theo nó, thì không những sẽ phải nêu lên

nhiều tài liệu không quan trọng, mà thường thường còn phải ngắt đoạn tiến trình của tư tưởng nữa. Hơn
nữa không thể viết lịch sử kinh tế chính trị học mà lại bỏ qua lịch sử xã hội tư sản và điều đó làm cho công
việc trở nên vô cùng tận”[21,tr.614]. “Do đó, phương pháp nghiên cứu lôgíc là phương pháp thích hợp
duy nhất”. Tuy nhiên, ông hiểu phương pháp lôgíc “chẳng qua cũng là phương pháp lịch sử, có điều là nó
đã thoát khỏi hình thái lịch sử và khỏi những hiện tượng ngẫu nhiên gây trở ngại mà thôi”. Nội dung của
phương pháp lôgíc là “lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó, và sự vận động
tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng và nhất quán về
lý luận; nó là sự phản ánh đã được uốn nắn, nhưng là uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình
lịch sử hiện thực đã cung cấp, hơn nữa mỗi yếu tố đều có thể được xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó
quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới cái hình thái cổ điển của nó”[21,tr.614-615]
Không những thế, Ph.Ăngghen xem xét hai phương pháp trên không chỉ dưới hình thức chung của
chúng, tức là phương pháp biện chứng duy vật, mà còn trong hình thức lịch sử của chúng, tức là khi chúng
được áp dụng vào kinh tế chính trị học. Đó là khi chúng có đối tượng nghiên cứu là “mối quan hệ giữa
người và người, xét cho cùng là giữa giai cấp với giai cấp” và “các quan hệ đó bao giờ cũng gắn với các
vật phẩm và biểu hiện ra như là những vật phẩm” và công việc nghiên cứu phải bắt đầu từ đó để tiến lên
mô tả toàn hệ thống quan hệ của xã hội tư sản. Ăngghen khẳng định Mác là người đầu tiên đã áp dụng cái
phương pháp khoa học ấy và nhờ đó ông “đã làm cho những vấn đề khó khăn nhất trở thành đơn giản và
rõ ràng đến mức ngay cả những nhà kinh tế học tư sản bây giờ cũng có thể hiểu được”[21,tr.615-616]
Vậy là, với việc áp dụng vào một khoa học cụ thể, lý luận nhận thức duy vật với những nội dung
mới của nó đã không còn tồn tại chỉ như là những phương pháp chung của quá trình nhận thức khoa học
nữa, mà đã mang một hình thái đặc thù- phương pháp luận của khoa kinh tế chính trị.
1.3.2 Ph.Ăngghen phát triển nhận thức luận mácxít trong nghiên cứu khoa học tự nhiên
Vào những năm cuối của thế XIX tình hình chính trị, xã hội và sự phát triển khoa học tự nhiên trên
thế giới có những đặc điểm nổi bật. Xã hội ở Đức những năm 70 xuất hiện những trào lưu tư tưởng phi

13
mácxít đại diện là Látxan, Đuyrinh. Họ biểu hiện những quan điểm sai lầm về triết học, kinh tế chính trị
học và chủ nghĩa xã hội, công kích thậm tệ chủ nghĩa Mác, hướng phong trào công nhân Đức theo chủ
nghĩa cải lương. Trước tình hình cấp bách trên Ăngghen đã viết tác phẩm “Chống Đuyrinh” nhằm bảo vệ
và phát triển chủ nghĩa Mác, chống lại những quan điểm sai lầm xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Đặc biệt, vào

cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX khoa học tự nhiên đã đạt được những thành tựu quan trọng mang
tính vạch thời đại. Đó là ba phát minh lớn: định luật bảo toàn vả chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và
thuyết tiến hóa. Để hệ thống hóa những thành tựu của khoa học tự nhiên, chứng minh tính chất biện chứng
của nó, chứng minh cơ sở tự nhiên của triết học Mác, Ăngghen đã viết “Biện chứng của tự nhiên”. Trong
khi trình bày một cách rõ ràng và có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác ở cả hai tác
phẩm “Chống Đuyrinh” và “Biện chứng của tự nhiên”, những nội dung về lý luận nhận thức đã được bổ
sung và phát triển trong những hình thức mới bên cạnh những nội dung về phép biện chứng duy vật và
quan điểm duy vật lịch sử cơ bản.
Trước hết, Ăngghen đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và bản
chất của nhận thức trong “Chống Đuyrinh”. Theo Ăngghen nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan vào trong đầu óc con người: “Tất cả những ý niệm đều rút ra từ kinh nghiệm, chúng là sự
phản ánh của hiện thực, những sự phản ánh trung thành hoặc méo mó”[17,tr.892]. Nguồn gốc của sự nhận
thức là thế giới bên ngoài “chứ không phải nảy sinh ra trong óc như một sự vật của tư duy thuần
túy”[18,tr.59]
Bàn đến thực tiễn với tư cách là một nội dung quan trọng của lý luận nhận thức, Ph.Ăngghen cho
rằng, mọi tri thức khoa học của con người suy đến cùng đều sinh ra từ nhu cầu của thực tiễn, khẳng định
vai trò của thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức. Ông viết: “Cũng như tất cả các khoa học khác,
toán học sinh ra từ những nhu cầu thực tiễn của con người: từ việc đo diện tích các khoảnh đất và việc đo
dung tích của những bình chứa, từ việc tính toán thời gian và từ cơ học. Nhưng cũng như trong mọi lĩnh
vực của tư duy, đến một trình độ phát triển nào đó, những quy luật được rút ra bằng con đường trừu tượng
hóa từ thế giới hiện thực, cũng bị tách khỏi thế giới hiện thực, bị đem đối lập với thế giới hiện thực như là
một cái gì độc lập, như là những quy luật từ bên ngoài mà thế giới phải thích ứng theo”[18,tr.59]
Trong “Biện chứng của tự nhiên” Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng, chính việc con người cải biến tự
nhiên là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của sự phát triển trí tuệ của con người. Sự hình thành các
ngành khoa học cũng do sản xuất quy định: “Cần thiết phải nghiên cứu sự phát triển tuần tự của riêng từng
ngành khoa học tự nhiên. Trước hết là thiên văn học, một ngành đã vì thời tiết mà tuyệt đối cần thiết cho
những dân tộc chăn nuôi và làm ruộng. Thiên văn học chỉ có dựa vào toán học mới phát triển được. Do đó
mà người ta phải nghiên cứu cả toán học. Sau đó, đến một giai đoạn phát triển nhất định của nông nghiệp
và trong những khu vực nhất định (đưa nước lên để tưới ruộng ở Ai Cập), và nhất là cùng với sự phát triển
của thủ công nghiệp thì cơ học cũng phát triển theo. Chẳng bao lâu, cơ học lại trở nên cần thiết cho hàng

hải và chiến tranh. Cơ học cũng cần sự giúp đỡ của toán học và do đó thúc đẩy toán học phát triển. Như
thế là, ngay từ đầu sự phát sinh và phát triển của các ngành khoa học đã do sản xuất quy định”[15,tr.659]
Nhấn mạnh vai trò của tư duy đối với khả năng nhận thức Ph.Ăngghen cho rằng: “Cái mà tư duy
của chúng ta có thể nhận thức được, là căn cứ cho chúng ta thấy tư duy đã nhận thức và hàng ngày đang

14
nhận thức. Và như thế là đủ cả về mặt lượng lẫn thể chất. Trái lại, việc nghiên cứu những hình thức của tư
duy, những phạm trù lôgíc là một nhiệm vụ rất có ích và cần thiết”[15,tr.732]
Chân lý cũng là một trong những nội dung quan trọng của nhận thức luận mácxit được Ph.Ăngghen
làm rõ trong hai tác phẩm. Trước hết, Ph.Ăngghen khẳng định tính cụ thể của chân lý, ông viết: “ Vả
chăng, chúng ta chẳng việc gì phải hoảng sợ khi thấy rằng trình độ nhận thức của chúng ta hiện nay cũng
vẫn chưa phải đã là tột đỉnh hơn với tất cả những trình độ trước đây. Trình độ hiện nay đã bao quát được
một khối lượng tư liệu nhận thức to lớn và đòi hỏi người nào muốn thật sự nắm được một ngành khoa học
nào đó thì phải chuyên nghiên cứu rất sâu về ngành ấy”[18,tr.132]
Về mối quan hệ giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối: Ăngghen đã phê phán quan điểm siêu
hình của Đuyrinh cho rằng chân lý là bất biến, không phụ thuộc vào không gian và thời gian. Ăngghen nói
rằng mọi nhận thức của con người về sự vật chỉ đạt đến chân lý tương đối. Tuy nhiên, Ăngghen lại cho
rằng xét về bản tính, về sứ mệnh lịch sử thì nhận thức của con người có thể đạt đến chân lý tuyệt đối, có
nghĩa là phản ánh hoàn toàn đầy đủ và đúng đắn sự vật. Do vậy chân lý vừa có tính tương đối vừa có tính
tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối sẽ đạt được trong sự phát triển vô hạn nhận thức của con người, trong sự kế
tiếp của các thế hệ người: “Tư duy của con người vừa là tối cao vừa là không tối cao, và khả năng nhận
thức của con người vừa là vô hạn vừa là có hạn. Tối cao và vô hạn là xét theo bản tính, sứ mệnh, khả năng
và mục đích lịch sử cuối cùng; không tối cao và có hạn là xét theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong
mỗi thời điểm nhất định”[18,tr.127]
Bàn thêm về chân lý vĩnh cửu (chân lý tuyệt đối) ông viết: “Về những chân lý vĩnh cửu thì cũng
vậy. Nếu nhân loại đạt tới chỗ chỉ vận dụng toàn những chân lý vĩnh cửu, những kết quả của tư duy có giá
trị tối cao và có quyền tuyệt đối về chân lý, thì điều đó có nghĩa là nhân loại đã đạt tới một điểm mà tính
vô tận của thế giới tri thức đã cùng kiệt xét về mặt hiện thực cũng như về mặt tiềm năng, và như thế là đã
thực hiện được cái điều thần kỳ nổi tiếng là đếm được hết con số vô hạn”[18,tr.127]. Ăngghen khẳng định
cần phải có quan điểm biện chứng về chân lý. Giữa chân lý và sai lầm chỉ phân biệt nhau trong những giới

hạn nhất định, nó có thể chuyển hóa cho nhau nếu vượt qua giới hạn đó: “giữa chân lý và sai lầm, cũng
giống như tất cả những phạm trù lôgíc học vận động trong những cực đối lập, chỉ có giá trị tuyệt đối trong
một phạm vi cực kỳ hạn chế”[18,tr.132]
Có thể thấy rằng, cùng với sự phát triển của khoa học và những thành tựu của khoa học tự nhiên
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lý luận nhận thức mácxít đã thực sự khẳng định được vai trò và sức mạnh
to lớn của nó trong việc nhận thức thế giới và giải thích đúng đắn những thành tựu mới của khoa học. Đến
giai đoạn này những nguyên tắc cơ bản thuộc nội dung của lý luận nhận thức như nguyên tắc duy vật
khẳng định nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan; quan điểm cho rằng nhận thức trên cơ sở thực tiễn; cùng với vấn đề về bản chất
của nhận thức đã được Ph.Ăngghen làm rõ trong sự phê phán những quan điểm sai trái, phản khoa học của
Đuyrinh, trong mối liên hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên, điều này cũng có nghĩa rằng mỗi thành tựu của
khoa học không thể tách rời với mỗi bước phát triển của tư duy lý luận.
1.3.3 C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển học thuyết về nhận thức trong một số tác phẩm khác
Câu hỏi: “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?” đã trở thành nội dung cốt yếu
trong nhiều học thuyết triết học. Việc trả lời cho câu hỏi trên sẽ quy định khuynh hướng, tính chất của mỗi

15
trường phái triết học. Giải quyết được vấn đề cơ bản này cũng có nghĩa là sẽ tiếp tục xác lập nguyên tắc cơ
bản của lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Đây không phải là lần đầu tiên Ăngghen bàn đến nội dung
nguyên tắc này, nhưng trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” nó
đã được trình bày kèm theo những mục đích rõ ràng là nhằm thể hiện những quan điểm của ông và Mác
đối với triết học Hêghen và nhất là đối với triết học của Phoiơbắc.
Điều đầu tiên ông khẳng định: “Vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn
đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”[23,tr.403] Tiếp nữa là mối liên hệ giữa tư duy và tồn tại với khả năng
nhận thức của con người “vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại còn có một mặt khác: những suy nghĩ của
chúng ta về thế giới xung quanh ta có quan hệ như thế nào với bản thân thế giới ấy? Tư duy của chúng ta
có thể nhận thức được thế giới hiện thực không? Trong các quan niệm và các khái niệm của chúng ta về
thế giới hiện thực, chúng ta có thể phản ánh được một hình ảnh đúng đắn hiện thực không?”[23,tr.405]
Căn cứ vào câu trả lời những câu hỏi trên như thế nào, các nhà triết học chia thành hai phái, những
người thừa nhận sức mạnh và năng lực của con người có thể nhận thức, khám phá những bí mật của thế

giới khách quan và những người không thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người hay ít nhất
cũng không nhận thức được thế giới một cách đầy đủ. Ăngghen viết “Tuyệt đại đa số các nhà triết học trả
lời vấn đề có một cách khẳng định. Chẳng hạn như ở Hêghen, sự khẳng định đó tự nó đã rõ ràng: trong thế
giới hiện thực, cái mà chúng ta nhận thức được chính là nội dung mang tính chất ý thức, chính là những gì
mà nhờ đó thế giới thành ra sự thực hiện dần dần ý niệm tuyệt đối (…….) song còn có một loạt các nhà
triết học khác không thừa nhận là có thể nhận thức được thế giới một cách đầy đủ. Trong số các nhà triết
học hiện đại, phải kể đến Hium và Cantơ là những người đã đóng một vai trò rất lớn trong sự phát triển
của triết học”[23,tr.405-406]. Luận điểm trên một phần nào cho thấy nội dung trọng tâm trong những phê
phán của Ăngghen đối với triết học Hêghen trong tác phẩm này là chỉ ra mâu thuẫn sâu sắc trong học
thuyết của Hêghen. Phương pháp biện chứng do Hêghen xây dựng là tiến bộ, cách mạng, nhưng với hệ
thống duy tâm thì học thuyết của Hêghen lại thể hiện là cái đối lập với những giá trị tích cực do phương
pháp biện chứng đem lại. Điều này đã dẫn Hêghen đến việc quy quá trình nhận thức của con người lại
thành sự nhận thức về ý thức về “tinh thần tuyệt đối” chứ không phải là thế giới hiện tượng. Trái ngược
với Hêghen lại có những trường phái phủ nhận năng lực phản ánh thế giới của con người, những người
thuộc phái được gọi là những người theo thuyết bất khả tri mà tiêu biểu phải kể đến là Hium và Cantơ, cho
dù các ông có vai trò rất lớn cho sự phát triển của triết học hiện đại.
Ở đây Ăngghen rất chú ý tới câu hỏi bằng cách nào có thể bác bỏ thuyết không thể biết, và câu trả
lời đã thật rõ ràng, đó chính là thực tiễn. Thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý, là thước đo cho
nhận thức đúng đắn của con người cũng được Ăngghen bàn đến trong những dòng tiếp theo của tác phẩm
với những lời lẽ quả quyết và sâu sắc “Những gì có tính chất quyết định nhằm bác bỏ quan điểm đó thì đã
được Hêghen đưa ra, trong chừng mực quan điểm duy tâm chủ nghĩa cho phép; và những gì mà Phoiơbắc
theo quan điểm duy vật đã thêm vào, thì có tính chất sắc sảo hơn là sâu sắc. Sự bác bỏ một cách hết sức
đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực
nghiệm và công nghiệp”[23,tr.406]. Nhờ vào thực tiễn chúng ta có thể chứng minh tính đúng đắn của nhận
thức của chúng ta về hiện tượng nào đó bằng cách tự mình tạo ra những hiện tượng ấy với những điều

16
kiện của nó và bắt nó phục vụ những mục đích của chúng ta, lúc đó cái “vật tự nó” không thể hiểu được
của Cantơ sẽ không còn nữa.
Nhắc tới vấn đề chân lý, một lần nữa, trong “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ

điển Đức” ông viết: “Nhưng tất cả các mâu thuẫn ấy, một khi đã loại bỏ vĩnh viễn thì chúng ta sẽ đạt tới
cái được mệnh danh là chân lý tuyệt đối, lịch sử thế giới kết thúc, tuy vậy, lịch sử vẫn cứ phải tiếp tục diễn
ra, mặc dù nó không còn việc gì để làm nữa. Thế là lại nảy sinh ra mâu thuẫn mới, không thể giải quyết
được”[23,tr.398], và khi toàn bộ nền triết học kết thúc thì “Lúc đó người ta sẽ thôi nghĩ tới mọi “chân lý
tuyệt đối”, người ta ra sức tìm kiếm những chân lý tương đối có thể đạt được bằng những khoa học thực
chứng và bằng sự tổng hợp những kết quả của các khoa học đó bởi tư duy biện chứng”[23,tr.398]. Ở đây
Ăngghen đã tiếp tục khẳng định tư tưởng của mình trong Chống Đuyrinh và Biện chứng của tự nhiên,
quan điểm rất cụ thể là, khả năng nhận thức của con người là có hạn, “vừa là tối cao vừa là không tối cao”,
do vậy sẽ không thể có một chân lý vĩnh cửu cho nhận thức của nhân loại trước một thế giới vô tận, nếu
điều này xảy ra thì có nghĩa là mọi mâu thuẫn đã được giải quyết, và sẽ đồng nghĩa với việc “lịch sử thế
giới kết thúc” và “toàn bộ nền triết học kết thúc”. Chân lý cho nhận thức của con người phải được đặt
trong mối liên hệ giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, không có một chân lý tuyệt đối cho mọi
nhận thức khoa học.
Một tác phẩm nữa trong giai đoạn này cũng cần được đề cập đến, mặc dù nội dung về lý luận
nhận thức không nhiều, đó là tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học”.
Đây là tác phẩm được Ăngghen viết từ tháng Giêng đến tháng Ba năm 1880, bên cạnh nội dung chính là
lý luận mácxít về chủ nghĩa xã hội, thì ngay trong lời mở đầu của tác phẩm trong khi phê phán những
người bất khả tri thuộc phái Cantơ mới xuất hiện và quan điểm về “vật tự nó” không thể biết nổi tiếng của
Cantơ, Ph.Ăngghen đã thừa nhận sự hiểu biết của con người đối với mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới,
ông viết: “chúng ta chỉ có thể nói thêm rằng vào thời Cantơ, sự hiểu biết của chúng ta về những sự vật tự
nhiên hãy còn khá vụn vặt, đến nỗi ở đằng sau mỗi sự vật ấy người ta còn có thể cho rằng còn có một “vật
tự nó” bí ẩn đặc biệt nữa. Nhưng từ đó đến nay, nhờ sự tiến bộ khổng lồ của khoa học, những sự vật
không thể hiểu biết được ấy đã lần lượt được nhận thức, được phân tích và hơn thế nữa, được tái tạo
ra”[22,tr.435]
Nhắc đến vai trò của nhận thức cảm tính, mặc dù còn chưa thật sâu sắc, nhưng xem đó là giai đoạn
đầu tiên của quá trình nhận thức chân lý, Ph.Ăngghen nói thêm “Cho đến nay chưa có một trường hợp nào
buộc chúng ta phải kết luận rằng những tri giác cảm tính của chúng ta, được kiểm tra một cách khoa học,
lại gây ra trong trí óc chúng ta những biểu tượng về thế giới bên ngoài, mà xét về bản tính lại không đúng
với hiện thực, hay giữa thế giới bên ngoài và những tri giác của chúng ta về thế giới ấy, lại có một sự
không ăn khớp có tính chất bẩm sinh”[22,tr.435]

Trong bức thư gửi cho Các Cauxky vào 20 tháng Chín 1884, Ph.Ăngghen cũng một lần nữa nhắc
lại quan điểm của Mác khi ông đề cập đến một trong những yếu tố quan trọng của nhận thức lý luận đó là
sự trừu tượng hóa, xem đó là đặc trưng quan trọng để tư duy tiến đến nắm bắt đối tượng trong tính toàn
diện và đầy đủ của nó: “Mác quy nội dung phổ biến chứa đựng trong các sự vật và quan hệ vào nội dung
khái quát nhất của nó trong tư duy. Do đó, sự trừu tượng hóa của ông chỉ phản ánh dưới hình thức tư
tưởng cái nội dung đã bao hàm trong các sự vật”[20,tr.288-289]

17
Có thể nói rằng đặc điểm nổi bật của lý luận nhận thức duy vật trong giai đoạn này là nó đã được
xây dựng và phát triển trong sự phê phán thuyết bất khả tri (trước hết là của Hium và Cantơ). Tiếp nữa,
trên cơ sở đưa ra định nghĩa khoa học về chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, Ăngghen đã phân tích
quan điểm của các nhà duy vật Anh, Pháp thế kỷ XVII- XVIII và của Phoiơbắc. Ông vạch rõ hạn chế của
chủ nghĩa duy vật trước đó là mang tính chất siêu hình, máy móc và duy tâm về mặt xã hội. Kèm theo sự
phê phán này Ăngghen đưa ra những nhận xét, đánh giá về những ưu điểm và hạn chế của triết học
Hêghen một cách sắc đáng. Sau khi làm xong tất cả những điều này, Ăngghen đã trình bày một cách cô
đọng thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do hai ông thực hiện, ở đó ông chỉ ra thế giới quan mới
của các ông đã được xây dựng, thế giới quan duy vật biện chứng, và từ đây các ông đã tiếp tục thực hiện
sứ mệnh của mình là trình bày và phát triển những luận điểm về nhận thức mà Mác và ông đã đạt được
trong quá trình bảo vệ và xây dựng triết học Mác, chủ nghĩa Mác trên nền tảng thế giới quan mới đó.
Lý luận nhận thức mácxít sau khi được xác lập chặt chẽ trên nguyên tắc duy vật qua nhiều tác
phẩm tiêu biểu trong giai đoạn đầu tiên của sự hình thành (1843- 1846) đã được vận dụng vào nghiên cứu
một hình thái đặc thù của xã hội tư bản chủ nghĩa- khoa kinh tế chính trị học, nhằm đáp ứng những đòi hỏi
và yêu cầu mới, cấp bách của thực tiễn xã hội tư sản và trở thành một phương pháp đặc thù của khoa kinh
tế chính trị. Trong tiến trình nghiên cứu kinh tế chính trị học, nhận thức luận mácxít không ngừng được
phát triển lên qua mỗi thành tựu nổi bật của nó, nhất là với sự ra đời của tác phẩm Tư bản vĩ đại. Tư bản vĩ
đại vì trước tiên đó là lý luận mới về nguyên tắc, là nấc thang cao nhất của quá trình con người nhận thức
thế giới xung quanh. Có thể khẳng định “Tư bản” là nền tảng của học thuyết Mác- Lênin vĩ đại và lý luận
nhận thức đã được Mác phát triển trong mối liên hệ với toàn bộ triết học Mác nói chung, phép biện chứng,
cũng như lôgíc học nói riêng, chính vì vậy Lênin đã viết rằng: “Mác không để lại cho chúng ta “lôgíc học”
(với chữ L viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgic của “Tư bản”, và cần phải tận dụng đầy đủ nhất

lôgíc đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Trong “Tư bản”, Mác đã áp dụng lôgíc, phép
biện chứng và lý luận nhận thức (không cần ba từ: đó cùng là một cái duy nhất) của chủ nghĩa duy vật vào
một khoa học duy nhất”[45,tr.359-360]. Công trình với nội dung cực kỳ phong phú này không chỉ thâu
tóm mọi mặt đời sống xã hội, mà còn là sự thể hiện rõ ràng tính nhất quán và giá trị to lớn của các quan
điểm của Mác trong triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, và quan trọng hơn đó còn
là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân.
Ph.Ăngghen trên cơ sở kế thừa những thành tựu mà C.Mác đã đạt được tiếp tục phát triển những
nội dung mới của lý luận nhận thức dựa trên những điều kiện lịch sử cụ thể, đó là sự phát triển nhanh
chóng của khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX, cùng với nhiệm vụ bác bỏ chủ nghĩa
cơ hội, phê phán những người có tư tưởng phản chủ nghĩa Mác như Latxan, Đuyrinh; đáp ứng những yêu
cầu về lý luận và thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước Đức vào cuối thế kỷ XIX.
Đóng góp lớn của Ăngghen trong giai đoạn này là đã bổ sung nội dung mới vào nguyên tắc nhận thức duy
vật biện chứng, khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người; làm sâu sắc và phong phú những
nội dung cơ bản về bản chất của nhận thức, về vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức phản ánh
thế giới đúng đắn, chân thực đồng thời làm rõ vấn đề chân lý. Với tất cả những nội dung trên Ph.Ăngghen
đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc quan điểm của Mác về nhận thức nói riêng về triết học Mác
nói chung tạo điều kiện xây dựng nhận thức luận mácxít thành một hệ thống lý luận thực sự khoa học,

18
đảm bảo rằng mỗi một quan điểm nhận thức mới được xây dựng thì cũng đồng thời là một quan điểm biện
chứng, quan điểm duy vật lịch sử cơ bản được phát triển trong toàn bộ tiến trình hoàn thiện của chúng.


































CHƯƠNG 2
V.I.LÊNIN PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG


19

2.1 Tiền đề lịch sử cho sự phát triển lý luận nhận thức của V.I.Lênin
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chủ
nghĩa đế quốc xuất hiện càng làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn cơ bản vốn có của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản là sự phát triển không đều về kinh tế và
chính trị của nó. Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản diễn ra gay gắt. Các phong trào của
nông dân chống địa chủ phong kiến và phong trào giải phóng dân tộc phát triển gắn chặt với phong trào
cách mạng của giai cấp vô sản. Cách mạng vô sản chín muồi ở khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc.
Nước Nga là nơi tập trung những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, chế độ chuyên chế Nga hoàng cản trở
quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản, cuộc chiến tranh Nga- Nhật, khủng hoảng kinh tế làm cho đời sống
quần chúng vô cùng cơ cực. Nước Nga trở thành điểm nút tập trung những mâu thuẫn lớn của chủ nghĩa
đế quốc. Trung tâm cách mạng từ Đức chuyển sang Nga.
Để chống lại giai cấp vô sản, giai cấp tư sản đế quốc sử dụng bọn cơ hội trong phong trào công
nhân và chủ nghĩa xét lại để làm yếu phong trào cách mạng. Chủ nghĩa xét lại trở thành một hiện tượng
quốc tế. Các Đảng của quốc tế II mất vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đang chín muồi.
Một tất yếu lịch sử là phải có các đảng cách mạng kiểu mới, định ra lý luận cho các đảng đó phù hợp với
điều kiện lịch sử mới, điều kiện của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa,
đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa xét lại, thống nhất triệt để lý luận cách mạng với thực tiễn.
Giai cấp vô sản Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng mácxít kiểu mới do Lênin đứng đầu đã trở thành
đội tiên phong của giai cấp công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân Nga cùng với giai cấp nông dân đã làm
cuộc cách mạng dân chủ tư sản 1905- 1907, rồi làm cuộc cách mạng tháng Hai 1917, sau đó tiếp tục phát
triển thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, đã mở đầu thời đại mới trong lịch sử thế
giới.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dẫn tới cuộc cách mạng
trong khoa học tự nhiên, đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý học với phát minh về điện tử và cấu tạo nguyên
tử đã làm đảo lộn căn bản quan niệm về thế giới của vật lý học cổ điển, dẫn tới “cuộc khủng hoảng vật
lý”. Điều đó dẫn đến yêu cầu phải khái quát về mặt triết học, đặc biệt là về mặt nhận thức của nó, trả lời
những vấn đề mà khoa học đặt ra. Thời kỳ này còn xuất hiện nhiều trào lưu duy tâm phản động như chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, v.v…Chủ nghĩa cơ hội, xét lại thì đội lốt “đổi mới”
chủ nghĩa Mác cho thích ứng với tình thế, hòng thay đổi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử bằng các biến dạng duy tâm tôn giáo. Bọn Mensêvích, những người Nga theo chủ nghĩa

Makhơ- một thứ chủ nghĩa duy tâm chủ quan, bọn xét lại trong Quốc tế II thì cố gắng chứng minh rằng,
chủ nghĩa Mác không có cơ sở triết học, và đã không có cơ sở triết học thì không phải là một học thuyết.
Chúng hợp nhất chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Cantơ mới, mưu toan cản trở sự thâm nhập của chủ nghĩa
Mác vào nước Nga, xuyên tạc, bóp méo, hòng thủ tiêu chủ nghĩa Mác, phá hoại cơ sở lý luận của đảng vô
sản cách mạng, nhất là triết học của nó.
Đáp ứng yêu cầu lịch sử đó, yêu cầu của sự phát triển tiến bộ xã hội và của khoa học, với nhãn
quan nhạy bén và chính xác của người cách mạng, Lênin đã nghiên cứu xã hội Nga, theo dõi quá trình lịch
sử thế giới và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động nước Nga, sáng lập đảng macxít
kiểu mới ở Nga. Từ cuộc đấu tranh lý luận xuất sắc nhằm chống lại những kẻ thù tư tưởng mới, Lênin đã

20
bảo vệ và phát triển triết học Mác, lý luận nhận thức mácxít với nội dung rất phong phú và sâu sắc. Lênin
đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại
chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông đã có đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát
triển triết học Mác nói chung và lý luận nhận thức duy vật nói riêng trong giai đoạn lịch sử mới của phong
trào công nhân thế giới và của lịch sử nhân loại nói chung, giai đoạn này không tách rời sự nghiệp cách
mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở nước Nga.
2.2 V.I. Lênin phát triển lý luận nhận thức (giai đoạn 1893-1909)
Chủ nghĩa Mác được truyền bá vào nước Nga từ những năm 80 của thế kỷ XIX. Nhóm “Giải phóng
lao động” do Plêkhanốp đứng đầu có vai trò to lớn trong vấn đề này, như dịch các tác phẩm của Mác và
Ăngghen ra tiếng Nga, viết nhiều tác phẩm chống lại phái dân túy tự do chủ nghĩa, kẻ thù chủ yếu của chủ
nghĩa Mác ở Nga lúc bấy giờ. Song Plêkhanốp cũng đã phạm sai lầm nghiêm trọng trong cuộc đấu tranh
chống phái dân túy. Ông đã không đứng trên lập trường macxít để giải quyết đúng đắn vấn đề vị trí và vai
trò các giai cấp trong xã hội Nga trong cuộc cách mạng; không xác định đúng đắn các động lực của cuộc
cách mạng dân chủ tư sản đang chín muồi ở Nga lúc bấy giờ; không hiểu được vai trò cách mạng của giai
cấp nông dân là bạn đồng minh của giai cấp công nhân; có thái độ mơ hồ và thậm chí cơ hội chủ nghĩa đối
với vai trò của giai cấp tư sản tự do chủ nghĩa. Những khuyết điểm này là mầm mống của những quan
điểm mensêvích mà về sau này là của Plêkhanốp. Chính vì vậy, từ giữa những năm 90 của thế kỷ XIX,
người đã bảo vệ và phát triển hơn nữa chủ nghĩa Mác, đồng thời lãnh đạo phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân Nga là V.I. Lênin.

Trong giai đoạn mở đầu sự phát triển triết học Mác nói chung, lý luận nhận thức mácxít nói riêng,
Lênin đã viết hàng loạt các tác phẩm như“ Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống chủ
nghĩa dân chủ- xã hội ra sao?”(1894), Làm gì?(1902)”, “Một bước tiến hai bước lùi”(1904), “Hai sách
lược của Đảng dân chủ- xã hội trong cách mạng dân chủ”(1905),“Cương lĩnh của chúng ta”, “Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (Tháng 2- tháng 10.1908)
Tác phẩm“ Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống chủ nghĩa dân chủ- xã hội ra
sao?”. Trước hết, Lênin tiếp tục xây dựng nguyên tắc duy vật cơ bản của lý luận nhận thức duy vật biện
chứng bằng khái niệm hình thái kinh tế- xã hội. Việc Lênin chú ý nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế- xã
hội của Mác, bảo vệ học thuyết mácxít về sự phát triển lịch sử không tách rời sự phê phán, vạch ra hạn chế
của quan điểm duy tâm chủ quan của phái dân túy tự do chủ nghĩa. Lênin chứng minh rằng sự phát triển
xã hội là một quá trình khách quan của sự phát triển và thay đổi các thời đại lịch sử, các giai cấp, các
phương thức sản xuất, đặc biệt là các quan hệ sản xuất trong liên hệ của nó với lực lượng sản xuất. Ông
viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản
xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan
niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên”[56,tr.380]
Ở đây, lý luận hình thái kinh tế- xã hội đã chứng minh được tính chân lý của nó trong một điều kiện
lịch sử cụ thể. Tầm quan trọng của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là của học
thuyết hình thái kinh tế- xã hội đã giúp cho Lênin vạch ra khả năng phát triển của nền kinh tế Nga cũng
như toàn bộ hình thái xã hội Nga bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.

21
Thứ hai, nội dung của lý luận nhận thức duy vật biện chứng về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn đã được Lênin vận dụng vào thực tiễn cách mạng nước Nga và tồn tại dưới một hình thức mới là sự
thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng Nga.
Lý luận phải đáp ứng những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Ông yêu cầu công tác lý luận và công tác tổ
chức phải gắn chặt với nhau. Ông nhấn mạnh: “ Không ở đâu và (……)Không bao giờ có một người
mácxít nào đã xây dựng những quan điểm dân chủ- xã hội của mình trên một cơ sở nào khác, ngoài cái cơ
sở là sự phù hợp của những quan điểm ấy với hiện thực và với lịch sử những quan hệ kinh tế- xã hội nhất
định, nghĩa là phù hợp những quan hệ kinh tế- xã hội Nga”[56,tr.236-237], bởi vì “phép biện chứng chân

chính không biện hộ cho những sai lầm cá nhân; nó nghiên cứu hết sức tỉ mỉ và hết sức cụ thể sự phát
triển để chứng minh cho tính tất yếu của những sự chuyển biến đó”[36,tr.486]. Ông cũng đòi hỏi tiêu
chuẩn duy nhất của lý luận là ở tính đúng đắn của lý luận so với hiện thực “Không thể là một nhà lãnh đạo
tư tưởng mà lại không làm công tác lý luận nói trên, cũng như không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà
lại không hướng công tác đó theo những nhu cầu của sự nghiệp, mà lại không tuyên truyền trong công
nhân những kết luận của lý luận đó và không giúp đỡ họ tổ chức nhau lại”[56,tr.382].
Ở giai đoạn từ 1893- 1907, Lênin cũng đã tiếp tục phát triển những nội dung của lý luận nhận thức
mácxít để từ đó vận dụng vào nghiên cứu cuộc cách mạng dân chủ- tư sản Nga lần thứ nhất và trong xây
dựng đảng macxít kiểu mới. Lênin đã làm rõ quan niệm về chân lý, mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn,
mà ở đây là tiếp tục khẳng định và phát triển mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng
trong các tác phẩm “Hai sách lược của Đảng dân chủ- xã hội trong cách mạng dân chủ”, “Cương lĩnh của
chúng ta”, và “Làm gì ?”.
Khẳng định “không có chân lý trừu tượng. Chân lý bao giờ cũng cụ thể”[52,tr.96], với quan niệm
này Lênin đã chứng minh, một chân lý là, cách mạng Nga bắt nguồn từ cơ cấu xã hội, sự phân hóa sâu sắc
trong xã hội Nga, sự phân bố giai cấp, đặc biệt là sự hình thành hai giai cấp tư sản và vô sản ở Nga, mà cơ
cấu xã hội, sự phân hóa ấy lại bắt nguồn từ chính sự phát triển kinh tế nước Nga theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Lênin chứng minh rằng cuộc cách mạng Nga không còn là một cuộc cách mạng dân chủ- tư sản
theo đúng nghĩa của nó nữa và xu hướng của cuộc cách mạng này không những mang tính chất tư sản mà
còn mang tính chất vô sản nữa- đó là xu hướng tất yếu, thể hiện tính triệt để của cuộc cách mạng ấy. Một
cuộc cách mạng vô sản tất yếu ở Nga đó là chân lý cụ thể, chân lý ấy được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ
với nguyên lý cơ bản của phép biện chứng: “Nguyên lý cơ bản của phép biện chứng là: không có chân lý
trừu tượng, chân lý bao giờ cũng cụ thể… ”[57,tr.486]
Trên cơ sở dự đoán chính xác xu hướng tất yếu của cách mạng, bám sát vào phong trào đấu tranh
của quần chúng nhân dân, Lênin thấy rõ sự cần thiết phải sáng lập một Đảng macxít kiểu mới ở Nga, thấy
rõ sự cần thiết của một lý luận cách mạng đối với phong trào quần chúng đấu tranh tự giác, có tổ chức và
đối với sự hình thành, phát triển của đảng dân chủ- xã hội Nga. Ông nói “Không thể có một đảng xã hội
chủ nghĩa vững mạnh, nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả những người xã hội chủ nghĩa,
để họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem áp dụng lý luận đó vào những phương
pháp đấu tranh và phương sách hành động của họ”[50,tr.232]
Nếu như trong “Lời nói đầu của phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” Mác nói đến một trong

những nội dung quan trọng của lý luận nhận thức là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, cụ thể là lý

×