Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Quan niệm chính trị - xã hội của John Locke

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.03 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ DỊU





QUAN NIỆM CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CỦA JOHN LOCKE




Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ VĂN SỰ



HÀ NỘI - 2009

2
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG HÌNH
THÀNH QUAN NIỆM CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI CỦA JOHN LOCKE 9
1.1. John Locke và bối cảnh lịch sử nước Anh thế kỷ XVII 9
1.1.1. Gia đình, trường học và những tác phẩm chính 9
1.1.2. Bối cảnh lịch sử nước Anh thế kỷ XVII và ảnh hưởng của nó
đến tư tưởng chính trị - xã hội của John Locke. 12
1.2. Tiền đề lý luận hình thành quan niệm chính trị - xã hội của John
Locke 16
1.2.1. Tư tưởng chính trị - xã hội của Platon, Aristotle và ảnh hưởng
của tư tưởng này đến quan niệm chính trị - xã hội của John Locke 16
1.2.2. Tư tưởng chính trị - xã hội trong triết học Tây Âu thời Trung cổ,
Cận đại và ảnh hưởng của tư tưởng này đến sự hình thành quan niệm
chính trị - xã hội của John Locke. 21
CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN NIỆM
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA JOHN LOCKE 37
2.1. Quan niệm của John Locke về con người và quyền con người 37
2.1.1. Quan niệm của John Locke về con người cá nhân 37
2.1.2. Quan niệm của John Locke về quyền con người 45
2.2. Quan niệm của John Locke về quyền lực nhà nước 57

2.2.1 Quan niệm của John Locke về quyền lập pháp của nhà nước 57
2.2.2. Quan niệm của John Locke về sự giải thể chính quyền dân sự 70
2.3. Những mặt tích cực và hạn chế trong quan niệm chính trị – xã hội
của John Locke 76
2.3.1. Những mặt tích cực trong quan niệm chính trị - xã hội của John
Locke 76
2.3.2. Những hạn chế trong quan niệm chính trị - xã hội của John
Locke 81
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89


3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, việc nghiên cứu, giảng dạy môn lịch sử
triết học không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài vì những lí do khác nhau, nên ở Việt
Nam, phần lịch sử triết học nói chung, lịch sử triết học phương Tây nói
riêng không được quan tâm một cách đúng mức. Cùng với quá trình đổi
mới tư duy lý luận và coi trọng các nền văn hoá khác nhau, nên triết học
ngoài Mác xít ngày càng được nghiên cứu nhiều hơn.
Một trong những giai đoạn góp phần không nhỏ cho sự phát triển
của lịch sử triết học là thời kỳ Khai sáng ở Tây Âu. Đây là thời kỳ mở đầu
cho phong trào đề cao sức mạnh, sự sáng tạo, bảo vệ quyền tự do của con
người. Những tư tưởng này được đề cập trong quan niệm của một số nhà
triết học như: Descartes, Spinoza, Hobbes, Locke. Đây là những đóng góp
quan trọng cho nền triết học nhân loại, nhưng ở Việt Nam, những công
trình nghiên cứu liên quan đến các tác giả này còn hạn chế so với thời kỳ

cổ đại hay triết học cổ điển Đức. Ngay cả trong giáo trình triết học, phần
viết về các triết gia lớn thế kỷ XVII vẫn còn tản mạn, thậm chí chỉ được
đánh giá, nhận định trên phương diện nhận thức luận, bản thể luận.
Tiếp nối những giai đoạn trước, triết học Tây Âu có một vai trò quan
trọng trong tiến trình lịch sử triết học nhân loại, nhiều tư tưởng có ảnh
hưởng sâu sắc đến giai đoạn sau trong đó có triết học John Locke. Ông
được coi là người đặt nền móng cho triết học phương Tây về đề cao vai trò
của chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh cho quyền tự do, bình đẳng của con
người, ông đã gợi mở những vấn đề liên quan đến nhà nước pháp quyền.
John Locke coi việc làm sáng tỏ tố chất con người là cơ sở đi đến khẳng
định quyền công dân trong một xã hội mới khi những chướng ngại của chế

4
độ phong kiến bị gạt bỏ. Bằng trải nghiệm thực tiễn, ông đã giải đáp câu
hỏi của cuộc cách mạng tư sản về vị trí của con người trong chế độ mới
với tư cách là con người tự do.
Trong triết học của John Locke quan niệm chính trị - xã hội được xem
là hạt nhân cơ bản và được đề cập đến trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về
chính quyền, tạo tiền đề cho việc xác lập quyền tự do bình đẳng của con
người và sau này được các nhà triết học Montesquieu, Rousseau, Stuart
Mill, phát triển lên một tầm cao mới. Quan niệm chính trị - xã hội của ông
ảnh hưởng không chỉ ở Anh, Pháp mà còn ở cả Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu có hệ thống, đánh giá thực chất và ý
nghĩa lịch sử quan niệm chính trị - xã hội của John Locke trở lên cấp thiết.
Vì lí do trên, tác giả luận văn chọn: "Quan niệm chính trị - xã hội của
John Locke" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong các tác giả nước ngoài viết về thời kỳ Khai sáng, luận văn tiếp
cận được một số công trình dịch ra Tiếng Việt sau:
Công trình Lịch sử triết học và các luận đề của tác giả Samuel Enoch

Stumpt gồm hai phần: phần 1 khái quát lịch sử phương Tây nói chung,
phần 2 là tuyển tập các tác phẩm gốc của các nhà triết học phương Tây từ
thời kỳ sớm nhất đến thời hiện đại, trong đó triết học Tây Âu thời cận đại
được trình bày ở chương 3 với tên gọi: Triết học và sự khai mở thế giới
khoa học. Trong phần viết về triết học John Locke, tác giả tập trung trình
bày những vấn đề về nhận thức, lý thuyết Đạo đức và chính trị. Trong đó
những vấn đề về nhà nước, quyền tư hữu, chính quyền dân sự, quyền cai trị
là tài liệu tham khảo quan trọng của đề tài.
Cùng với Lịch sử triết học và các luận đề, công trình của tác giả
Bryan Magee là một cuốn sách có tầm quan trọng với đề tài. Câu chuyện
triết học đã trình bày khái quát triết học Tây phương từ các nhà triết học cổ

5
đại Hy lạp đến các nhà tư tưởng hiện đại, từ Platon đến Augustin, Locke và
Nietzcher. Bryan Magee đã cho người đọc những kiến thức quý giá, bổ
sung thêm về cuộc đời, hoàn cảnh lịch sử đã ảnh hưởng đến quan điểm của
các nhà triết học.
Cuốn Nhập môn triết học phương Tây của Samuel Enoch Stumpt và–
Donald Abell (Lưu Văn Hy dịch) đã đưa ra các vấn đề như thuyết tri thức,
triết học tôn giáo, siêu hình học, bản ngã cá nhân và sự bất tử triết học
chính trị- xã hội, trong đó nhà triết học John Locke được nói đến ở phần
triết học chính trị - xã hội và được khảo sát chủ yếu trong tác phẩm: Khảo
luận thứ hai về chính quyền.
Ở công trình Tuyển tập danh tác triết học từ Platon đến Derrida,
Forrest E. Baird đã thể hiện rõ tư tưởng của John Locke qua một số tác
phẩm tiêu biểu. Tiếp cận với công trình này, người đọc sẽ có những hiểu
biết cơ bản về tác phẩm của John Locke trên cơ sở so sánh với một số nhà
triết học cùng thời cũng như thấy được sự kế thừa và sáng tạo của John
Locke so với các nhà triết học trước.
Ngoài một số công trình tiêu biểu trên, luận văn còn tiếp cận được một

số cuốn sách dịch ra Tiếng Việt như: Trích văn triết học của tập thể tác giả
J. Herman Randall, Justus Buchler- Eve Shirk, Nxb. Văn học, 2006; cuốn
106 nhà thông thái của Taranốp, Nxb. Chính Trị Quốc gia Hà Nội.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây có nhiều bài viết, sách, giáo
trình về triết học phương Tây. Trong số đó phải kể đến: Nhập môn triết học
chính trị của Nguyễn Xuân Đế, Nxb. TP. Hồ Chí Minh (1994); Lịch sử tư
tưởng chính trị của Học viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính Trị Quốc Gia (2001); Lịch sử triết học phương Tây trước Mác do
Nguyễn Văn Phòng chủ biên, Nxb. Đại Học Sư Phạm (2003); Những luận
thuyết nổi tiếng thế giới của tác giả Vũ Đình Phòng, Lê Huy Hòa, Nxb.
Văn Hóa Thông Tin (2003); Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ

6
biên, Nxb. Chính Trị Quốc Gia (2004); Triết học chính trị của Montesquieu
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam của Lê Tuấn Huy,
Nxb. TP. Hồ Chí Minh (2006); Đại cương lịch sử triết học phương Tây của
các tác giả Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh, Nxb. Tổng
hợp TP. Hồ Chí Minh (2006): Lịch sử triết học phương Tây của Nguyễn
Tiến Dũng, Nxb. TP. Hồ Chí Minh (2006); 101 triết gia, Nxb. Tri Thức
(2007).
Bên cạnh các sách tham khảo, giáo trình như đã kể trên, còn có
một số bài viết đăng trên các tạp chí như: Một số tư tưởng triết học chính
trị của John Locke: Thực chất và ý nghĩa lịch sử của Đinh Ngọc Thạch,
Tạp chí Triết học số 1 - 2007; John Locke - Nhà tư tưởng lớn của phong
trào khai sáng của Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học số 2 - 2008; Quan
niệm của John Locke về sự hình thành và bản chất quyền lực nhà nước trên
Tạp chí Thông tin chính trị học số 9- 2008 và Locke và triết lí về con
người, Tạp chí Nghiên cứu con người số 3 - 2009 của Lê Công Sự.
Các tư liệu này đã nhìn khái quát về triết học Tây Âu thời cận đại, về
tư tưởng của John Locke. Đây là những tư liệu mang lại những cách đánh

giá khác nhau xung quanh quan niệm chính trị - xã hội của John Locke.
Tuy nhiên các tư liệu trên chỉ đề cập đến vấn đề dưới góc độ chính trị học,
luật học, giáo dục học thậm chí trong giáo trình cũng chỉ đề cập đến vấn đề
bản thể luận, nhận thức luận mà chưa có sự phân tích một cách hệ thống
quan niệm chính trị - xã hội của John Locke, chưa thấy ý nghĩa lịch sử tư
tưởng triết học John Locke với triết học Tây Âu thời kỳ cận đại và trong
giai đoạn hiện nay. Vì vậy, cần có cách nhìn nhận, luận giải một cách chính
xác về những đóng góp cũng như mặt hạn chế để có một quan niệm đúng
đắn và toàn diện hơn về quan niệm chính trị - xã hội của John Locke, tác
giả luận văn cố gắng đi theo hướng nghiên cứu này.


7

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn là làm rõ tư tưởng quan niệm chính trị - xã
hội của John Locke trong hai tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền
và Kinh nghiệm về nhận thức của con nguời qua đó phân tích những giá trị
và hạn chế của tư tưởng này.
- Để thực hiện mục đích trên luận văn xác định một số nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ điều kiện và tiền đề hình thành quan niệm chính trị - xã hội
của John Locke.
+ Phân tích một số nội dung qua hai tác phẩm và làm rõ những giá trị và
hạn chế trong quan niệm chính trị – xã hội của John Locke.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và dựa vào phương pháp luận Mác xít nghiên cứu lịch sử triết
học.
- Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật, phối hợp các
phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp,

đối chiếu, so sánh, khái quát hóa.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung vào một số vấn đề cơ bản trong quan niệm chính
trị- xã hội của John Locke như: con người và quyền con người, quan niệm
về quyền lực nhà nước, giá trị và hạn chế lịch sử trong quan niệm chính trị
- xã hội của John Locke.
- Luận văn khảo sát quan niệm chính trị - xã hội của John Locke chủ
yếu trong các tác phẩm Kinh nghiệm về nhận thức của con người , Khảo
luận thứ hai về chính quyền.

8

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu quan niệm chính trị - xã hội của John Locke qua
tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền, chỉ ra những đóng góp, hạn
chế của tư tưởng này.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong việc học
tập và nghiên cứu tư tưởng John Locke.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương 5 tiết.





9
CHƢƠNG 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG HÌNH THÀNH
QUAN NIỆM CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI CỦA JOHN LOCKE


1.1. John Locke và bối cảnh lịch sử nƣớc Anh thế kỷ XVII
1.1.1. Gia đình, trường học và những tác phẩm chính
John Locke sinh ngày 29 tháng 8 năm 1632 trong gia đình Thanh giáo
tại thành phố Wrington nước Anh. Cha là luật gia theo tư tưởng cấp tiến,
đứng về phe nghị viện, chống lại sự độc quyền, chuyên chế của Vua
Charles I. Ngay từ tuổi ấu thơ, cậu bé Locke đã được gia đình truyền dạy
lối sống giản dị, đức tính cần cù, tình yêu lao động và sự thật, điều này đã
tác động lớn đến sự hình thành nhân cách của triết gia về sau. Do ảnh
hưởng bởi nguồn gốc gia đình, đặc biệt là của người cha nên John Locke
luôn đấu tranh bênh vực chế độ nghị viện. Năm 1646 Locke được gửi dến
Westminster School. Đây được xem là ngôi trường tốt nhất ở nước Anh lúc
bấy giờ. Tại đây, ông không chỉ học ngữ văn Hy Lạp mà cả tiếng do Thái
cổ và tiếng ả Rập. Chính truyền thống gia đình đã giúp John Locke nhanh
chóng trưởng thành về mọi mặt. Tại trường Westminter với những kỷ luật
khắt khe đã để lại những ấn tuợng sâu sắc trong suy nghĩ của cậu bé và sau
này John Locke đã lên án hệ thống giáo dục của nước Anh với khuynh
hướng thiên về quá khứ. Điều này đã giúp John Locke đưa ra suy nghĩ của
mình xung quanh vấn đề giáo dục nhằm mục đích thay đổi những kỷ luật
hà khắc đó.
Năm 1652, John Locke học ở trường đại học Oxford nổi tiếng của anh
Quốc và đậu thạc sĩ năm 1658. Tại đây, ông say mê nghiên cứu nhiều lĩnh
vực khác nhau như ngôn ngữ, toán học, triết học. Năm 1661 tốt nghiệp thạc
sĩ và được bổ nhiệm chức danh giảng viên tiếng Hy Lạp, tiếng La Tinh.
Không chỉ dừng lại ở địa vị hiện tại mà khát vọng tri thức, lòng say mê

10
khoa học và sự quan tâm đến sức khoẻ, trạng thái tâm sinh lí của con
người đã dẫn ông đến nghiên cứu y khoa. Đây cũng chính là cơ hội để John
Locke kết bạn với bác sĩ David Thomas. Quan hệ bạn bè và công việc đã

làm cầu nối để ông tham gia vào công việc chính trị. Ông gặp Bá tước Lord
Ashley là nhà chính khách nổi tiếng, từ đây John Locke càng bị cuốn hút
vào các vấn đề chính trị đang rất nóng bỏng ở nước Anh. Ông được Ashley
mời đến Luân Đôn với tư cách là bác sĩ riêng, thư ký, người nghiên cứu,
người phụ trách đặc vụ chính trị và là một người bạn. Sống và làm việc
cạnh Ashley, Locke nhận ra mình đang ở tâm điểm của nền chính trị Anh.
Ashley đã thuyết phục vua Chales II thành lập ban thương mại và thuộc
địa, John Locke trở thành thư ký của ban này. Ông nhanh chóng hoà nhập
vào những tư tưởng tiến bộ của Ashley. Trong quá trình tham gia vào lĩnh
vực chính trị Locke đã bị ảnh hưởng rất lớn bởi những quan điểm, tư
tưởng của con người này. Do vậy những vấn đề chính trị - xã hội của
nước Anh được John Locke phản ánh rất sâu sắc trong tác phẩm Khảo
luận thứ hai về chính quyền. Không chỉ là những tư tưởng thuần tuý mà
John Locke là người tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị của nước
Anh. Những trải nghiệm đó đã giúp John Locke đưa ra những luận điểm
rất sâu sắc về vấn đề quyền con người, quyền lực nhà nước. Đúng như
Bryan Magee đã nói: “Trong số những đóng góp quan trọng của Locke có
thể kể đến… những nguyên tắc xã hội và chính trị nổi lên từ sự hỗn loạn
của nước Anh từ thế kỷ XVII" [29, 126].
Trong thời gian từ 1675 đến 1679 ông sang Pháp nghiên cứu triết học
Descartes và thiết lập mối quan hệ với một số nhà tư tưởng lớn châu Âu lúc
bấy giờ. Năm 1681, Bá tước Ashley - người đứng đầu Đảng Quê Hương,
lãnh tụ của phe nghị viện chống laị nhà vua Charles II bị kết tội phản quốc.
Là bạn thân và thư ký trung thành của Ashley nên Locke tất yếu bị liên lụy.
Sợ bị nghi ngờ dính líu đến âm mưu chống lại nhà vua nên ông trốn sang

11
Hà Lan vào năm 1683. Tại đây ông đã viết tác phẩm Lá thư về lòng khoan
dung và tác phẩm Kinh nghiệm về nhận thức của con người. Hai tác phẩm
này nhanh chóng được công chúng đón nhận và xuất bản năm 1689. Ở Hà

Lan ông vẫn tiếp tục hoạt động chính trị và trở thành người lưu vong chính
trị. Locke là người cố vấn trực tiếp cho William và vạch kế hoạch đưa
William lên làm hoàng đế thành công, Locke trở về nước Anh trên chiếc
tàu chở nữ hoàng Marry. Năm 1690, John Locke xuất bản cuốn Hai khảo
luận về chính quyền dân sự. Cuốn sách làm ông nổi tiếng với tư cách là
nhà triết học và là một nhà lý thuyết chính trị. Mặc dù trước Locke có
nhiều nhà triết học viết về lĩnh vực chính trị nhưng tác phẩm của ông vẫn
gây được tiếng vang lớn trong đời sống chính trị nước Anh đương thời, vì
tác phẩm này được xuất bản đúng lúc diễn ra những sự kiện chính trị quan
trọng ở nước Anh.
Sau cuộc cách mạng 1688, John Locke nắm giữ một số chức vụ trong
chính quyền nhưng ông ít tham gia vào hoạt động chính trị mà tập trung
thời gian cho biên soạn lại và xuất bản các tác phẩm: Kinh nghiệm về nhận
thức của con người (1683); Thư bàn về sự khoan dung (1689); Hai khảo
luận về chính quyền dân sự (1689); Một số suy nghĩ về giáo dục (1693);
Tính hợp lý của Thiên chúa giáo (1695); Lá thư gửi giám mục Worcester
(1697); Một số suy nghĩ về hậu quả của việc hạ thấp tỉ giá và tăng giá trị
của tiền tệ (1691).
Những năm cuối đời, John Locke vẫn giữ những chức vụ quan trọng
ủy viên tòa phúc thẩm, làm việc tại ủy ban thương mại và là người có đóng
góp lớn cho tổ chức này. Tuy nhiên, lĩnh vực triết học vẫn thu hút sự quan
tâm của ông và John Locke đã thành công ở cả hai lĩnh vực triết học và
chính trị. John Locke luôn đấu tranh cho lẽ phải và đôi khi nó đưa ông đến
sự không nhất quán, điều này thể hiện trong câu nói của ông: "Không có
chân lý nào được toàn bộ nhân loại thừa nhận". Tuy là người gây nhiều

12
thiện cảm, song do bị cuốn hút bởi những hoạt động khoa học - chính trị
nên Locke không có cơ hội lập gia đình, suốt đời ông sống độc thân. Năm
1700, John Locke về hưu, cơn bệnh hen suyễn mãn tính làm cho sức khoẻ

ông ngày càng suy giảm, ngày 28 tháng 10 năm 1704 tại nhà một người
bạn thân, chính khách kiêm triết gia qua đời một cách nhẹ nhàng thanh
thản.
1.1.2. Bối cảnh lịch sử nước Anh thế kỷ XVII và ảnh hưởng của nó đến
tư tưởng chính trị - xã hội của John Locke.
Locke đi nhiều, viết nhiều không chỉ ở lĩnh vực triết học mà còn cả về
giáo dục học, kinh tế, y học. Bên cạnh đó ông bị ảnh hưởng bởi những
nghiên cứu của khoa học tự nhiên nên ông là đại biểu duy cảm chủ nghĩa
điển hình. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị mà tư tưởng của những tác
phẩm đó không chỉ ảnh hưởng sâu rộng đến nước Anh đương thời mà còn
thu hút sự quan tâm của nhiều triết gia sau này như: Montesquieu,
Rousseau và có nhiều tư tưởng ảnh hưởng đến ngày nay.
Tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự say mê nghiên cứu triết học của ông là
Kinh nghiệm về nhận thức của con người viết năm 1683, trong thời gian
ông sống lưu vong tại Hà Lan. Tác phẩm này được coi là một tuyệt tác nổi
tiếng của ông liên quan đến lĩnh vực tri thức con người. Ông cho rằng tri
thức không mang tính bẩm sinh, trí năng con người lúc sinh ra như một tờ
giấy trắng và tất cả những ý tưởng của chúng ta đều xuất phát từ kinh
nghiệm. Như vậy, kinh nghiệm là nền tảng xây dựng lên “những chất liệu
của lí trí và kiến thức”. Điều này cho thấy ông là nhà duy nghiệm điển hình
ở nước Anh thế kỷ XVII.
Nếu Kinh nghiệm về nhận thức của con người là tác phẩm thành công
khi nghiên cứu về tâm sinh lý, về trí tuệ con người thì Khảo luận thứ hai về
chính quyền là tác phẩm gây tiếng vang lớn trên lĩnh vực chính trị. Tác
phẩm này được soạn thảo trong những năm Ashley (Shafterbury), John

13
Locke và những người thuộc Đảng Quê Hương tìm cách khai trừ James.
Thực chất, tác phẩm được viết để phục vụ trực tiếp cho cuộc cách mạng
Anh năm 1688. Những khủng hoảng trong đời sống chính trị, bất đồng về

tôn giáo được thể hiện rất sinh động thông qua tác phẩm Khảo luận thứ hai
về chính quyền. Locke trực tiếp đưa ra những kiến giải của mình về vấn đề
nhà nước như quyền tự nhiên, khế ước xã hội.
Những tác phẩm này phản ánh những sự kiện chính trị và quá trình tác
giả tham gia vào hoạt động chính trị và đóng vai trò như một nhân chứng
lịch sử của nước Anh lúc bấy giờ. Đó là lí do trong tác phẩm của ông có sự
kết hợp giữa lý thuyết và đời sống chính trị. Tuy nhiên, ông ủng hộ phe
nghị viện nên quan niệm của ông cũng thể hiện lập trường của tầng lớp tư
sản Anh chống lại thế lực phong kiến.
Vào giữa thế kỷ XVI - XVII, chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển
trong lòng chế độ phong kiến, cuộc cách mạng công nghiệp và những tiến
bộ khoa học kỹ thuật đang diễn ra rầm rộ ở châu Âu và nước Anh là một
trong những biểu hiện thành công của cuộc cách mạng này. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất đã đem lại những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực
đưa nước Anh lên hàng ngũ của những nước phát triển. Các công trường
thủ công đã dần dần thay thế bằng các công xưởng lớn. Chính những thành
tựu về kỹ thuật đã dần khẳng định vị thế của chế độ tư bản với chế độ
phong kiến, đã tạo nên một bước ngoặt cơ bản trong lịch sử. Để duy trì vị
thế kinh tế của mình giai cấp tư sản càng mở rộng các hoạt động thương
nghiệp, cho vay nặng lãi, thậm chí xâm nhập cả vào lĩnh vực nông nghiệp.
Công nghiệp là ngành phát triển nhất lúc bấy giờ. Để có được lợi nhuận,
giai cấp tư sản không từ một thủ đoạn nào để tước đoạt ruộng đất của nông
dân. Những người nông dân vô tội bị đuổi ra khỏi mảnh đất của mình, bị
đẩy vào con đường bần cùng hóa. Thomas More đã mô tả: "Những con cừu
xưa kia ngoan ngoãn, hiền hậu biết bao, bây giờ trở thành những con vật

14
hung hãn, tham lam, cừu ăn thịt người, phá hoại ruộng vườn, nhà cửa và
thành thị"[dẫn theo 37, 11]. Hiện tượng này diễn ra phổ biến ở nước Anh,
giai cấp tư sản tự cho mình quyền đi bóc lột nhân dân còn nhân dân lao

động sống ở các vùng nông thôn ngày càng kiệt quệ, làng quê xơ xác. Càng
thu được nhiều lợi nhuận từ việc tước đoạt ruộng đất, mở rộng thị trường
làm cho giai cấp tư sản càng lớn mạnh hơn về tiềm lực kinh tế nhưng lại
dẫn đến một mâu thuẫn mới là không có quyền lực chính trị.
Những biến động về kinh tế đã kéo theo những biến đổi sâu sắc về
mặt xã hội. Nước Anh là nước điển hình cho những mâu thuẫn xã hội trở
nên gay gắt vào thời kỳ cận đại. Tầng lớp quý tộc bị phân hóa thành hai bộ
phận: quý tộc cũ đại diện cho thế lực phong kiến, bảo vệ ngôi vua, gắn với
chế độ quân chủ chuyên chế; tầng lớp quý tộc mới gắn với quyền lợi của
giai cấp tư sản là những người có quyền lực kinh tế nhưng lại không có vị
thế chính trị. Tầng lớp này đại diện cho chế độ nghị viện và luôn có những
cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến lỗi thời. Như vậy, quan hệ sản
xuất phong kiến lúc này đang trở thành "xiềng xích" kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất mới, đại diện là giai cấp tư sản. Một tất yếu là dẫn
đến những xung đột về mặt chính trị.
Đến giữa thế kỷ XVII, chế độ phong kiến càng trở lên phản động kìm
hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giai cấp tư sản Anh càng lớn mạnh thì
càng nhanh chóng đòi hỏi xóa bỏ chế độ phong kiến. Trong lúc đó, Charles
I âm mưu phục hồi chế độ phong kiến và lợi dụng những tranh chấp trong
Nghị viện để tiến hành cuộc phản kích, dẫn đến cuộc nội chiến lần thứ hai
bùng nổ năm 1648. Cromwell (1599 - 1658) tập hợp quần chúng nhân dân
và giai cấp tư sản, quý tộc mới chống lại chế độ phong kiến nhằm thủ tiêu
vương quyền, xóa bỏ hình thức cha truyền con nối. Cuộc cách mạng thành
công, phe cách mạng thắng lợi và việc xử tử Charles I đánh dấu một bước
tiến mới của cách mạng và thiết lập nền bảo hộ của Oliver Cromwell. Sau

15
khi Cromwell qua đời càng thúc đẩy sự sụp đổ mau chóng của chế độ bảo
hộ và chế độ quân chủ được phục hồi bằng sự kiện lên nắm quyền của
Charles II, điều này đã đe dọa số phận của giai cấp tư sản và quý tộc mới.

Giữa nhà vua và Nghị viện lại xảy ra những xung đột mới.
Bên cạnh những mâu thuẫn về mặt chính trị, giai đoạn này ở nước
Anh cũng là thời kỳ rất rối ren về tôn giáo như xung đột giữa người Tin
lành, người Anh giáo vời người Công giáo đã đẩy nước Anh vào các cuộc
nội chiến kéo dài. Những xung đột trong xã hội hiện tại làm con người
hướng tới nền văn hóa Phục hưng ở thế Kỷ XVII. Phong trào cải cách tôn
giáo ở thế kỷ XVI dẫn đến những tranh cãi về khoan dung tôn giáo trong
thời gian từ 1660 - 1668. Thực chất cuộc đấu tranh tôn giáo này là sự phản
ánh cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng tư sản và phong kiến, cuộc đấu
tranh giai cấp trong xã hội Anh, khi chế độ phong kiến đang suy tàn và
chế độ tư sản đang khẳng định vị trí của mình trên vũ đài quốc tế. Những
điều kiện kinh tế, xã hội nước Anh đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng
của John Locke và đó là lí do trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính
quyền ông sử dụng nhiều điển tích tôn giáo và thể hiện tính không triệt để
trong quan niệm của mình.
Cuộc cách mạng 1688 nổ ra chấm dứt thời kỳ xung đột chính trị, tôn
giáo, James II bị trục xuất ra khỏi nước Anh và William lên nắm quyền mở
ra một thời kỳ mới của chế độ quân chủ lập hiến. Với tư cách là một chứng
nhân lịch sử, John Locke đã thể hiện rất sinh động những biến cố lịch sử
trong một số các tác phẩm của ông.
Tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền ra đời trong điều kiện
nước Anh rơi vào cuộc khủng hoảng trên mọi lĩnh vực như kinh tế, chính
trị, xã hội, tôn giáo. Mâu thuẫn xã hội gay gắt giữa tư sản và chế độ phong
kiến lỗi thời, cách mạng và phản cách mạng, giữa tiến bộ và bảo thủ, mâu
thuẫn giữa nhân tính và phi nhân tính. John Locke đã có lời giải đáp cho

16
lịch sử. Vì thế, tác phẩm nhanh chóng ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội và
được xem là "một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nền chính trị học
nhân loại" [24, 9]. Trong suốt cuộc đời mình, John Locke không ngừng đấu

tranh cho tự do cá nhân, bảo vệ quyền con người, chống chế độ độc tài. Với
những đóng góp trên, ông xứng đáng là người đặt nền móng cho triết học
Khai sáng. Mác đã khẳng định sự ảnh hưởng cuả Locke với phong trào
Khai sáng: "Chủ nghĩa duy vật Pháp có hai phái, một phái bắt nguồn từ
Descartes, một phái bắt nguồn từ Locke" [27, 91]. Chúng ta có thể tìm thấy
dấu ấn của Locke trong trước tác các nhà triết học Khai sáng Pháp như
Montesquieu, Rousseau - những người tạo ra con đường theo hướng đi
mới.
1.2. Tiền đề lý luận hình thành quan niệm chính trị - xã hội của John
Locke
Những tư tưởng về quyền tự do, chủ nghĩa cá nhân, nhà nước pháp
quyền ở phương Tây dã có từ thời cổ đại. Càng về sau những tư tưởng này
càng được phát triển mạnh mẽ. Vì thế Locke có điều kiện kế thừa những tư
tưởng thời trước một cách hệ thống và tiếp thu những quan điểm đó để
hoàn thiện hơn quan niệm chính trị - xã hội của ông.
1.2.1. Tư tưởng chính trị - xã hội của Platon, Aristotle và ảnh hưởng của
tư tưởng này đến quan niệm chính trị - xã hội của John Locke
Nói đến thời kỳ cổ đại không thể không kể đến hai đại biểu tiêu biểu
nhất là Platon và Aristotle.
Platon (427- 327 - TCN) đưa ra quan niệm chính trị pháp lí đại diện
cho lý tưởng cao đẹp được thể hiện trong hai hội thoại nổi tiếng Nhà nước
và Pháp luật. Từ những tư tưởng về đạo đức đã hình thành trong ông quan
niệm về một nhà nước lí tưởng. Ông cho rằng, một nhà nước tốt đồng nghĩa
với có một chính phủ tốt. Điều ông đặc biệt quan tâm đó là phải xây dựng
một chính phủ tốt và buộc các nhà cai trị phải tự giáo dục mình. Platon đưa

17
ra đề nghị về một nhà nước kiểu quân chủ - chính phủ của các nhà thông
thái, trong đó các triết gia lãnh đạo nhà nước, các chiến binh thực hiện vai
trò của nhà nước và thợ thủ công là công dân của nhà nước.

Platon cho rằng việc chuyển hóa quyền lực trong xã hội là do sự đối
kháng về quyền lợi và sự vận động về chính trị. Ông đề nghị tiêu chuẩn về
nhân cách của một nhà cai trị, xem đó là một yếu tố quan trọng của phép trị
nước. Người lãnh đạo nhà nước lí tưởng phải là các triết gia thông minh, có
trí tuệ sâu sắc thể hiện ở nghệ thuật làm chính trị để giải quyết và quản lí
các công việc chung. Ngoài ra nhà cai trị phải là người có uy tín, yêu
thương nhân dân mà không cần dùng đến vũ lực.
Bên cạnh đó, Platon cảnh báo về nguy cơ lạm dụng quyền lực của các
chế độ nhà nước như: Chế độ quân chủ - sự cầm quyền của một người có
thể trở thành nền bạo chính; chế độ quý tộc - sự cầm quyền của một số ít
người có nguy cơ trở thành chế độ đầu sỏ; chế độ dân chủ - sự cầm quyền
của đa số nhân dân có thể trở thành chế độ mị dân. Sự biến chất này diễn ra
vì các nhà cầm quyền có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến lợi ích của bản
thân và lợi ích vị kỷ nhiều hơn là vì nhân dân. Ông cho rằng, nguyên nhân
là do sự suy đồi về đạo đức nên ông luôn quan tâm đến giáo dục đạo đức, lí
tưởng cho nhà cai trị. Platon khuyên người cầm quyền phải biết khước từ
đúng lúc những khát vọng của mình hướng tới chân lí và chính nghĩa.
Song một thực tế của xã hội Hy Lạp đã mang lại cho Platon một sự
thực cay đắng. Ông nhận ra đó là một điều không tưởng và điều này đã làm
thay đổi một quyết định của ông đó là phải có sự kết hợp giữa trí tuệ và
quyền lực. Ông gắn nhà nước lí tưởng với quyền tối thượng của luật pháp
và mọi công dân đều phải phục tùng luật pháp. Do vậy, nhà nước không thể
trông chờ vào một vài cá nhân vì ngay cả đối với bản thân nhà cầm quyền
vì lợi ích của cá nhân có thể thay đổi ý kiến và sở thích của bản thân nên dễ
gây ra sự hỗn loạn trong lĩnh vực lập pháp. Thông qua đó Platon đề cao vai

18
trò của pháp luật. Đây là phương tiện hữu hiệu nhất để đảm bảo xã hội phát
triển trong trật tự ổn định, đảm bảo tự do của cá nhân đồng thời hạn chế sự
tuỳ tiện của nhà cầm quyền. Cá nhân phải phục tùng tuyệt đối nhà nước của

mình và tự do của nhân dân chỉ được thừa nhận ở mức độ cần thiết cho nhà
nước. Trong quan niệm chính trị - xã hội của Platon có nhiều mâu thuẫn.
Một mặt ông cho rằng phải xóa bỏ sở hữu tư nhân và thiết lập sở hữu cộng
đồng. Mặt khác ông cho rằng cần phải duy trì sự bất bình đẳng trong xã
hội. Ông đưa ra mô hình nhà nước lí tưởng, chống lại nhà nước Athen
nhưng lại bảo vệ nền quý tộc chủ nô.
Bên cạnh tư tưởng của Platon, John Locke còn có điều kiện kế thừa tư
tưởng của Aristotle (384 -322 - TCN), người được xem là nhà bác học
thiên tài của nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Ông đã để lại cho nhân loại một
di sản tri thức đồ sộ về nhiều lĩnh vực khác nhau như: triết học, vật lí, chính
trị. Aristotle xuất phát từ vấn đề con người. Đây được xem là nội dung
quan trọng trong thế giới quan của ông "nhận thức linh hồn con người thúc
đẩy mọi chân lí nhất là nhận thức giới tự nhiên" [dẫn theo 72, 206]. Ông
cũng giống với Protagore đề cao vai trò của con người trong thế giới, coi
"con người là thước đo của vạn vật". Aristotle phát triển tư tưởng này và
cho rằng cái thần thánh là thước đo của nhân tính nhưng ở Aristotle đề cao
con người đức hạnh. Đức hạnh của con người được đo bằng chính trí tuệ
của họ. Điều này làm Aristotle rơi vào thuyết chủ trí về đạo đức của các
bậc tiền bối khi cho rằng con người có đức hạnh bao giờ cũng là con người
có trí tuệ, người có trí tuệ kém phát triển thì không có khả năng thực hiện
cái thiện còn các nhà khoa học thì đương nhiên có trí tuệ.
Theo Aristotle, con người có hai phần đó là phần xác và phần linh
hồn, giữa chúng có sự gắn bó hữu cơ với nhau nhưng phần hồn quan trọng
hơn và tồn tại vĩnh viễn nên con người phải chăm lo cho phần hồn của
mình. Tuy nhiên, muốn nhận thức được con người phải đặt trong mối quan

19
hệ cộng đồng vì bản thân con người là có tính cộng đồng. Hình thức tổ
chức đời sống cộng đồng trong một thể chế nhất định được người ta gọi là
nhà nước.

Nghiên cứu về nhà nước Aristotle có hai tác phẩm tiêu biểu là Hiến
pháp Athen và Chính trị. Mở đầu tác phẩm Chính trị, Aristotle khẳng định:
"Mỗi quốc gia là một loại cộng đồng và mọi cộng đồng được thiết lập là
nhằm một lợi ích nào đó bởi vì loài người luôn hành động để đạt được mục
tiêu mà họ cho là tốt" [dẫn theo 51, 363]. Theo ông, loại cộng đồng đầu tiên
là sự kết hợp giữa nam và nữ; cộng đồng thứ hai là sự kết hợp giữa người
cai trị và nô lệ. Điều này tất yếu làm nảy sinh cộng đồng thứ ba là gia đình,
một nhóm gia đình hợp thành một làng và các làng hợp lại với nhau hình
thành nhà nước để mọi người sống tốt với nhau chứ không phải sự tồn tại
thuần túy.
Aristotle là người đầu tiên phân loại quyền lực thành quyền lập pháp,
hành pháp và cơ chế vận hành của nhà nước. Quyền lực nhà nước là yếu tố
tất yếu lãnh đạo tổng thể công dân và quan tâm đến đời sống của công dân.
Từ đó ông rút ra một kết luận quan trọng là nhà nước không thể không có
pháp luật. Ông đề cao vai trò của pháp luật và coi đó là phương tiện mang
lại tính hiệu quả vì chỉ có pháp luật mới mang tính khách quan vô tư và phù
hợp với mục đích của nhà nước. Ông phân loại chính phủ dựa trên tiêu chí
số lượng và chất lượng người cầm quyền. Về điểm này Aristotle giống với
Platon và là điều mà sau này John Locke kế thừa. Theo Aristotle, chính phủ
gồm hai loại, chính phủ chân chính vì mục đích chung như chế độ dân chủ,
chế độ quý tộc, chế độ ôn hòa còn lại là chính phủ biến chất. Từ thực tế của
xã hội Hy Lạp cổ đại, Aristotle chỉ rõ chế độ dân chủ có thể trở thành chế
độ mị dân và độc tài nếu luật pháp bị thay thế bởi lợi ích của cá nhân là
những kẻ xu nịnh, gian sảo và tham lam quyền lực. Chế độ dân chủ cũng
như những chế độ khác đều có nguy cơ của sự biến chất. Nếu Platon cho

20
rằng chế độ dân chủ là cơ sở của nhà nước lý tưởng thì theo Aristotle hình
thức chính phủ tốt nhất là Politia tức là chế độ dân chủ ôn hòa, chế độ này
giữ lại nhiều điểm tích cực của chế độ quý tộc và loại bỏ những điểm hạn

chế của chế độ dân chủ.
Nghiên cứu về các loại hình chính phủ là một trong những công trình
to lớn và đồ sộ thể hiện nét sắc sảo, phương pháp khách quan, hiện thực
của Aristotle. Ông chỉ rõ các chế độ nhà nước rất khác so với hình thức bề
ngoài của nó và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến chất bất cứ lúc nào. Vì thế, cần
có biện pháp tăng cường tính hiệu lực của pháp luật. Theo Aristotle, ở đâu
mà pháp luật không có sức mạnh thì ở đó không có chỗ cho thiết chế nhà
nước.
Trong quan điểm của Aristotle còn tồn tại nhiều điểm hạn chế như cho
rằng địa vị xã hội là tiền định nên có người sinh ra đã là nô lệ, có người
sinh ra đã là chủ nô. Sở dĩ có hạn chế này là do ông chịu ảnh hưởng tư
tưởng của xã hội chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổ đại, một chế độ xã hội hạn chế
quyền tự do của người lao động và nô lệ. Song trong quan niệm chính trị -
xã hội Aristotle đã thể hiện tư duy quan sát thực tế chính trị một cách sắc
sảo nên các tư tưởng của ông sau này được nhiều nhà triết học vận dụng.
Những đóng góp của các nhà tư tưởng Cổ đại, tiêu biểu là Platon và
Aristotle đã khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật, cơ chế cầm quyền
của nhà nước. Đặc biệt, hai ông đã lấy con người, nhu cầu con người làm
điểm xuất phát cho học thuyết chính trị của mình. Tư tưởng nhà nước của
các nhà triết học Hy Lạp Cổ đại đã đề cao vai trò của pháp luật và sau này
được các nhà Khai sáng phát triển lên học thuyết về Tam quyền phân lập.
Khẳng định vai trò của các triết gia thời kỳ Cổ đại, Ăngghen viết: "Không
có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã thì không có châu
âu hiện đại” [28, 254].

21
1.2.2. Tư tưởng chính trị - xã hội trong triết học Tây Âu thời Trung cổ,
Cận đại và ảnh hưởng của tư tưởng này đến sự hình thành quan niệm
chính trị - xã hội của John Locke.
Thời kỳ trung cổ lại tiếp tục phát triển quan niệm về chính trị - xã hội

của giai đoạn trước. Những vấn đề về con người, chủ nghĩa cá nhân được
làm rõ hơn nhờ vào những quan niệm của đạo Thiên chúa, nhất là vấn đề
về linh hồn con người. Nét nổi bật nhất của tư tưởng chính trị phương Tây
thời kỳ này là hệ tư tưởng thần học của Thiên chúa giáo trở thành tư tưởng
thống trị, nó ảnh hưởng và chi phối các khuynh hướng khác nhau. Ăngghen
nhận định: "Trong tay bọn giáo sĩ, chính trị, luật học cũng như tất cả các
ngành của các khoa học khác, vẫn là những ngành của khoa thần học và
những nguyên lí thống trị thần học cũng được áp dụng cho chính trị và thần
học" [28, 193].
Nói đến tiền đề tư tưởng của quan niệm chính trị của John Locke
không thể không kể đến Augustin (354 - 430) và Thomas d’Aquin (1225 -
1274). Đây là những đại biểu tiêu biểu thể hiện rõ nhất tư tưởng của thần
học, nghiên cứu con người và nhà nước theo những chiều hướng khác
nhau.
Nếu Aristotle đề cao con người đức hạnh thì Augustin lại quan tâm
đến con người ở góc độ "cái tôi" trong tính cá nhân riêng biệt của nó. Theo
ông, không gì quan trọng hơn cái tôi, Augustin đã cố gắng làm sáng tỏ
những thuộc tính bên trong con người. Ông đi đến một giả định con người
gồm thể xác và linh hồn, thể xác ở bên ngoài, linh hồn ở bên trong. Giữa
chúng có mối liên hệ với nhau nhưng thể xác chỉ là chỗ trú ngụ tạm thời
của linh hồn mà thôi, còn linh hồn là bất tử và tồn tại vĩnh viễn. Ông coi
việc đi sâu vào bên trong linh hồn con người là cách con người tiến tới
chúa. Ngay sau đó ông lại phát hiện ra tính mâu thuẫn trong "cái tôi" của
con người là làm sao có thể dẫn con người đạt được tính chân thực tuyệt

22
đối. Ông cho rằng con người không có khả năng chân thực với bản thân
mình và đối với Chúa. Ông đưa ra luận điểm nổi tiếng: "Tôi mắc sai lầm,
lừa dối mình do vây tôi tồn tại" [dẫn theo 21, 208]. Mặc dù, Augustin mâu
thuẫn từ lập trường tôn giáo đó là ý chí tự do nhưng ông đã tìm thấy sức

mạnh ý chí bên trong con người. Đây là cơ sở để các nhà tư tưởng Khai
sáng sau này kế thừa và khẳng định quyền tự do của con người trên thực tế.
Augustin quan niệm về bản chất của cái ác là không mang tính thực
thể, không có nguồn gốc tồn tại của riêng mình, cái ác và cái thiện là hai
thực thể tồn tại song song. Ông phân biệt ba cấp độ của cái ác là: siêu hình
học, đạo đức và vật lí.
Theo quan niệm siêu hình học: Cái ác là tự thân nó và không có trong
vũ trụ. Sự xuất hiện của cái ác là do những khoảng trống của tồn tại nên nó
chỉ tồn tại ở một bộ phận nào đó của vũ trụ.
Theo quan niệm đạo đức học: Cái ác là việc con người vi phạm
những điều răn của chúa. Nó xuất phát từ những khát vọng và mong
muốn vô đạo đức tức là ý chí vô đạo đức. Vậy ý chí này xuất phát từ
đâu? Xét về bản chất, ý chí hướng tới cái thiện vì con người sinh ra
không phải là ác mà luôn hướng tới cái thiện nhưng con người có thể đề
cao cái thấp hèn hơn là đề cao cái thiện, qua đó vi phạm cái sự phân cấp
giá trị của Chúa [xem 21, 223].
Theo quan điểm vật lí: Cái ác thể hiện qua bệnh tật, đau khổ và cuối
cùng là cái chết. Nguyên nhân là do con người mắc tội tổ tông. Đây được
xem là xuất phát điểm cho vấn đề tự do ý chí.
Quan niệm về nhà nước được Augustin trình bày chủ yếu trong tác
phẩm “Thành bang của Thượng đế”. Do ảnh hưởng của tư tưởng Thiên
chúa giáo nên ông giải quyết vấn đề chính trị xung quanh mối quan hệ giữa
nhà thờ và nhà nước. Ông chia xã hội loài người thành hai loại thành bang;
thành bang thứ nhất là Thượng đế tức nhà thờ - thành bang của cái tốt;

23
thành bang thứ hai là nhà nước. Như một điều tất yếu là thành bang của
Thượng đế chi phối mọi hoạt động của trần gian đó là nhà nước. Do vậy,
nhà nước phải phục tùng nhà thờ và linh hồn là cái cao hơn so với cái vật
chất. Ông cho rằng, nhà thờ chăm lo cho phần hồn con người như giáo dục

cho bộ phận người cầm quyền và phẩm hạnh cho công dân. Theo Augustin,
cuộc sống của con người ở trần thế chỉ là tạm thời, sau khi chết, linh hồn
siêu thoát sang thế giới bên kia, thế giới đó mới là vĩnh viễn.
Augustin quan niệm về nguồn gốc và bản chất của quyền lực là sở hữu
chung của cộng đồng và xã hội, coi đó là công cụ thực hiện tình yêu và sự
công bằng. Theo ông, quy luật tất yếu con người cần đến công bằng nên
ông vua đại diện cho nhân dân phải là người có quyền uy và đây là người
được Thượng đế trao quyền thực hiện vì mục đích xã hội. Ông phê phán sự
lạm dụng quyền lực và biến nó thành sở hữu cá nhân, đó là ăn cắp tự do, là
nguyên nhân gây nên bất bình đẳng và chiến tranh. Augustin đứng trên lập
trường duy tâm khách quan để bảo vệ triết học Kitô giáo và nhà thờ.
Từ bản chất của quyền lực, ông đưa ra tiêu chí của người cầm quyền
là thực thi quyền uy, đòi hỏi có tầm nhìn xa, óc quyết đoán, cương nghị,
không chấp nhận sự tầm thường của tri thức, ti tiện cả tính cách, sự mềm
yếu của lí trí. Người cầm quyền phải biết bảo vệ lợi ích của nhà nước và
phải đáp ứng được những đòi hỏi của nhân dân, biết từ chối khoái lạc và
hưởng thụ. Bên cạnh đó còn phải đặt lí tưởng "công bằng làm gốc, từ thiện
làm ngọn", thành bang có nghĩa vụ tạo ra hạnh phúc cho công dân. Ông
đưa ra cương lĩnh là trật tự, đoàn kết, hòa bình, người cầm quyền phải biết
giới hạn tham vọng, biết phân biệt lợi ích quốc gia với những đòi hỏi không
chính đáng của nhân dân. Quan điểm của Augustin sau này được
Machiavelli phát triển về vai trò của người cầm quyền trong nhà nước và
trong quan niệm chính trị - xã hội của John Locke là ngăn chặn sự tiếm
quyền làm tan rã nhà nước.

24
Tuy nhiên, quan niệm chính trị - xã hội của Augustin đứng trên lập
trường duy tâm khách quan, bảo vệ sự tồn tại của thần quyền. Một mặt ông
cho rằng sự giàu có dẫn đến bất công, khinh miệt và bóc lột người nghèo,
phải ngăn chặn sự ham muốn vật chất, bắt người giàu phải có nghĩa vụ với

người nghèo, với nhà nước. Mặt khác ông lại tích cực bảo vệ sự bất bình
đẳng của xã hội, coi sự nghèo khổ, bần cùng là điều kiện tốt để cứu rỗi.
Trong xã hội có một số người được chúa ban tặng quyền sung sướng và
khuyên người nghèo hãy yên phận với cuộc sống của chính mình, không
nên yêu của cải mà nên yêu Thượng đế.
Cũng giống như Augustin chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng thần
học thời kỳ trung cổ, Thomas d’Aquin được đánh giá là nhà triết học kinh
viện lớn nhất. Toàn bộ hệ thống triết học của Thomas d’Aquin chịu ảnh
hưởng của Aristotle. Ông cho rằng, Chúa đã tạo ra vô số sản phẩm trên thế
giới này, trong đó con người là sản phẩm tối cao nhất. ở con người có sự
thống nhất giữa thể xác và linh hồn. Ông đề cao năng lực nhận thức của
con người và coi đó là cơ sở của hành vi có đạo đức, có nhân tính của con
người. Tiêu chí đánh giá đạo đức của con người xét từ bên trong đó là đức
hạnh, xét từ bên ngoài đó là luật và ân huệ. Nếu con người thực hiện được
tất cả các nghĩa vụ trên thì con người có hạnh phúc, hạnh phúc này do chúa
quy định. Như vậy, trong quan niệm về con người Thomas d’Aquin cũng
không thể thoát khỏi tư tưởng thần học của các nhà triết học cùng thời.
Trong quan niệm về nhà nước Thomas d’Aquin cũng chịu ảnh hưởng
của Aristotle, coi con người như một thực thể chính trị - xã hội. Trật tự xã
hội ở trần thế phản ánh trật tự của thượng giới, ở thượng giới có nhiều cấp
độ khác nhau thì ở trần thế có nhiều giai cấp. Ông chia ra thành hai loại
luật: 1. Thần luật, con đường đạt tới tư do ở chốn thiên đàng. 2. Nhân luật,
quy định đời sống xã hội của con người.

25
Trong hai luật này thì nhân luật phụ thuộc thần luật đó là phụ thuộc
vào ý Chúa. Ông cho rằng, xã hội cần có nhân luật vì con người suy đồi
sinh ra ý chí méo mó, cần dùng trí lực để trừng phạt, đe dọa. Đây là cơ sở
để John Locke khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật trong việc đảm
bảo trật tự xã hội và lí giải tại sao con người chuyển từ trạng thái tự nhiên

sang trạng thái có chính quyền.
Thomas d’Aquin chia xã hội thành các hình thức chính phủ như: quân
chủ, quý tộc, dân chủ nhưng ông ủng hộ đối với một chính phủ hỗn hợp đó
là sự kết hợp giữa nền dân chủ, chế độ quý tộc và chính phủ nhân dân. Điều
này giúp nhân dân có thể tham gia vào chính phủ, một phương tiện để duy
trì trật tự xã hội và mọi người chiụ trách nhiệm của mình với tổ quốc.
Thomas d’Aquin bảo vệ sự phân chia đẳng cấp, quyết liệt chống lại sự bình
đẳng xã hội vì chính quyền tối cao chính là nhà thờ, giáo hội mà đại diện là
chúa. Các vương quốc ở trần thế phải tuân theo ý chúa. Ông biện minh: sở
dĩ xã hội có nô lệ là do tội lỗi của nó nên thượng đế bắt họ phải làm nô lệ.
Như vậy, luận giải theo cách nào về chính trị - xã hội, Thomas
d’Aquin đều đi đến khẳng định: cả nhà nước và nhà thờ đều là sự sắp đặt
của thượng đế nhưng ông có tinh thần thỏa hiệp khôn khéo hơn giữa nhà
nước và nhà thờ. Xã hội cần có nhà nước để chăm lo đời sống thể xác cho
con người và đứng đầu nhà nước phải là giới thượng lưu và cần đến nhà
thờ để chăm lo đời sống tinh thần cho con người, mang lại cho họ niềm vui.
Trong thời kỳ trung cổ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi giáo lí nhà thờ, các
nhà triết học viện đến thượng đế để giải quyết những bế tắc trong quan
niệm chính trị - xã hội của mình và đồng thời bị ảnh hưởng bởi lập trường
giai cấp nên vấn đề chủ quyền nhân dân, tự do của con người vẫn chưa
được đặt ra. Nếu có nhắc đến cũng chỉ là sự phản ánh tư tưởng thần học và
phụ thuộc vào đấng tối cao là chúa.

×