Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

CẨM NANG PHÁP LUẬT DÀNH CHO THANH NIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.82 KB, 99 trang )

BỘ TƯ PHÁP
VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CẨM NANG PHÁP LUẬT
DÀNH CHO THANH NIÊN
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Hà Nội, 2005
1
CHỦ BIÊN
NGUYỄN TẤT VIỄN
BIÊN SOẠN
TRƯƠNG THỊ PHƯƠNG
NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
PHẠM KIM DUNG
UÔNG NGỌC THUẨN
NGUYỄN MINH THĂNG
QUÁCH DƯƠNG
VŨ VÂN ĐÌNH
NGÔ QUỲNH HOA
PHAN HỒNG NGUYÊN
PHẠM THỊ LAN ANH
TÔ THỊ THU HÀ
TRẦN MINH TRỌNG
PHẠM THỊ HOÀ
2
CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội ta luôn quan tâm đến thanh niên, tạo điều kiện
thuận lợi để thanh niên được phát triển toàn diện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng đã nêu rõ: "Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo
phát triển toàn diện về chính trị, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp,
giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc"; trong đó, công tác giáo dục ý thức


pháp luật cho thanh niên là một mặt quan trọng.
Để góp phần nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật trong thanh niên, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Bộ Tư pháp xuất bản cuốn sách Cẩm
nang pháp luật dành cho thanh niên. Cuốn sách do Vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật - Bộ Tư pháp biên soạn, được trình bày dưới dạng hỏi - đáp, thông qua những
tình huống cụ thể, sinh động nhằm giải thích pháp luật, giúp thanh niên dễ dàng
nắm bắt và vận dụng pháp luật trong cuộc sống.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 4 năm 2006
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
3
I. PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Câu hỏi 1: Tôi bị kẻ xấu ghép hình ảnh của tôi với người khác rồi đưa
lên mạng nhằm phá hoại hạnh phúc của gia đình tôi. Hành vi của người này
có vi phạm pháp luật không, xin hỏi pháp luật quy định cá nhân có những
quyền nhân thân nào? Việc bảo vệ quyền nhân thân được quy định như thế
nào?
Trả lời:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1995 (từ đây gọi là Bộ luật dân sự 1995), thì quyền nhân thân được hiểu
là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác. Việc một
người nào đó đã sử dụng hình ảnh của bạn mà không được bạn đồng ý là vi phạm
pháp luật. Điều 31 của Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định: Cá nhân có quyền đối
với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó
đồng ý hoặc thân nhân của người đó đồng ý, nếu người đó đã chết, mất năng lực
hành vi dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ngoài quyền của cá nhân đối với hình ảnh, pháp luật còn quy định cá nhân
có các quyền nhân thân sau đây:
- Quyền đối với họ, tên;
- Quyền thay đổi họ, tên;
- Quyền xác định dân tộc;
- Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể;
- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín;
- Quyền đối với bí mật đời tư;
- Quyền kết hôn;
4
- Quyền bình đẳng của vợ chồng;
- Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình;
- Quyền ly hôn;
- Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con;
- Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi;
- Quyền đối với quốc tịch;
- Quyền được bảo đảm an toàn về chỗ ở;
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
- Quyền tự do đi lại, cư trú;
- Quyền lao động;
- Quyền tự do kinh doanh;
- Quyền tự do sáng tạo.
Khi quyền nhân thân của một cá nhân bị xâm phạm, thì người đó có quyền:
- Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu Toà án buộc người vi phạm chấm dứt
hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
- Tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng;
- Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu Toà án buộc người vi phạm phải bồi
thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Câu hỏi 2: Pháp luật quy định quyền sở hữu được xác lập và chấm dứt
trong những trường hợp nào? Trường hợp môt người nhặt được một vật do

người khác bỏ quên mà tôi không biết địa chỉ của người đó thì vật đó có đương
nhiên thuộc quyền sở hữu của người nhặt được hay không?
Trả lời:
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
5
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.
Theo quy định tại Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995 thì quyền sở hữu
được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây:
- Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
- Được chuyển giao quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Thu hoa lợi, lợi tức;
- Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
- Được thừa kế tài sản;
- Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ,
vật bị đánh rơ0i, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới
nước di chuyển tự nhiên;
- Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai phù hợp với thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật này;
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Theo quy định tại Điều 177 của Bộ luật Dân sự thì quyền sở hữu chấm dứt
trong các trường hợp sau đây:
- Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác;
- Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình;
- Tài sản bị tiêu huỷ;
- Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu;
- Tài sản bị trưng mua;
- Tài sản bị tịch thu;

- Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước
di chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong các điều
kiện do pháp luật quy định; tài sản mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu
6
theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật này, cụ thể: Người chiếm hữu,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công
khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản,
thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường
hợp người chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu toàn dân, không có căn cứ pháp luật, thì
dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể
trở thành chủ sở hữu tài sản đó.
- Các căn cứ khác do pháp luật quy định.
Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Dân sự năm 1995, đối với tài sản nhặt
được do người khác bỏ quên mà không biết địa chỉ của người đó thì tài sản đó
không đương nhiên thuộc sở hữu của người nhặt được, người này phải phải thông
báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc Công an cơ sở
gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Sau một năm, kể từ ngày thông báo công khai về vật nhặt được mà không
xác định được ai là chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận, thì vật đó thuộc
sở hữu của người nhặt được; nếu vật có giá trị lớn, thì sau khi trừ chi phí bảo quản
người nhặt được được hưởng 50% giá trị của vật và phần còn lại thuộc Nhà nước.
Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa mà sau một
năm, kể từ ngày thông báo công khai, không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc
không có người đến nhận, thì vật đó thuộc Nhà nước; người nhặt được vật đó được
hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi 3: Cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền đăng ký kết hôn? Khi
đăng ký kết hôn cần phải có những giấy tờ gì?
Trả lời:
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định số
83/1998/NĐ - CP ngày 10 tháng 10 năm 1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch

và Thông tư số 12/1999/TT - BTP ngày 25 tháng 6 năm 1999 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định 83/1998/NĐ - CP, thì việc kết
hôn phải được đăng ký do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi
thức do pháp luật quy định. Mọi nghi thức kết hôn không tuân thủ các quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không
7
đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật
công nhận.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết
hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.
Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ
quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài.
Để được đăng ký kết hôn, các bên nam, nữ cần tiến hành các bước sau:
- Đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi một trong hai bên cư trú lấy
tờ khai xin đăng ký kết hôn theo mẫu chung;
- Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải có mặt, nộp tờ khai đăng ký kết
hôn và xuất trình các giấy tờ sau đây:
+ Giấy khai sinh của mỗi bên;
+ Sổ hộ khẩu gia đình của bên nam hoặc bên nữ nơi đăng ký kết hôn. Trong
trường hợp cả hai bên nam, nữ không có hoặc chưa có nơi đăng ký hộ khẩu thường
trú, nhưng có đăng ký hộ khẩu tạm trú có thời hạn theo quy định của pháp luật về
đăng ký hộ khẩu, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi bên nam hoặc bên nữ đăng ký hộ
khẩu tạm trú có thời hạn thực hiện việc đăng ký kết hôn.
Trong trường hợp cả hai bên nam nữ là công dân Việt Nam đang học tập, lao
động, công tác có thời hạn ở nước ngoài, đã cắt hộ khẩu khỏi nơi thường trú, nay về
nước xin đăng ký kết hôn, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cha mẹ bên nam hoặc
bên nữ đăng ký hộ khẩu thường trú, thực hiện việc đăng ký kết hôn.
- Trong trường hợp không đủ các giấy tờ trên, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay
thế.
- Trong trường hợp nghi ngờ một bên hoặc cả hai bên nam nữ mắc bệnh tâm

thần không có khả năng nhận thức được hành vi của mình, đang mắc bệnh hoa liễu,
thì phải có giấy khám sức khoẻ của cơ quan y tế cấp huyện.
- Tờ khai đăng ký kết hôn phải có xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi công tác
(đối với cán bộ, công chức, người lao động, lực lượng vũ trang nhân dân) hoặc của
Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú (đối với nhân dân) của mỗi bên về tình trạng
hôn nhân. Việc xác nhận tình trạng hôn nhân này có giá trị không quá 30 ngày.
8
Trong trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên đã có vợ có chồng nhưng đã ly
hôn hay người kia đã chết thì phải nộp bản sao bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của toà án về việc cho ly hôn hoặc bản sao giấy chứng tử.
- Trong trường hợp một trong hai người không thể đến nộp hồ sơ xin đăng
ký kết hôn mà có lý do chính đáng, thì có thể gửi cho Uỷ ban nhân dân nơi đăng ký
kết hôn đơn xin nộp hồ sơ vắng mặt, trong đơn phải nêu rõ lý do vắng mặt, có xác
nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú.
- Vợ chồng đã ly hôn, muốn kết hôn lại với nhau, thì cũng phải tiến hành các
bước như người kết hôn lần đầu.
Câu hỏi 4: Cơ quan nào có thẩm quyền đăng ký khai sinh và thủ tục đăng
ký khai sinh được quy định như thế nào?
Trả lời:
Pháp luật quy định thủ tục đăng ký khai sinh như sau:
- Thẩm quyền đăng ký khai sinh:
+ Việc đăng ký khai sinh được thực hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi
người mẹ có hộ khẩu thường trú, hoặc nơi trẻ em sinh ra.
+ Trong trường hợp người mẹ thường trú ở một nơi, nhưng lại đăng ký khai
sinh cho con ở một nơi khác, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đăng ký phải gửi
thông báo kèm theo một bản sao Giấy khai sinh cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi
người mẹ có hộ khẩu thường trú để ghi vào Sổ đăng ký khai sinh. Uỷ ban nhân dân
cấp xã nơi đăng ký phải lập một quyển Sổ đăng ký khai sinh riêng cho những
trường hợp này, không đưa vào số liệu thống kê số trẻ em sinh của địa phương.
+ Trong trường hợp người mẹ không có hộ khẩu thường trú, đã cắt chuyển

hộ khẩu tại nơi thường trú cũ, nhưng chưa đủ thủ tục, điều kiện để được đăng ký hộ
khẩu thường trú tại nơi thực tế đang cư trú, thì việc đăng ký cho trẻ em được thực
hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ đăng ký hộ khẩu tạm trú có thời hạn.
- Thời hạn đăng ký khai sinh: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày sinh trẻ
em, cha, mẹ, hoặc người thân thích, người có trách nhiệm phải khai sinh cho trẻ
em; đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn trên không quá
60 ngày.
9
- Thủ tục đăng ký khai sinh:
+ Người đi khai sinh nộp Giấy chứng sinh do cơ sở y tế nơi trẻ em sinh ra
cấp và xuất trình các giấy tờ sau đây:
● Giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ trẻ em (nếu có);
● Sổ hộ khẩu gia đình hoặc Giấy đăng ký tạm trú của người mẹ;
● Chứng minh nhân dân của người đến đăng ký khai sinh.
Trong trường hợp không có đủ các giấy tờ nêu trên, thì phải có giấy tờ hợp lệ
thay thế.
Nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở Y tế, thì Giấy chứng sinh được thay thế bằng
văn bản xác nhận của người làm chứng hoặc của người chỉ huy, người điều khiển
phương tiện giao thông, nếu sinh con trên các phương tiện giao thông.
+ Người làm chứng phải có đầy đủ những điều kiện sau đây:
● Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực và hành vi dân sự đầy đủ;
● Biết rõ sự việc liên quan đến việc làm chứng;
● Không có quyền, lợi ích liên quan đến việc làm chứng.
Người làm chứng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung mà họ
đã làm chứng. Những giấy tờ có được do hành vi làm chứng sai sự thật sẽ bị thu
hồi.
Nếu có đủ các giấy tờ hợp lệ, thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp
ngay một bản chính Giấy khai sinh cho trẻ em, cán bộ hộ tịch tư pháp ghi vào Sổ
đăng ký khai sinh. Bản sao và số lượng bản sao Giấy khai sinh được cấp theo yêu
cầu của người đi khai sinh.

+ Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, phần khai về cha, mẹ
khi chưa xác định được thì trong Giấy khai sinh và trong Sổ đăng ký khai sinh để
trống. Nếu có người nhận làm cha, mẹ của trẻ em, thì căn cứ vào Quyết định công
nhận việc cha, mẹ nhận con của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà ghi tên của
người được công nhận là cha, mẹ vào phần khai về cha, mẹ trong Giấy khai sinh và
trong Sổ đăng ký khai sinh của người con.
10
Câu hỏi 5: Thủ tục đăng ký việc thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ,
tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc?
Trả lời:
Pháp luật quy định cụ thể những vấn đề này như sau:
a) Thẩm quyền đăng ký việc thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ, tên, chữ
đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc:
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú hoặc nơi đã đăng ký khai sinh của người
có đơn yêu cầu có thẩm quyền cho thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ, tên, chữ
đệm, ngày, tháng, năm sinh (sau đây gọi chung là thay đổi, cải chính hộ tịch); xác
định lại dân tộc đã được đăng ký trong bản chính Giấy khai sinh.
Trong trường hợp đương sự không có hoặc chưa có nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú, nhưng có đăng ký hộ khẩu tạm trú có thời hạn theo quy định của pháp
luật về đăng ký hộ khẩu, thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, nơi đăng ký hộ khẩu tạm trú
có thời hạn, cũng có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch,
xác định lại dân tộc của người đó.
b) Thủ tục đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc:
Người xin thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc phải nộp đơn và
xuất trình các giấy tờ sau đây:
- Bản chính Giấy khai sinh;
- Sổ hộ khẩu gia đình của người có đơn yêu cầu;
- Chứng minh nhân dân;
Ngoài ra, còn cần có các giấy tờ cần thiết khác chứng minh đủ điều kiện theo
quy định tại Điều 29 của Bộ Luật Dân sự (đối với trường hợp xin thay đổi họ, tên),

và Điều 30 của Bộ Luật Dân sự (đối với trường hợp xin xác định lại dân tộc). Cụ
thể như sau:
* Quyền thay đổi họ, tên
11
- Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc
thay đổi họ, tên trong các trường hợp sau đây:
+ Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm
lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của
mình;
+ Theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc
khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha, mẹ đẻ yêu cầu
lấy lại họ, tên mà cha, mẹ đẻ đã đặt;
+ Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con;
+ Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại;
+ Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc từ nhỏ mà tìm ra nguồn gốc huyết
thống của mình;
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
- Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý
của người đó.
+ Việc thay đổi họ, tên không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
được xác lập theo họ, tên cũ.
* Quyền xác định dân tộc
- Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha, mẹ. Trong
trường hợp cha và mẹ thuộc hai dân tộc khác nhau, thì dân tộc của người con được
xác định là dân tộc của người cha hoặc dân tộc của người mẹ theo tập quán hoặc
theo thoả thuận của cha, mẹ.
- Người đã thành niên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xác định lại dân tộc trong các trường hợp sau đây:
+ Xác định lại theo dân tộc của người cha hoặc người mẹ, nếu cha, mẹ thuộc
hai dân tộc khác nhau;

+ Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi
của người thuộc dân tộc khác.
12
Trong trường hợp không có đủ các giấy tờ nêu trên thì phải có giấy tờ hợp lệ
thay thế.
Đơn xin thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc phải nói rõ lý do và
các nội dung xin thay đổi, cải chính, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi
người có đơn yêu cầu cư trú. Trong trường hợp xin thay đổi, cải chính hộ tịch, xác
định lại dân tộc tại Uỷ ban nhân dân cấp xã không phải nơi đã đăng ký khai sinh,
thì phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh trước
đây.
Việc thay đổi, cải chính hộ tịch, đối với người dưới 18 tuổi được thực hiện
theo đơn yêu cầu của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp. Đối với người từ đủ 9
tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, nếu xét thấy việc
xin thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc không trái với các quy định của
pháp luật, thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ký và cấp cho đương sự một bản
chính Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc. Căn cứ
vào Quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp ghi rõ nội dung thay đổi
vào Sổ đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch và bản chính Giấy khai sinh của đương
sự. Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi một bản sao Quyết định cho phép thay đổi, cải
chính hộ tịch, xác định lại dân tộc cho cơ quan Công an cùng cấp và Uỷ ban nhân
dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh để ghi chú nội dung thay đổi vào Sổ đăng ký
khai sinh của đương sự. Bản sao và số lượng bản sao Quyết định được cấp theo yêu
cầu của đương sự.
c) Từ chối đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc:
Trong trường hợp không có đủ cơ sở để đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ
tịch, xác định lại dân tộc, thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh từ chối đăng ký và giải thích
rõ lý do bằng văn bản.
d) Điều chỉnh giấy tờ, hồ sơ cá nhân sau khi có Quyết định cho phép thay

đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc:
Cơ quan, tổ chức hữu quan hiện đang quản lý hồ sơ cá nhân của đương sự
căn cứ vào Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc của
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và bản chính Giấy khai sinh đã ghi chú sự thay đổi để
điều chỉnh các giấy tờ, hồ sơ cá nhân của đương sự.
13
Câu hỏi 6: Giao dịch dân sự là gì? Giao dịch dân sự gồm những hình
thức nào? Để giao dịch dân sự có có hiệu lực cần những điều kiện nào?
Trả lời:
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của cá nhân,
pháp nhân và của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự.
Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành
vi cụ thể.
Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện
bằng văn bản, phải được công chứng Nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng
ký hoặc phải xin phép, thì phải tuân theo các quy định đó.
Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự (có khả năng bằng
hành vi của mình sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ dân sự);
- Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội
(pháp luật cho phép hoặc không ngăn cấm; xã hội chấp nhận);
- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện (tự nguyện thể hiện ý chí,
hoàn toàn không bị ép buộc );
- Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật (Ví dụ giao dịch
mua bán nhà ở phải lập hợp đồng bằng văn bản, phải được công chứng hoặc chứng
thực).
Câu hỏi 7: Nghĩa vụ dân sự là gì? Căn cứ phát sinh, chấm dứt nghĩa vụ
dân sự?
Trả lời:

Theo quy định tại Điều 285 Bộ Luật dân sự năm 1995 thì: Nghĩa vụ dân sự
là việc mà theo quy định của pháp luật, thì một hoặc nhiều chủ thể (gọi là người có
14
nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi ích
của một hoặc nhiều chủ thể khác (gọi là người có quyền).
Trong giao dịch dân sự, quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên
kia. Ví dụ trong giao dịch mua bán, nghĩa vụ của bên bán là giao vật và có quyền
nhận tiền từ bên mua. Ngược lại, bên mua có quyền nhận vật và có nghĩa vụ trả
tiền cho bên bán với các điều kiện theo thoả thuận.
Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ:
- Hợp đồng dân sự;
- Hành vi dân sự đơn phương;
- Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;
- Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
- Thực hiện công việc không có uỷ quyền;
- Những căn cứ khác do pháp luật quy định.
Nghĩa vụ dân sự chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Nghĩa vụ được hoàn thành (bên có nghĩa vụ đã thực hiện toàn bộ nghĩa
vụ);
- Theo thoả thuận của các bên;
- Bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ;
- Nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa vụ dân sự khác;
- Nghĩa vụ được bù trừ;
- Bên có quyền và bên có nghĩa vụ hoà nhập làm một;
- Thời hiệu khởi kiện (khoảng thời gian trong đó việc khởi kiện có giá trị)
đã hết;
- Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt (không tồn
tại pháp nhân đó nữa) mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;
15
- Bên có quyền là cá nhân đã chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản

thừa kế hoặc là pháp nhân chấm dứt mà quyền yêu cầu không được chuyển giao
cho pháp nhân khác;
- Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng
nghĩa vụ dân sự khác;
- Nghĩa vụ cũng chấm dứt trong các trường hợp khác, nếu pháp luật có quy
định.
- Trong trường hợp phá sản, thì nghĩa vụ dân sự chấm dứt theo quy định
của pháp luật về phá sản.
Câu hỏi 8: Anh K bán một căn nhà cấp 4 diện tích 35 m2 trên diện tích 60
m5 đất thổ cư( đã được cấp sổ đỏ). Bên mua yêu cầu làm hợp đồng dân sự có
công chứng hẳn hoi. Anh K nói không biết hợp đồng dân sự là gì cả nên cho
rằng chẳng cần hợp đồng gì hết cho lôi thôi, cứ thỏa thuận việc giao tiền, giao
nhà là xong.
Vậy hợp đồng dân sự là gì? gồm những hình thức nào? Nội dung chủ yếu
của hợp đồng dân sự là gì? Anh K nói vậy có đúng không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 394 Bộ Luật Dân sự năm 1995 thì hợp đồng dân sự
là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự (là một loại giao dịch dân sự thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hoặc
nhiều bên).
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được
giao kết bằng một hình thức nhất định.
Khi các bên thoả thuận giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định, thì hợp
đồng được coi là đã giao kết khi đã tuân theo hình thức đó.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng
văn bản, phải được chứng nhận của công chứng Nhà nước, chứng thực, đăng ký
hoặc xin phép, thì phải tuân theo các quy định này.
16
Nội dung chủ yếu của hợp đồng là những điều khoản mà thiếu những điều

khoản đó, thì hợp đồng không thể giao kết được.
Nội dung chủ yếu của hợp đồng do pháp luật quy định; nếu pháp luật không
quy định, thì theo thoả thuận của các bên.
Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung
sau đây:
- Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc
không được làm;
- Số lượng, chất lượng;
- Giá, phương thức thanh toán;
- Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
- Quyền, nghĩa vụ của các bên;
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
- Ngoài những nội dung chủ yếu trên, trong hợp đồng có thể có các nội dung
khác mà các bên thoả thuận.
Mua bán, nhà ở là một loại giao dịch dân sự. Loại giao dịch này đòi hỏi phải
được lập thành văn bản (gọi là hợp đồng mua bán nhà ở), phải được công chứng
hoặc chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, việc anh K nói là
không đúng.
Câu hỏi 9: Cày xong thửa ruộng, anh Q vào nhà bạn chơi, định uống
chén nước xong ra ngay. Thế nhưng vui chuyện cùng bạn nên anh quên buộc
trâu, để trâu ăn mất gần 100 m
2
ngô đang kỳ trổ bông của bà Đ. Bà Đ bắt anh Q
phải đền toàn bộ thiệt hại cho bà (ước tính khoảng 350.000 đồng). Anh chỉ chịu
đền một nửa vì cho rằng anh không cố ý. Chẳng qua là anh quên buộc trâu thôi.
Trong trường hợp này, anh Q có phải đền bù toàn bộ thiệt hại cho bà Đ không?
Trả lời:
Mặc dù không cố ý nhưng để trâu ăn ngô, gây thiệt hại cho bà Đ là lỗi của
anh Q. Gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường. Do vậy, việc bà Đ yêu
17

cầu anh Q phải bồi thường thiệt hại cho bà là đúng. Anh Q có trách nhiệm phải bồi
thường.
Những trường hợp như thế này gọi là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(là bồi thường thiệt hại gây nên không phải do vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận
trong hợp đồng mà là do vi phạm pháp luật).
Điều 609 Bộ Luật dân sự quy định : “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý
xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền
lợi, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường”.
Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được thực hiện theo các nguyên
tắc quy định tại Điều 610 Bộ Luật Dân sự năm 1995, như sau:
- Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà
gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế, thì người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường.
Căn cứ các quy định trên đây thì về nguyên tắc, anh Quang phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại cho bà Đ. Tuy nhiên toàn bộ là bao nhiêu thì cần xem xét cụ thể.
Cũng cần xem xét thêm khả năng kinh tế của gia đình anh Q và việc giữ gìn mối
quan hệ tình cảm xóm giềng giữa họ để xử lý vấn đề một cách hợp tình, hợp lý,
đúng pháp luật.
Câu hỏi 10:
Hai con trai ông B là N (13 tuổi) và T (12 tuổi) chơi đuổi bắt. Chẳng may
chúng xô đổ xe máy anh V (dựng cạnh đường), làm vỡ yếm, vỡ gương xe máy.
Anh V phải thay yếm và gương hết 426.000 đồng. Tuy xót của nhưng nghĩ tình
hàng xóm, láng giềng nên anh V chỉ yêu cầu ông B bồi thường cho gần một nửa

số tiền thay thế các phụ tùng trên 200.000 đồng). Ông B cho rằng con làm con
18
chịu, cha làm cha chịu và kiên quyết không chịu bồi thường cho anh V. Trong
trường hợp này, ông B có phải bồi thường không?
Trả lời:
Điều 611 (Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân) Bộ
Luật Dân sự năm 1995 quy định việc bồi thường thiệt hại (ngoài hợp đồng) của cá
nhân, như sau:
- Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại, thì phải tự bồi thường.
- Khi người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha,
mẹ, thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ
để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng, thì lấy tài sản
đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 625 của Bộ luật
này.
Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây
thiệt hại, thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi
thường, thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Khi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại
mà có cá nhân, tổ chức giám hộ, thì cá nhân, tổ chức đó được dùng tài sản của
người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc
không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của
mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ,
thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Đối chiếu với quy định trên thì ông B phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho
anh V là đúng. Anh V không chỉ có quyền yêu cầu bồi thường một nửa mà có
quyền yêu cầu bồi thường toàn bộ thiệt hại: tiền thay thế phụ tùng xe (426.000
đồng), thậm chí cả tiền công đi thay, thiệt hại khác (nếu có) do đi thay phụ tùng xe
gây nên…. Tuy nhiên, việc anh V chỉ yêu cầu bồi thường gần một nửa thiệt hại để
giữ tình nghĩa hàng xóm láng giềng là việc làm rất đẹp, đáng được khuyến khích,
biểu dương. Ông B cần nhận rõ điều đó và thực hiện trách nhiệm của mình.

19
II. LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Câu hỏi 11: Năm nay tôi 18 tuổi, tôi yêu anh H cùng thôn và cùng làm ở
Đội sản xuất. Tháng trước, anh H đã tổ chức sinh nhật 19 tuổi. Chúng tôi định
tổ chức kết hôn sau khi anh H đã qua tuổi 19 và trước khi lên đường nhập ngũ
nhưng mọi người nói anh H chưa đủ tuổi kết hôn theo luật định. Vậy Luật hôn
nhân và gia đình quy định điều kiện kết hôn như thế nào? Chúng tôi có đủ điều
kiện về tuổi kết hôn không?
Trả lời:
Theo Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Nam nữ kết hôn
với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
- Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên;
- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép
buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép và cản trở;
- Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định
tại Điều 10 của Luật này như.
+ Người đang có vợ hoặc có chồng;
+ Người mất năng lực hành vi dân sự;
+ Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ
trong phạm vi ba đời;
+ Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với
con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ,
mẹ kế với con riêng của chồng;
- Giữa những người cùng giới tính (như giữa nam với nam, giữa nữ với nữ).
Trường hợp của chị và anh H vẫn có thể kết hôn được nếu đáp ứng các điều
kiện nêu trên, riêng về tuổi kết hôn, anh H sau khi tổ chức xong sinh nhật tuổi 19,
kể từ sau ngày sinh nhật anh H coi như bước vào tuổi hai mươi, đủ điều kiện về
tuổi kết hôn theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình:

20
Nam đang ở tuổi hai mươi, nữ đang ở tuổi mười tám thì đủ điều kiện về tuổi kết
hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Câu hỏi 12: Việc tổ chức lễ cưới công khai ở gia đình, có đông đủ họ
hàng, bạn bè đến dự và chứng kiến nhưng không đăng ký kết hôn ở Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn thì có giá trị pháp lý không ?
Trả lời:
Việc kết hôn phải do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nơi cư trú của
một trong hai bên kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn thì hai bên nam nữ kết
hôn mới được thừa nhận là vợ chồng trước pháp luật và có những quyền lợi của
người vợ, người chồng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Việc tổ chức lễ cưới ở
gia đình, dù công khai, có nhiều người biết, cũng chỉ là nghi thức kết hôn theo tục
lệ.
Việc tổ chức lễ cưới theo tục lệ chỉ là việc riêng của người kết hôn, không có
ý nghĩa pháp lý để nói rằng hai bên nam nữ kết hôn đã là vợ chồng trước pháp luật.
Ngược lại, nếu việc kết hôn đã được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn công
nhận và ghi vào sổ kết hôn, cấp giấy chứng nhận kết hôn thì dù rằng chưa tổ chức
hay không tổ chức lễ cưới theo tục lệ địa phương, phong tục dân tộc hay nghi lễ tôn
giáo, hai bên vẫn được thừa nhận là vợ chồng trước pháp luật và có những quyền
lợi của người vợ, người chồng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Ví dụ: một
trong hai người đi nước ngoài (học tập, công tác, lao động xuất khẩu…) có tài sản
đem về nước thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
chứ không phải là tài sản riêng của người ra nước ngoài. Nếu một bên chết trước thì
tài sản chung đó được chia đôi; ngoài ra, người vợ hoặc chồng còn sống được
quyền thừa kế tài sản của người chồng hoặc người vợ đã chết để lại.
Câu hỏi 13: Anh B có vợ và 2 con ở quê, anh công tác ở thành phố yêu
một cô gái mới ra trường làm cùng cơ quan, hai người sống với nhau như vợ
chồng, mặc dù mọi người trong cơ quan đã nhắc nhở nhưng anh B nói anh
không bỏ vợ con, quan hệ giữa anh và cô gái kia chỉ quan hệ bạn bè thân thích,
còn cô gái kia thì yêu anh B thật sự, cô hy vọng anh B sẽ vì cô mà ly hôn với vợ

ở quê…Vậy, trường hợp của anh B và cô gái kia có vi phạm chế độ một vợ, một
chồng không? Pháp luật quy định xử lý tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
như thế nào?
21
Trả lời:
Quan hệ của anh B và cô gái kia là quan hệ trái pháp luật, vi phạm chế độ
một vợ, một chồng quy định tại khoản 2, Điều 4 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000: Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Trong trường hợp đã nhắc nhở
nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục chung sống như vợ chồng với người khác thì bị xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình theo quy định tại
Điều 8 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình: Phạt tiền từ 100.000 đồng
đến 500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
- Đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;
- Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa
gây hậu quả nghiêm trọng.
- Ngoài ra, bị buộc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật
đó.
Trong trường hợp đã xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và
gia đình mà vẫn tái phạm thì sẽ phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 147
Bộ luật hình sự năm 1999 :
- Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba

tháng đến một năm.
- Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết
hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một
vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
22
Câu hỏi 14: Tảo hôn là gì? Tảo hôn và tổ chức tảo hôn bị pháp luật xử lý
như thế nào?
Trả lời:
Tảo hôn là việc kết hôn trái pháp luật vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000. Việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị Toà án nhân dân huỷ.
Hành vi tảo hôn hoặc tổ chức tảo hôn đã bị nhắc nhở nhưng vẫn tiếp tục vi phạm
thì tuỳ mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 6 Nghị
định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21-11-2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000
đồng đến 200.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây :
- Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn
mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó;
- Tổ chức việc kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn.
Hành vi tổ chức tảo hôn hoặc tảo hôn đã bị xử phạt hành chính mà vẫn tái
phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 148 Bộ luật hình sự
năm 1999: Người nào có một trong những hành vi sau đây đã bị xử phạt hành chính
về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến
hai năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
- Tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn;
- Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật cho những người chưa đến tuổi
kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó.
Câu hỏi 15: Hành vi ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình thì bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 87/NĐ- CP ngày 21-11-2001 của

Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì
hành vi ngược đãi, hành hạ ông bà, cha mẹ, người có công nuôi dưỡng mình, các
thành viên khác trong gia đình nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng bị phạt tiền
từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng.
23
Trong trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý theo quy
định tại Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1999: Người nào ngược đãi hoặc hành hạ
ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03
tháng đến 03 năm.
III. PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG CHỐNG
MA TUÝ, MẠI DÂM, HIV/AIDS
1. PHÒNG, CHỐNG MA TUÝ
Câu hỏi 16: Xin cho biết những hành vi nào liên quan đến ma tuý bị
nghiêm cấm?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 3 của Luật Phòng, chống ma tuý được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09
tháng 12 năm 2000 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 6 năm 2001, thì
những hành vi sau đây bị nghiêm cấm:
a) Nghiêm cấm việc trồng cây có chứa chất ma tuý:
Cây có chứa chất ma tuý bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây côca,
cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma tuý.
b) Nghiêm cấm việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, mua bán,
phân phối, giám định, xử lý, trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, nghiên
cứu trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, tiền chất , thuốc gây nghiện, thuốc
hướng thần:
- Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành.

24
- Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế,
sản xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính phủ quy định
(Ephedrin, Pseudoephedrin, Acetic anhydrit ).
- Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác nếu
sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
- Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được
quy định trong danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất như là chất gây
nghiện, chất hướng thần.
c) Nghiêm cấm việc sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý; xúi
giục, cưỡng bức, lôi kéo, chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma tuý:
- Sử dụng trái phép chất ma tuý là hành vi tự mình hoặc nhờ người khác đưa
trái phép chất ma tuý vào cơ thể mình dưới bất kỳ hình thức nào nhằm đáp ứng nhu
cầu về ma tuý. Việc sử dụng trái phép chất ma tuý có thể thực hiện bằng các hình
thức như: hút, hít, nuốt, uống, tiêm, chích…
- Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý là hành vi tập hợp một số người có
nhu cầu sử dụng ma tuý, chuẩn bị địa điểm, các dụng cụ, phương tiện (bàn đèn,
bơm, kim tiêm…) và chất ma tuý để tiến hành đưa chất ma tuý vào cơ thể của
những người khác một cách trái phép. Tuy nhiên, việc sử dụng các loại thuốc có
chất gây nghiện để chữa bệnh theo chỉ định của bác sỹ là được phép.
- Xúi giục là hành vi thúc đẩy, khuyến khích, động viên người khác sử dụng
trái phép chất ma tuý.
- Cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma tuý là hành vi dùng vũ
lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người
khác buộc họ sử dụng trái phép chất ma tuý trái với ý muốn của họ.
- Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý là hành vi rủ rê, dụ dỗ
hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm khêu gợi sự ham muốn sử dụng ma tuý của
người khác để họ sử dụng trái phép chất ma tuý.
- Chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma tuý là một loạt hành vi
như cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc bao che, dung túng cho việc sử dụng trái

phép chất ma tuý.
25

×