Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Phân tích việc phát huy các chức năng của NHTW tại NHNN VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử, các NHTM ra đời từ rất sớm gắn liền với quá trình phát triển của nền sản xuất
hàng hóa, khi nền kinh tế ngày càng phát triển ở cấp độ cao hơn thì một đòi hỏi cấp thiết tại mỗi
quốc gia đó là có sự can thiệp của nhà nước trong việc quản lí. Trên thế giới, sau khủng hoảng
kinh tế thế giới 1929-1933, phần lớn các nước tiến hành quốc hữu hoá hoặc thành lập ngân hàng
phát hành (phát hành tiền và điều tiết các hoạt động vĩ mô ) dẫn đến việc thành lập Ngân hàng
Trung ương. Đây là một định chế Quản lí nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, nó thực
hiện các chức năng cơ bản là ngân hàng của quốc gia và thực hiện các chức năng quản lí nhà
nước của ngân hàng trung ương nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân
hàng, qua đó thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc điều hành nền kinh tế vĩ mô qua thực hiện chính
sách tiền tệ và quản lý hoạt động tổng thể của toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng. Chính sách
hoạt động của ngân hàng trung ương có những ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của kinh
tế -xã hội của đất nước, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, khẳng định sự
phát triển của Việt Nam trong nền kinh tế quốc tế Việt Nam đã gia nhập WTO, nền kinh tế của
chúng ta đang hội nhập cùng nền kinh tế thế giới: hàng hóa lưu thông trên sân chơi quốc tế, nền
kinh tế mở cửa có nhiều sự đầu tư nước ngoài vào trong nước cùng với đó là sự biến động của thị
trường tài chính thế giới gây ra những ảnh hưởng tới nền kinh tế trong nước, đặt ra biết bao thử
thách làm thế nào để chúng ta ổn định phát triển. Ngân hàng trung ương có chức năng vô cùng
quan trọng trong nền kinh tế, vậy Việt Nam đã phát huy các chức năng này như thế nào để đạt
những hiệu quả phát triển kinh tế như hiện nay? Nhóm 6 chọn đề tài: “Phân tích việc phát huy
các chức năng của NHTW tại NHNN VN” làm nghiên cứu của mình. Từ đó đưa ra những đề
xuất để NHNN Việt Nam ngày càng phát triển hơn và phát huy hơn nữa vai trò của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Những lý luận chung về chức năng của ngân hàng trung ương
- Tình hình phát huy chức năng của NHTW tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ chức năng của NHTW trong việc quản lí nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ-tín
dụng bao gồm các chức năng: chức năng phát hành tiền và lưu thông tiền tệ, chức năng ngân
hàng của các ngân hàng, chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng.


Hai là, phân tích việc phát huy của NHTW tại NHNNVN trong điều kiện Việt nam cụ thể về
lịch sử, kinh tế văn hoá xã hội
Ba là, làm rõ những kết quả đã đạt được trong việc phát huy các chức năng của NHTW tại
NHNN VN
Bốn là, đưa ra một số ý kiến và giải pháp đề xuất trong việc phát huy chính chức năng của
NHTW tại NHNN VN
4. Phạm vi nghiên cứu
Các hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong phạm vi chức năng của mình tính từ
ngày thành lập.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận duy vật biện chứng
- Phương pháp lịch sử và lôgic
- Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như tổng hợp, phân tích, so sánh v.v
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Ngân hàng trung ương là gì?
Ngân hàng trung ương là một định chế quản lí ngân hàng về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng,
độc quyền phát hành tiền tệ, ngân hàng của các ngân hàng và tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ
trong phạm vi cả nước nhằm ổn định đồng tiền.
1.2 Chức năng của NHTW
1.2.1 Phát hành tiền và lưu thông tiền tệ
Đây chức năng cơ bản và quan trọng hàng đầu của ngân hàng trung ương. Thực hiện chức
năng này sẽ ảnh hưởng tới lưu thông tiền tệ của quốc gia, vì vậy nó ảnh hưởng tới mọi mặt trong
đời sống kinh tế - xã hội, thậm chí có thể ảnh hưởng tới tình hình tài chính tiền tệ thế giới.
Việc phát hành tiền được tập trung tuyệt đối vào ngân hàng trung ương theo chế độ nhà nước
độc quyền phát hành tiền. Giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại do ngân hàng trung ương phát
hành là phương tiện thanh toán hợp lí duy nhất trong một quốc gia, nó có thể thực hiện chức năng
phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán không hạn chế. Việc phát hành tiền có thể được
thực hiện theo cách có đảm bảo như sau:
o Đảm bảo bằng vàng: ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Đức,… trước đây thực hiện
cơ chế đảm vảo bằng vàng cho tiền giấy phát hành theo luật mỗi nước.

o Đảm bảo bằng tín dụng hàng hóa. Tiền tệ được phát hành và lưu thông thông qua hệ thống tín
dụng ngắn hạn bảo đảm tiền đi vào lưu thông gắn liền với sự biến động của sản phẩm hàng
hóa theo nguyên tắc có thời hạn và được hoàn trả.
Ngoài ra NHTW còn phát hành tiền để cho ngân sách vay, tham gia bình ổn thị trường hối
đoái. Do phát hành tiền có ảnh hưởng sâu sắc tới lưu thông tiền tệ của đất nước nên đòi hỏi cần
phải được tiến hành trong những nguyên tắc nhất định. Mặt khác, việc phát hành tiền phải đi đôi
với việc điều tiết lưu thông tiền tệ nhằm đảm bảo cung ứng với một khối lượng tiền phù hợp với
nhu cầu của kinh tế. Nói cách khác, ngân hàng trung ương phải kiểm soát toàn bộ khối lượng tiền
cung ứng để vừa đảm bảo đủ phương tiện lưu thông vừa không gây lạm phát để giữ vững và ổn
định sức mua của đồng tiền.
Điều tiết lưu thông tiền tệ để kiểm soát lượng tiền cung ứng bằng hai cách:
o Trực tiếp xác định lượng tiền tăng thêm cần được thực hiện: tăng thêm cho tín dụng, tăng
thêm cho tăng trưởng kinh tế, tạm ứng cho ngân sách, tăng dự trữ ngoại tệ, vàng,
o Kiểm soát quá trình tạo tiền của các NHTM.
2
Thực hiện chức năng này NHTW trở thành trung tâm tiền tệ của nền kinh tế.
(*) Những trường hợp phát hành tiền của NHTW:
+ Phát hành tiền qua ngõ chính phủ.
+ Phát hành tiền qua ngõ các NHTG.
+ Phát hành tiền qua ngõ thị trường mở.
+ Phát hành tiền qua ngõ thị trường vàng và ngoại tệ.
+ Phát hành cân đối.
1.2.2 Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng
Với chức năng này, NHTW nhận tiền gửi và bảo quản tiền tệ cho các ngân hàng thương mại
và các tổ chức tín dụng. Thông thường, các ngân hàng thương mại thường không sử dụng hết
nguồn vốn của mình để cho vay mà duy trì một mức nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán
như: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác.
Bao gồm:
o Tiền gửi dự trữ bắt buộc.
o Tiền gửi giao dịch.

Ngân hàng TW cấp vốn (tiếp vốn) cho các NHTM và các tổ chức tín dụng khác nhằm đảm
bảo cung ứng cho nền kinh tế quốc dân có đủ phương tiện thanh toán cần thiết. Trong trường hợp
này, NHTW đóng vai trò là người chủ nợ, là người cho vay cuối cùng. NHTW cấp tín dụng cho
các ngân hàng thương mại bằng nhiều cách như:
 Tái chiết khấu.
 Cho vay bổ sung nguồn vốn ngắn hạn cho các ngân hàng thương mại.
 Cho vay bù đắp vốn trong thanh toán liên ngân hàng.
 NHTW thực hiện quản lí Nhà nước đối với các ngân hàng trung gian và các tổ
chức tín dụng khác.
 Thẩm định, cấp giấy phép hoạt động cho các NHTM và các tổ chức tài chính
khác:
- Kiểm soát tín dụng đối với NHTM bằng dự trức bắt buộc, hạn mức tín dụng,…
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay cũng như tir lệ hoa hồng, lệ phí để áp dụng
trong các ngân hàng thương mại.
- Ấn định tỉ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh của NHTM và các tổ chức tín dụng.
- Thanh tra, kiểm soát các hoạt động của NHTM một cách thường xuyên và toàn diện.
1.2.3 Ngân hàng trung ương là ngân hàng của nhà nước
3
Chức năng này của NHTW được thể hiện ở các mặt sau:
o Ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước.
o Ban hành các văn bản pháp quy theo thẩm định cảu mình về tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, ; kiểm tra việc sử dụng các văn bản pháp luật có liên
quan đối với NHTM.
o Mở tài khoản và giao dịch đối với kho bạc Nhà nước.
o Làm đại lí cho các kho bạc nhà nước.
o Tổ chức thanh toán giữa kho bạc với các NHTM.
o Cung ứng tín dụng và tạm ứng NSNN trong những trường hợp khẩn cấp.
1.3 Khái quát chung về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1.3.1 Lịch sử NHNN Việt Nam
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam kể từ khi Ngân hàng Quốc gia Việt

nam ra đời đến nay có thể chia thành 4 thời kỳ như sau:
 Thời kỳ 1951-1954:
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống
tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên: Phát hành giấy bạc Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài
chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý
thu chi ngân sách; Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng
cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
 Thời kỳ 1955-1975:
Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc vừa xây dựng, chiến đấu, vừa chi
viện cho cách mạng giải phóng miền Nam. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện
thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế trong chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở
miền Bắc.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và
phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam.
 Thời kỳ 1975-1985:
Là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ
cụ thể của ngành Ngân hàng là tiến hành thiết lập hệ thống Ngân hàng thống nhất trong cả nước
4
và thanh lý hệ thống Ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các
loại tiền mới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai
miền Nam- Bắc vào năm 1978. Trong giai đoạn này, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản
vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ
theo nguyên tắc thị trường.
 Thời kỳ 1986 đến nay:
Là quá trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống Ngân hàng Việt Nam:

- Tháng 7/1987: Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 218/CT cho phép làm thử việc chuyển
hoạt động của Ngân hàng sang kinh doanh XHCN.
- Tháng 3/1988: Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT với định hướng cơ bản là
chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh.
- Tháng 5/1990: Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh về ngân hàng ( Pháp
lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính). Sự ra đời của 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ
thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp, trong đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của
một Ngân hàng trung ương; các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ pháp luật.
- Tháng 10/1993, quan hệ hợp tác giữa Việt nam và cộng đồng tài chính quốc tế (Quỹ Tiền tệ
quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á) được tái lập và khơi thông.
- Ngày 2/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng được
Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998.
- Ngày 16/6/2010 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng được
Quốc hội khóa XII chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Theo đó,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng trung
ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho
Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ
5
thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
1.3.2 Mô hình tổ chức
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
6
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC TIỄN VIỆC PHÁT HUY CÁC CHỨC NĂNG CỦA

NHTW TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1 Chức năng phát hành tiền
2.1.1 Các cơ quan phát hành tiền
Phát hành tiền: Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tiền giấy và tiền kim loại, được dùng làm phương tiện thanh
toán không hạn chế trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà
nước quản lý tiền dự trữ phát hành theo quy định của Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước bảo đảm
cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền giấy, tiền kim loại cho nền kinh tế. Tiền phát hành vào lưu
thông là tài sản Nợ đối với nền kinh tế và được cân đối bằng tài sản Có của Ngân hàng Nhà nước.
Sở dĩ việc phát hành tiền tập trung vào NHTW là vì các lí do sau:
+ Chính phủ muốn kiểm soát sự biến động của lượng tiền trong lưu thông trong phạm vi
toàn quốc. Điều này cũng có thể thực hiện được nếu như Nhà nước là người phát hành
tiền, nhưng kinh nghiệm thực tế đã cho thấy rằng, khi Chính phủ phát hành tiền thì việc
kiểm soát và hạn chế khối lượng phát hành rất khó.
+ Lượng tiền trong lưu thông giờ đây bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi ở ngân hàng. Sự mở
rộng các hoạt động tín dụng sẽ làm tăng nhu cầu tiêu tiền mặt. Vì thế, khi nắm vai trò độc quyền
phát hành, NHTW có cơ hội để kiểm soát khả năng mở rộng tín dụng và do đó điều chỉnh
lượng tiền cần pháthành.
+ Giấy bạc do NHTW phát hành - một ngân hàng nhận được sư ưu đãi tối ưu từ Chính phủ -
sẽ có uy tín cao trong lưu thông
+ Việc phát hành tiền mang lại lợi nhuận, vì thế tốt nhất nên được tập trung vào một ngân
hàng để tiện cho việc phân phối và sử dụng nguồn lợi đó một cách thích hợp.
Đơn vị tiền tệ: Đơn vị tiền tệ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đồng, kí hiệu
quốc gia là đ, kí hiệu quốc tế là VND, một đồng bằng mười hào, một hào bằng mười xu.
In, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành, tiêu hủy tiền: Ngân hàng Nhà nước thiết kế mệnh
giá, kích thước, trọng lượng, hình vẽ, hoa văn và các đặc điểm khác của tiền giấy, tiền kim loại
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc đúc, bảo quản,
vận chuyển, phát hành, hủy tiền.
7
Xử lý tiền rách nát, hư hỏng: Ngân hàng Nhà nước quy định tiêu chuẩn phân loại tiền rách

nát, hư hỏng, đổi, thu hồi các loại tiền rách nát hư hỏng do quá trình lưu thông, không đổi những
đồng tiền rách nát, hư hỏng do hành vi phá hoại.
Thu hồi, thay thế tiền: Ngân hàng Nhà nước thu hồi và rút khỏi lưu thông
các loại tiền không còn thích hợp và phát hành các loại tiền khác thay thế. Các loại tiền thu
hồi được đổi lấy các loại tiền khác với giá trị tương đương trong thời hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định.
Tiền mẫu và tiền lưu niệm: Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc in, đúc, bán ở trong
nước và ngoài nước các loại tiền mẫu, tiền lưu niệm được thiết kế
phục vụ cho mục đích sưu tập hoặc mục đích khác theo quy định của Chính phủ.
Ban hành và kiểm tra, giám sát thực hiện quy chế nghiệp vụ phát hành tiền: Chính phủ ban
hành quy chế nghiệp vụ phát hành tiền bao gồm các quy định về việc in, đúc, bảo quản, vận
chuyển, phát hành, thu hồi, thay thế, tiêu hủy tiền và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ phát
hành tiền. Bộ Tài chính kiểm tra việc thực hiện quy chế nghiệp vụ phát hành tiền. Bộ Tài chính,
Bộ Công an giám sát quá trình in, đúc, tiêu hủy tiền.
2.1. 2 Nguyên tắc phát hành tiền
2.1.2.1 Nguyên tắc trữ kim
Nguyên tắc này được áp dụng trong thời kì lưu thông tiền vàng ( thời kì bản vị vàng). Việc
phát hành tiền giấy ràng buộc chặt chẽ bởi quý kim. Việc tăng hay giảm số lượng tiền giấy tuỳ
thuộc vào số lượng quý kim dự trữ của ngân hàng. Việc phát hành tiền giấy chỉ được thực
hiện khi nào có một lượng quý kim được nhập vào kho. Tuy nhiên có thể chấp nhận một
lượng nhất định vượt mức của khối tiền phát hành đối đối với số quý kim dự trữ, phần
vượt đó phải thật thấp và cố định.Việc đảm bảo bằng vàng có thể được thực hiện bằng một
trong các hình thức sau:
- Nhà nước qui định một hạn mức phát hành giấy bạc ngân hàng: nếu khối lượng giấy bạc
ngân hàng nằm trong hạn mức thì không cần phải có kim loại quí (vàng) làm đảm bảo, nhưng nếu
vượt quá hạn mức đó thì đòi hỏi cần phải có 100% vàng làm đảm bảo.
- Nhà nước qui định mức dự trữ vàng tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành, phần còn
lại phải được đảm bảo bằng các chứng từ có giá như thương phiếu, chứng khoán chính phủ và các
tài sản Có khác của NHTW. Phát hành tiền có đảm bảo bằng vàng dược qui định cụ thể cho
từng thời gian tùy thuộc vào mục tiêu ổn định tiền tệ và khả năng dự trữ vàng. Thực hiện

theo nguyên tắc này có ưu điểm: một mặt khống chế mức phát hành giấy bạc tăng giảm
theo khối lượng dự trữ kim loại hiện có, tránh sự lạm dụng quyền phát hành tiền để phát
8
hành một lượng tiền vào lưu thông vượt quá nhu cầu của nền kinh tế, dễ gây ra lạm phát.
Mặt khác, dự trữ vàng làm đảm bảo còn làm cơ sở cho việc chuyển đổi giấy bạc ngân
hàng ra vàng; thông qua chuyển đổi mà điều tiết lượng giấy bạc trong lưu thông phù hợp
với giá trị mà nó thay thế, đảm bảo giá trị danh nghĩa (mệnh giá) của giấy bạc phù hợp với
giá trị thực tế (vàng) mà nó đại diện. Nguyên tắc này có nhược điểm là sự thiếu linh hoạt của
khối lượng tiền phát hành và phần nào tách rời khối lượng tiền phát hành khỏi nhu cầu lưu thông
hàng hóa, đặt sự ổn định của lưu thông giấy bạc ngân hàng phụ thuộc vào dự trữ vàng. Nếu khối
lượng hàng hóa lưu thông tăng khi số lượng vàng dự trữ có hạn sẽ ảnh hưởng đến lưu thông tiền
tệ. Mặc dù các quy định bổ sung của các nước làm cho nguyên tắc dự trữ vàng trở nên linh
hoạt hơn đối với hoạt động phát hành của NHTW, nhưng nhiều quốc gia, có thể do áp
lực của cuộc khủng hỏang kinh tế 1929-1933 hoặc do ảnh hưởng của các điều kiện sau
chiến tranh, cùng với sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng, đã giảm, ngừng hoặc hủy bỏ yêu cầu dự
trữ vàng cho lượng tiền phát hành. Việc này chính là bước khởi đầu của sự chuyển đổi cơ chế
phát hành tiền nhằm đảm bảo tính linh hoạt đang ngày càng tăng lên trong hoạt động
phát hành tiền của NHTW. Như vậy trong thời kì vàng còn đóng vai trò là tiền tệ thì cơ sở đảm
bảo cho phát hành tiền của NHTW là một trọng lượng vàng dự trữ làm căn cứ cho việc phát hành
tiền và khả năng dự trữ điều tiết của tiền vàng đã dự trữ cho tiền tệ được ổn định.
2.1.2.2 Nguyên tắc hàng hoá
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa khối lượng hàng hóa sản xuất ngày càng gia
tăng, đòi hỏi phải đưa nhiều tiền vào lưu thông để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi hàng hóa
và dịch vụ, mặt khác để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu chính phủ ngày càng tăng, nguyên tắc
phát hành tiền dựa vào dự trữ kim loại quí gần như chấm dứt. Thay vào đó phát hành tiền
được đảm bảo bằng hàng hóa. Quá trình lưu thông tiền tệ đã làm xuất hiện nhận thức
mới về tiền, thế giới đã phải tiền tệ hóa vai trò của vàng, các loại tiền dấu hiệu ra đời thay
thế cho tiền vàng trong lưu thông. Theo nguyên tắc này giấy bạc ngân hàng được phát hành
không còn bị cột chặt vào dự trữ vàng hay bất kì một loại hàng hoá cố định nào khác mà hoàn
toàn dựa vào nhu cầu của nền kinh tế. NHTW chỉ phát hành phát hành thêm tiền vào lưu

thông khi có sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tăng thêm trong nền kinh tế. Ngược lại nếu số
lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tạo ra ít hơn trước thì NHTW phải rút bớt tiền về. Như vậy,
theo cơ chế phát hành này NHTW có thể điều chỉnh linh hoạt khối lượng tiền phát hành
phù hợp với sự biến động của nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế trong từng thời kỳ và đảm bảo lưu
thông tiền tệ ổn định. Tuy nhiên, nếu dựa trên cớ chế phát hành này, nếu NHTW không căn cứ
vào tình hình kinh tế hay nhu cầu tiền tệ trên thị trường, phát hành ra một lượng tiền lớn
9
hơn số lượng hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế, gây mất cân bằng về tỷ lệ giữa hàng và tiền, sẽ
rất dễ dàng gây ra lạm phát. Ngày nay hầu hết NHTW các quốc gia đều thực hiện phát
hành tiền theo nguyên tắc này. Lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm ở VN
được chính phủ phê duyệt chủ yếu căn cứ vào tốc độ tăng tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát dự
kiến, tốc độ chu chuyển tiền tệ, tiền mặt tồn quỹ và nghiệp vụ thanh toán…
2.1.3 Các lần phát hành tiền ở Việt Nam kể từ ngày thống nhất đất nước.
Sau khi Hội nghị hiệp thương thống nhất hai miền, ngày 25.4.1978, chính phủ
nước CHXHCNVN quyết định thống nhất tiền tệ trên toàn quốc, cả nước thực hiện hệ thống
ngân hàng một cấp là NHNNVN.
* Ngày 3.5.1978 chính thức phát hành tiền mới gồm các loại giấy:
5 hào , 1đồng , 5 đồng , 10 đồng
, 20 đồng và 50 đ
mặt trước có quốc huy và hàng chữ NHNNVN, mặt sau in hình các cơ sở kinh tế hai miền và
năm in là 1976. Riêng tiền đúc bằng nhôm, mặt trước cũng luôn có hình quốc huy, còn mặt sau
có ghi NHNNVN, giá trị đồng tiền gồm: 1 hào, 2 hào, 5 hào và 1 đồng cùng năm đúc là
1976.
Hệ thống tiền mới này có giá trị tương đương hệ thống cũ, nghĩa là: 1 đồng tiền miền Bắc hoặc
0, 8 đồng tiền miền Nam đổi lấy 1 đồng tiền mới. Như vậy từ đây, trên toàn lãnh thổ Việt Nam
chỉ có một hệ thống tiền duy nhất lưu hành
* Dần đến năm 1980, ngân hàng lại phát hành thêm loại tiền giấy mới mặt trước
có quốc huy và quốc hiệu CHXHCNVN, mặt sau ghi hàng chữ NHNNVN năm in 1980 và
phong cảnh hai miền:
tờ 2đ , tờ 10 đ và tờ 100 đ là tờ giấy tiền có giá trị

lớn nhất thời ấy.
Đặc biệt năm 1981 cho phát hành tờ 30 đ có chân dung Bác
và hình ảnh cảng Nhà Rồng. Sau đó, khối lượng tiền cung ứng và tổng phương tiện thanh toán
10
tăng lên nhanh chóng, đến năm 1985 tăng gấp 35 lần so với năm 1980, trong đó khối lượng tiền
lưu hành tăng gấp 20 lần làm lạm phát trầm trọng, vật giá leo thang
* Để thi hành Nghị quyết về Giá - Lương - Tiền nhằm mục đích điều chỉnh và ổn định sức
mua của đồng tiền, từ ngày 14.9.1985, Nhà nước lại tiến hành đổi tiền: 1 đồng tiền mới
bằng 10 đồng tiền cũ. Đợt đầu từ tháng 9.1985 đến 1986 phát hành các loại tiền giấy:
5 hào , 1 đ ,
2đ , 5đ , 10đ ,
20đ , 30đ ,
50đ ,100đ và 500 đ . Hệ thống tiền
đúc 1 hào, 2 hào, 5 hào và 1 đồng năm 1976 vẫn cho lưu hành Vì tỉ lệ đồng mới bằng
10 đồng cũ nên tờ tiền mới lúc đó có giá trị rất cao. Ngay sau khi đổi tiền chưa được bao lâu
thì chính phủ quyết định nâng giá lên trở lại 10 lần. Cuộc cải cách Giá - Lương - Tiền xét trên
tổng thể đã tiến hành thiếu đồng bộ, chỉ một
năm sau, tức năm 1986, lạm phát đến mức
chóng mặt: 774%. Báo cáo Chính trị của
BCHTW Đảng tại Đại hộiVI chỉ rõ: "- Việc
giải quyết vấn đề Giá - Lương - Tiền đã phạm
sai lầm"
Với sự gợi ý của ông Lữ Minh Châu (Thống
đốc Ngân hàng), một người hoạt
động về lĩnh vực ngân hàng nhiều kinh
nghiệm từ trước 1975, để khắc phục
tình hình này, báo cáo chính trị đã
có phương hướng: “Bên cạnh nhiệm quản
lý lưu thông tiền tệ của NHNN, cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh
doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng hoạt động theo chế độ hạch toán kinhtế”. Để thực

hiện Nghị quyết VI, ngày 13.7.1987, Hội đồng Bộ trưởng (HĐBT) ban hành Chỉ thị
218.CT cho phép ngân hàng chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp thí điểm ở 4 thành
phố lớn:Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Sau khi thử
nghiệm có kết quả, ngày 26.3.1988, Nghị định 53. HĐBT có nội dung cơ bản là xóa bỏ
hệ thống ngân hàng một cấp, xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp theo nền kinh tế thị
11
trường. Ngân hàng Nhà nước lúc này là ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan phát hành tiền
của nhà nước, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về điều hòa lưu thông tiền tệ, giám sát
và thanh tra hoạt động kinh doanh của các ngân hàng chuyên doanh (như: Ngân hàng
Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp ). Từ cuộc
cải cách đó, năm 1988 nạn lạm phát 500% đến 1989 kéo xuống còn 34%.
* Trong những năm 1987 - 1988, ngân hàng phát hành thêm các loại tiền mới luôn có
chân dung Bác:
tờ 200đ ; tờ 500đ , tờ 1000đ , tờ 2000đ
, tờ 5000đ , cả 4 tờ đều có hình chìm chân dung Bác, hiện
dần bị thu hồi nay hầu như đã vắng bóng Sau đó, ngân hàng lại cho phát hành thêm các
loại tiến giấy 100đ .Tờ 1000đ năm 1988 , tờ 2000đ
năm 1988 , tờ 5000đ năm 1991 , tờ 10.000đ năm 1993
, tờ 20.000đ năm 1991 , 50.000đ năm 1994
12
và tờ 100.000 đ năm 2000 (cả 3 tờ này đều có
hình chìm chân dung Bác). NHNN VN luôn áp dụng các kỹ thuật hiện đại và công nghệ mới
trong việc sản xuất tiền giấy, nhằm nâng cao chất lượng in ấn cũng như tính bảo an của
đồng tiền Việt Nam. Do đó, có những thời điểm, trong lưu thông có 2 đồng tiền cùng
mệnh giá (giá trị ngang nhau) nhưng khác nhau về mẫu thiết kế ( hình thức ) cùng song
song lưu hành. Ngày 17 tháng 12 năm 2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành bổ sung
vào lưu thông 2 đồng tiền mệnh giá 500.000đ và 50.000đ
được in trên chất liệu giấy polymer. Ngày 01 tháng 9 năm
2004, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành bổ sung loại tiền giấy polymer mệnh giá
100.000đ . Ngày 17 tháng 5 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam tiếp tục phát hành vào lưu thông đồng tiền polymer mệnh giá 20.000đ
. Và ngày 30 tháng 8 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đưa vào lưu thông 2 đồng tiền mệnh giá 200.000đ
và 10.000đ in trên giấy
polymer. Như vậy, hiện nay trong lưu thông, mệnh giá 100.000đ, 50.000đ, 20.000đ và
10.000đ có 2 mẫu thiết kế, in trên chất liệu giấy nền polymer và cotton cùng song song lưu
13
hành. Ngày 17 tháng 12 năm 2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành tiền kim loại
vào lưu thông với 3 mệnh giá: 5.000đ , 1.000đ và 200đ
. Ngày 01 tháng 4 năm 2004 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành thêm 2
mệnh giá: 2.000đ và 500đ . Việc phát hành trở lại tiền kim loại
không chỉ đánh dấu sự ổn định về mặt giá trị của đồng tiền Việt Nam trong thời gian qua,
mà còn là bước đi nhằm hoàn thiện hệ thống tiền tệ Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế,
tiết giảm chi phí phát hành đối với đồng tiền có mệnh giá nhỏ.
2.1.4 Các kênh phát hành tiền.
NHTW có bốn đối tượng giao dịch chính. Trong bốn mối quan hệ đó, NHTW phát hành tiền
tệ. Đó là Chính phủ, các ngân hàng thương mại, thị trường mở và thị trường ngoại hối.
2.1.4.1 Kênh ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước phải cân đối giữa tổng thu tài chính và tổng chi tài chính nhưng trong
thựctế ngân sách nhà nước thường rơi vào một trong 2 trạng thái: ngân sách bội thu nếu
tổng thu lớn hơn tổng chi. Khi ngân sách bội thu thì hoạt đông của ngân sách
không ảnh hưởng đến hoạt động của NHTW. Nhưng khi ngân sách bội chi sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động của chính sách tiền tệ. Bởi lẽ chính phủ với tư cách là chủ thể kinh tế như mọi
chủ thể kinh tế khác khi thiếu tiền chi tiêu sẽ phải đi vay tiền để bù đắp thiếu hụt, chính
phủ sẽ xử lí bằng cách:
Vay của công chúng thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ dưới các hình
thức: tính phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái nhà nước. Với cách này sẽ không
ảnh hưởng đến mức cung ứng tiền của NHTW. Bởi vì khi chính phủ phát hành các công cụ nợ,
công chúng bỏ tiền ra mua các công cụ đó tức là đã cho chính phủ vay. Khi đến kì hạn, chính phủ
thu được thuế, có tiền để trả lại cho công chúng, chính phủ lại thu các công cụ nợ về. Như

vậy NHTW không phải phát hành them tiền.
14
Vay của nước ngoài: lượng tiền vay được thông thường dưới hình thức hàng hóa,
vàng hoặc ngoại tệ các loại. Những loại tài sản này khi đem về nước thường phải kí quĩ ở
NHTW để chuyển đổi thành tiền mặt, có nghĩa là NHTW sẽ phải phát hành thêm tiền.
Vay của NHTW: khi Chính phủ vay của NHTW, lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ
tăng lên thông qua chi tiêu của Chính phủ
Vay của NHTW và vay của nước ngòai (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng nhanh khối tiền tệ, gây áp
lực lạm phát tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của các NHTM trong nước, nguy cơ
làm tăng khối tiền tệ nhẹ hơn. Áp lực lạm phát ở các nước đang phát triển mạnh hơn so với các
nước có thu nhập cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW bằng cách
phát hành tiền trực tiếp và nợ nước ngòai. Hành vi cung ứng tiền cho Ngân sách Nhà nước chi
tiêu (dù có đảm bảo) sẽ làm yếu năng lực kiểm soát tiền tệ của NHTW và chứa đựng nguy cơ lạm
phát tiềm năng. Vì thế kênh phát hành này ngày càng ít được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế
giới.
2.1.4.2 Kênh ngân hàng thương mại
Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, và lượng tiền cung ứng thêm
trong năm kế hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ và nhu cầu vay vốn của
các tổ chức tín dụng, NHTW phát hành tiền bằng cách cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạng
dưới hình thức tái cấp vốn như:
- Cho vay đảm bảo bằng các chứng từ có giá
- Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá…Tái cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra
lưu thông, đồng thời khống chế về số lượng và chất lượng tín dụng của các NH trung gian, bơm
tiền ra lưu thông theo mức độ đã được không chế để kiềm chế lạm phát hoặc kích thích tăng
trưởng kinh tế. Tái cấp vốn được coi là hình thức phát triển lành mạnh, vì nó dựa trên
thương phiếu là một loại giấy tờ có giá tượng trưng cho những món nợ về thương mại và đằng
sau nó có vật tư hàng hóa. Qua việc cấp tín dụng NHTW đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy
toàn bộ hệ thống NH trung gian tạo ra tiền, cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ
bởivì không phải lúc nào hoạt động của các NH trung gian cũng diễn ra trôi chảy thuận
lợi, cũng có lúc,nhu cầu rút tiền lớn, NH trung gian lâm vào tình trạng thiếu vốn. Đối

với các NH trung gian, với tư cách là người “ đi vay vốn để cho vay”, khi vốn khả dụng
bị đe dọa, NHTW là chỗ dựa, là cứu tinh của họ, vì họ có khả năng điều tiết được vốn
15
khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán bằngtiền trung ương vừa được cung
ứng. NHTW điều tiết hoạt động cho vay của các NH trung gian thông qua lãi suất tín
dụng. Thôngthường lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều: khi lãi suất tiền
gửi được nâng lên thì lãi suất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại, làm sao dung
hòa được 2 yêu cầu: nâng lãi suất huy động để thu hút được nguồn vốn và kìm chế lạm phát.
Hạ lãi suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay, nâng đỡ sản xuất. Là cơ quan thực thi chính sách
tiền tệ, NHTW tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và tiền vay của NH trung gian bằng
lãi suất tái chiết khấu của mình, nhằm điều tiết cung cầu tín dụng. Để bành trướng hay thu hẹp
khối tiền tệ, NHTW áp dụng một lãi suất tái chiết khấu khích lệ hay làm nản lòng các NH trung
gian trong việc đi vay vốn NHTW, khi cần mở rộng tín dụng, NHTW hạ thấp lãi suất tái
chiết khấu, làm “rẻ” tín dụng để kích thích đầu tư. Ngược lại khi cần thắt chặt tín dụng, NHTW
sẽ nâng lãi suất tái chiết khấu lên, làm “đắt” tín dụng để hạn chế đầu tư. Tóm lại khi NHTW cho
các tổ chức tín dụng vay sẽ đẫn đến tăng tiền nghĩa là một khối lượng tiền được đưa vào lưu
thông và khoảng tín dụng mà các NHTM nhận được đã trở thành nguồn vốn nhằm mở
rộng cho hoạt động đầu tư, cho vay đối với nền kinh tế.
2.1.4.3 Kênh thị trường mở
Thị trường mở là một trong các cửa ngõ để NHTW phát hành tiền vào guồng máy kinh tế,
hoặc rút bớt khối tiền tệ lưu thông trong đó bằng cách mua hay bán các lọai giấy tờ có
giá ngắn hạn thông qua các nghiệp vụ của thị trường mở, tức là thông qua thị trường tiền tệ do
NHTW tổ chức và chi phối. Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở NHTW mua các chứng từ có giá
trên thị trường tiền tệ như: tín phiếu kho bạc, chứng từ có giá ngắn hạn khác. Khi NHTW thực
hiện nghiệp vụ mua là NHTW đã đưa một lượng tiền vào lưu thông, các chứng từ có giá được
NHTW nắm giữ trở thành tài sản Có của NHTW, tương ứng với nó là sự tăng lên một lượng
tiền dự trữ của các NHTM hoặc lượng tiền mặt, làm tăng khối tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc
đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, bằng cách bán các loại tín phiếu có giá ngắn hạn
NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
Phát hành tiền bằng việc mua các chứng khóan có giá ngắn hạn trên thị trường mở cũng

được xem là một nghiệp vụ phát hành có đảm bảo, bởi lẽ tiền tăng thêm trong lưu thông
đã được cân đối bởi một lượng chứng khoán. Nếu không có sự tham gia mua bán của
NHTW trên thị trường tiền tệ mà chỉ có việc mua bán tín phiếu giữa các NH trung gian với nhau,
thì khối tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi. Bởi vì một NH thương mại này bán tín phiếu cho các
NH thương mại khác, thì trong tòan cục chỉ là sự chuyển dịch trái phiếu và sự di chuyển ngược
16
lại của một phần dự trữ đang thừa từ NHTM này qua NHTM khác đang thiếu mà thôi. Kênh phát
hành thông qua nghiệp vụ thị trường mở hiện nay đang được sử dụng phổ biến ở các nước có thị
trường tiền tệ phát triển vì có hiệu quả hơn rất nhiều so với các kênh khác.
2.1.4.4 Kênh thị trường ngoại hối
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có dự trữ vàng và ngoại tệ nhất định. Dự trữ chính
thức nằm trong kho bạc của Chính phủ dưới dạng dự trữ quốc gia. Dự trữ này không
phải để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi của công chúng cũng không phải để bảo đảm giá trị tiền tệ
phát hành, mà chúng nhằm thực hiện công dụng chính, đó là một công cụ để NHTW can thiệp
vào thị trường vàng và ngoại tê. Bên cạnh dư trữ chính thức là dự trữ không chính thức, dự
trữ không chính thức hình thành một thị trường mua bán diễn biến rất sôi động, giá cả
trên thị trường này hết sức nhạy bén và có ảnh hưởng sâu sắc đến giá cả thị trường
hàng hóa cũng như họat động chung của tòan bộ nền kinh tế. Chính vì thế, NHTW với
tư cách là định chế tài chính quản lý kinh tế vĩ mô của NN phải can thiệp vào với việc mở rộng
hay thu hẹp thị trường hàng hóa, dịch vụ, đồng thời giúp cho hoạt động của ngân hàng
thương mại diễn ra một cách trôi chảy thuận lợi. Qua kênh ngân hàng trung gian, NHTW
là người cho vay sau cùng, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kiềm chế
lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái thì NHTW có thể tăng
lượng tiền cung ứng bằng cách giảm lãi suất tái chiết khấu và tăng hạn mức tín dụng từ đó sẽ làm
tăng lượng tiền cung ứng, thúc dẩy đầu tư phát triển sản xuất. Ngược lại khi nền kinh tế
lạm phát, NHTW có thể tăng lãi suất tái chiết khấu và giảm hạn mức tín dụng từ đó làm
giảm lượng tiền cho vay của các NHTG dẫn đến giảm lượng tiền trong lưu thông.Việc đưa
tiền ra lưu thông thông qua kênh thị trường ngọai hối, nếu không có sự điều tiết thích hợp cũng
dễ dàng dẫn đến nguy cơ lạm phát, như ta đã biết tình hình lạm phát hai con số của Việt Nam
năm 2007, do giá lương thực thực phẩm và giá dầu lửa thế giới biến động dẫn đến tình trạng lạm

phát ở Việt Nam, nhưng tại sao cũng cùng chịu sư ảnh hưởng của biến động giá đó mà 2
nước trong khuvực như Thái Lan, và Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức một con số,
đó là do khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam và các quốc gia đó là tốc độ tăng cung tiền, cung
tiền ở VN tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngòai chảy vào tăng đột biến, từ đó
buộc NHNN đóng vai trò là người mua ngọai tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu
thông, tuy nhiên thông qua kênh này NHNN có thể góp phầnđiều chỉnh bình ổn lại thị trường
ngọai tê, bằng cách thực hiện các nghiệp vụ mua bán trên thị trườngnay, bằng việc tung ra một
lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua ngoại tệ và vàng, từ đó làm tăng dự trữ quốc
gia , mặt khác làm gia tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế. Bên cạnh sự ảnh hưởng
17
từ các kênh dẫn tiền vào lưu thông, thì việc đổi tiền, một trong các nghiệp vụ phát hành
tiền, nếu thực hiện không đúng thời điểm và dựa vào tình hình phát triển kinh tế và nhu
cầu về tiền tệ để xác định đúng khối lượng tiền cần phát hành cũng sẽ dẫn đến hậu quả
tiêu cực cho sự phát triển kinh tế. Điển hình như lần đổi tiền thứ tư của Nhà nước vào
14/9/1985 theo tỉ lệ 10đ tiền NHNN cũ ăn 1đ tiền NHNN mới, tuy nhiên lẽ ra trước khi
làm cuộc cách mạng về tiền thì Chính phủ phải làm cuộccách mạng về giá và lương, nhưng
ta đã làm theo quy trình ngược: Tiền - Lương - Giá, hậu quả là cuộc đổi tiền 1985 đã bị coi là
không thành công nhất trong lịch sử lưu thông tiền tệ Việt Nam, ngay sau khi đổi tiền tình hình
lạm phát tiếp tục gia tăng hơn bao giờ hết - chỉ 3,5 tháng sau ngày đổi tiền, Nhà nước đã cho
phát hành thêm vào lưu thông một khối lượng lớn tiền tương đương 1,38 lần khối lượng
tiền mới đã phát hành trong đợt đổi tiền trước đó để phục vụ công cuộc cải cách lương và giá.
Tiếp đó lại là một quá trình diễn biến phức tạp về quan hệ tiền - hàng và kết quả là lạm
phát đã không ngừng gia tăng, như năm 1986 lạm phát lên đến 774% ngay đối với đồng
tiền mệnh giá mới đã gấp 10 lần đồng tiền mệnh giá cũ. Mặt khác sự can thiệp của NHTW
vào thị trường vàng và ngoại tệ sẽ ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái do đó sẽ có tác động đến các
hoạt động xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế. Cụ thể: khi tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho
đồng nội tệ giảm giá tương đối so với ngoại tệ từ đó hoạt động xuất khẩu sẽ hưởng lợi. Khi tỷ
giá hối đoái giảm thì xảy ra trường hợp ngược lại gây ảnh hưởng đến cán cân thanh
toán.Thông qua thị trường mở, là một kênh phát hành tiền hiệu quả và linh hoạt của NHTW
.Thông qua nghiệp vụ thị trường mở NHTW có thể điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của

các tổ chức tín dụng theo cả hai chiều bơm – hút từ đó điều tiết được lượng tiền trong
lưu thông phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế.
Tóm lại tùy vào sự phát triển của nền kinh tế, mà NHTW cần thận trọng khi ra quyết định sự
dụng kênh nào đề phát hành tiền và xác định lưu lượng tiền bổ sung vào lưu thông,
nhằm tạo ra hiệu quả tích cực cho nền kinh tế, kích thích đầu tư sản xuất phát triển, hạn chế
được tình trạng lạm phát.
Về căn bản, việc phát hành khi xưa bị ràng buộc quá nhiều bởi dự trữ vàng ở ngân hàng. Sự
lệ thuộc của khối lượng tiền tệ phát hành vào khối trữ kim đã làm cho nền kinh tế nhiều
lúc thiếu tiền. Chính nguyên do thiếu tiền này đã làm xuất hiện những cuộc khủng hỏang
kinh tế nhiều nơi vào nửa thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Lúc bấy giờ, nền kinh tế các nước Châu
Âu phát triển quá mau nhưng khối lượng tiền tệ bị ràng buộc bởi quý kim nên không tăng theo
cùng một tỷ lệ. Đôi khi giữa lúc nền kinh tế đáng lẽ cần phải có nhiều tiền hơn để tiếp tục
yểm trợ các hoạt động sản xuất phát triển, thì ngân hàng, do áp lực của nhu cầu chuyển
18
đổi của dân từ tiền giấy sang vàng, đã buộc phải làm áp lực với khách hàng thu hồi nợ,
khiến cho nền kinh tế đang cần tiền, trở nên thiếu tiền trầm trọng, làm phát sinh những
cuộc khủng hoảng ở Hoa Kỳ năm 1907, và cuộc khủng hỏang kinh tế thế giới 1929. Từ thập niên
1930 trở đi, các nước đã lần lượt cắt đứt mối liên hệ giữa tiền giấy và vàng theo một tỷ giá cố
định. NHTW đảm nhiệm vai trò phát hành tiền tệ trên một căn bản rộng rãi hơn là
căn bản vàng và điều này đã làm cho việc phát hành dựa vào nhu cầu thực tế của nền kinh tế.
Chúng ta đã biết là tiền tệ có một sức mua, một giá trị tiềm ẩn. Sức mua này bao gồm cả mọi lọai
hàng hóa và dịch vụ, kể cả vàng chứ không riêng gì vàng. Vậy giữa tiền tệ và hàng hóa, dịch vụ
có một tương quan nhất định. Vai trò của tiền tệ là làm thế nào để yểm trợ những hoạt động sản
xuất hàng hóa và dịch vụ hay những hoạt động đưa khối lượng hàng hóa và dịch vụ vào
lưu thông phân phối.Việc phát hành tiền tệ phải dựa vào nhu cầu làm xuất hiện một khối
lượng hàng hóa dịch vụ đủ giữ vững cho sức mua của tiền tệ, nghĩa là việc phát hành tiền tệ
ngày nay căn bản là dựa vào nguyên tắc hàng hóa. Đó là căn bản của việc phát hành tiền tệ ngày
nay. Căn bản phát hành này rộng hơn căn bản phát hành ngày xưa. Trước thập niên 30, như
chúng ta đã thấy, theo nguyên tắc trữ kim, đại bộ phận tiền giấy phát hành có đối phần là
vàng, lúc ban đầu 100% là vàng, nhưng lần lần về sau, có thể có một khối tiền giấy vượt

đinh mức vàng ở một biên vực lúc đầu nhỏ hẹp về sau rộng dần. Tuy số tiền giấy ngoài
định mức vàng đó cũng phải có đối phần là thương phiếu hay trái phiếu quốc gia, nhưng nó
chiếm một tỷ lệ tương đối ít hơn đối phần bằng vàng. Ngày nay, tỷ lệ quan trọng của các đối phần
của tiền tệ đảo ngược lại. Tiền tệ phát hành phần lớn là để làm ra của cải vật chất, tức là hàng hóa
dịch vụ, vì hàng hóa dịch vụ được tiêu dùng trong cả nước khắp mọi tầng lớp. Nó được tượng
trưng bởi khối thương phiếu làm đảm bảo cho việc ứng tiền hay cấp phát tín dụng. Khối
thương phiếu đó là đối phần quan trong nhất, kế đó là vàng và ngoại tệ,rồi mới tới đối
phần thứ ba là trái phiếu quốc gia.
2.2 Chức năng ngân hàng của các ngân hàng
Vì các NHTM và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài khoản và kí quỹ tại NHTW
nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều tiết thanh toán giữa các ngân hàng. Vai trò này giúp
NHTW kiểm soát, theo dõi, quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Mặt
khác có thể quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống tài chính vào những thời điểm
nhất định.
Với chức năng Ngân hàng của các ngân hàng thương mại, NHNN Việt Nam cung ứng các
dịch vụ sau:
2.2.1 Nhận tiền gửi của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
19
Để đáp ứng yêu cầu chi trả, các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khi được cấp
phép hoạt động đều phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN và gửi tiền vào đó theo quy định. Số
dư “ tài khoản tiền gửi thanh toán” của các tổ chức này được NHNN trả lãi. Ngoài ra, NHNN
còn quản lý “tiền gửi dự trữ bắt buộc” của các ngân hàng tín dụng có huy động tiền gửi để kinh
doanh. Mức dự trữ bắt buộc này được tính theo tỉ lệ % trên từng loại tiền gửi không kỳ hạn hoặc
có kỳ hạn. Ở Việt Nam, tỉ lệ này là 10%
Ưu điểm của dự trữ bắt buộc là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, hạn chế rủi ro thanh toán
cho cả hệ thống.
2.2.2 Cho vay đối với NHTM và các tổ chức tín dụng
Với chức năng này, NHNN luôn là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức
tín dụng thông qua tái cấp vốn. NHNN Việt Nam cũng thực hiện chức năng này thông qua các
ngân hàng thuộc sự kiểm soát của Nhà nước như Ngân hàng BIDV, Ngân hàng Agribank,…

2.3 Chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động ngân hàng
Ngân hàng trung ương có một vai trò quan trọng trong việc quản lỹ các hoạt động ngân hàng
như: hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, và các dịch vụ ngân hàng khác, trong những năm qua
ngân hàng trung ương đã có những hoạt động nào để thực hiện chức năng này của mình?
Các hoạt động của ngân hàng thương mại đều có tác động đến mức cung tiền trong nền kinh
tế từ đó ảnh huởng đến giá cả và sản lượng quốc gia. Vì vậy các chính sách mà ngân hàng trung
ương đưa ra đều hướng tới mục đích cải thiện, ổn định và phát triển nền kinh tế.
• Ngân hàng trung ương với vai trò này của mình sẽ có nhiệm vụ quy định nội dung, phạm vi
quy chế hoạt động không chỉ của NHTM mà còn quản lý đối với các tổ chức tín dụng.
Trong thời gian qua một số Ngân hàng thương mại đã được ngân hàng trung ương cấp giấy
phép hoạt động cũng như quy định nội dung và phạm vi hoạt động của mình cụ thể:
• Ngân hàng xăng dầu Petrolimex (PG Bank) : Tiền thân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Xăng dầu Petrolimex (gọi tắt là PG Bank) là Ngân hàng TMCP Nông thôn Đồng Tháp.
Tháng 3 năm 2007, PG Bank được Ngân hàng Nhà Nước cho phép chuyển đổi thành Ngân
hàng cổ phần đô thị theo Quyết định số 125/QĐ-NHNN ngày 12/01/2007 và đổi tên theo
Quyết định số 368/QĐ - NHNN ngày 08/02/2007. Theo đó, Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) sẽ được phép mở rộng mạng lưới trên phạm vi toàn quốc và
thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ ngân hàng như thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại hối.
• Một nhiệm vụ rất quan trọng của NHTW đó là quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các lợi
tiền gửi như: tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, ngoại tệ… và thực hiện các giải pháp
nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ
20
Trong thời gian quá, tình hình kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng có
nhiều biến động, do cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2007 và những ảnh hưởng của nó đến các
năm tiếp theo làm cho kinh tế gặp nhiều khó khăn trong đó nổi bật lên là tình trạng lạm phát vẫn
duy trì ở mức tương đối cao. Vì vậy, NHTW có một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều tiết
khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, mà công cụ được sử dụng nhiều nhất là tỉ lệ dự trữ bắt buộc
đối với các loại tiền gửi và thực hiện chính sách tiền tệ.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3-2011 của Việt Nam tăng 2,17%, đẩy lạm phát tính theo
năm lên mức 13,89%. Với việc tăng giá xăng, dầu thêm 2.000-2.800 đồng vào ngày 29-3, nhiều

khả năng CPI tháng 4 sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao. Nếu CPI tháng 4 tăng 1,5% thì mức lạm phát
tính theo năm sẽ là 15,44%. Điều này chắc chắn đòi hỏi NHNN phải có động thái rút tiền trong
lưu thông về mạnh hơn nữa để kiềm chế lạm phát.
Như vậy NHTW đã tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với các NHTM và các tổ chức tín dụng
nhằm hút bớt lượng tiền trong lưu thông nhằm kiềm chế lạm phát
Song song với việc tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc NHTW còn quy định mức lãi suất cho vay đối
với các NHTM.
Ngày 6/6/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã công bố tình hình hoạt động của hệ thống
ngân hàng trong tháng 5/2011. Theo NHNN, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khoảng
18,3%/năm (tăng 3%/năm so với cuối năm 2010).
Trong đó, lãi suất cho vay của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước khoảng 17,3%/năm
(cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu khoảng 16,6%/năm, cho vay sản xuất - kinh doanh
khác khoảng 18,5%/năm); nhóm ngân hàng thương mại cổ phần 19,7%/năm (cho vay nông
nghiệp, nông thôn và xuất khẩu khoảng 18,7%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác khoảng
19,2%/năm).
Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động VND bình quân là 2,9%/năm. Mặt bằng lãi
suất USD tương đối ổn định.
Lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng từ giữa tháng 5 đến nay có xu hướng giảm so
với cuối tháng trước. Hiện lãi suất cho vay qua đêm ở mức 13%/năm, lãi suất cho vay 1 tuần ở
mức 15%/năm, lãi suất cho vay 2 tuần - 1 tháng ở mức 18%/năm.
Trước tình hình chung, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến 19/5
ước tăng 0,56% so với tháng trước; trong đó, tiền gửi bằng VND tăng 1,32%, tiền gửi bằng ngoại
tệ giảm 1,96%. So với cuối năm trước, tổng số dư tiền gửi của khách hàng ước tăng 1,4%.
21
Cũng tính đến ngày 19/5, tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 0,01% so với tháng trước;
trong đó tín dụng bằng VND giảm 0,64%, tín dụng bằng ngoại tệ tăng 2,19%. So với cuối năm
trước, tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 6,07%.
Cũng theo NHNN, tổng phương tiện thanh toán đến 19/5 ước tăng 0,28% so với tháng trước
và tăng 1,57% so với cuối năm 2010. Trong đó, tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng
giảm 1,37% so với tháng trước và so với cuối năm trước tăng 2,59%.

Để chủ động kiểm soát tín dụng phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ, góp phần ổn định thị
trường tiền tệ, NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong
thanh toán điện tử liên ngân hàng từ mức 13%/năm lên 14%/năm và lãi suất tái chiết khấu từ mức
12%/năm lên mức 13%/năm kể từ ngày 1/5.
Bên cạnh đó, NHNN còn điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng và lãi
suất hợp lý (điều chỉnh tăng lãi suất kỳ hạn 7 ngày từ 13% lên 14% - 15%/năm) nhằm kiểm soát
và ổn định thị trường tiền tệ…
• Để đảm bảo an toàn trong toàn hệ thống NHTW còn có nhiệm vụ kiểm tra giám sát các hoạt
động đối nội, đối ngoại của các NHTM, các tổ chức tín dụng
Chỉ tính riêng năm 2010 và 10 tháng đầu năm 2011, cơ quan điều tra đã xác lập án điều tra 69
vụ án liên quan đến ngân hàng, làm thiệt hại trên 8.000 tỷ đồng.
Đại tá Nguyễn Đức Thịnh, Cục trưởng Cục CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức
vụ - Bộ Công an trong Hội nghị về phòng chống sai phạm, tham nhũng trong hoạt động tín
dụng ngân hàng cho biết: Phổ biến hiện nay có ba thủ đoạn chính liên quan đến tội phạm lĩnh
vực ngân hàng. Thứ nhất là cán bộ ngân hàng móc nối với đối tượng ngoài ngân hàng cố ý làm
trái các quy định để hưởng chênh lệch. Thứ hai là lập các hồ sơ khống để rút tiền đầu tư chứng
khoán, nhà đất. Thứ ba là lợi dụng quyền hạn của mình để lừa đảo, làm sai các quy định của
Nhà nước. trước những vụ án như vậy, cán bộ thanh tra ngân hàng nhà nước đã tiến hành điều
tra làm sáng tỏ nhiều vụ án, và thu hôi phần nào tài sản bị thất thoát về cho nhà nước
• Bên cạnh đó, NHTW còn đình chỉ hoạt động hoặc giải thể NHTM trong trường hợp vi phạm
pháp luật hoặc mất khả năng thanh toán sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết.
Đây là một nhiệm vụ khá quan trọng nhằm loại bỏ những NHTM không đủ năng lực hoạt động
để nhằm hạn chế những rủi ro cho khách hàng và các NHTM khác. Bên cạnh đó NHTW còn
tiền hành sát nhập các ngân hàng nhỏ.
Tóm lại, trong thời gian qua NHTW đã thực hiện tương đối tốt chức năng của mình trong
việc quản lý các hoạt động ngân hàng. NHTW đã có những chính sách đúng đắn kịp thời trong
việc điều tiết khối lượng tiền tệ nhằm ổn định tình trạng lạm phát đang ở mức cao hiện nay. Bên
22
cạnh đó NHTW còn có những chính sách về tái cơ cấu tổ chức của các ngân hàng thương mại
nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các ngân hàng thương mại. Phát hiện, điều tra và xử

lý nghiêm minh những cán bộ ngân hàng có hành vi tham ô, tham nhũng, vi phạm pháp luật khác.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP
3.1 Đối với chức năng phát hành tiền
Về căn bản, việc phát hành khi xưa bị ràng buộc quá nhiều bởi dự trữ vàng ở ngân hàng. Sự
lệ thuộc của khối lượng tiền tệ phát hành vào khối trữ kim đã làm cho nền kinh tế nhiều
lúc thiếu tiền. Chính nguyên do thiếu tiền này đã làm xuất hiện những cuộc khủng hỏang
kinh tế nhiều nơi vào nửa thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Lúc bấy giờ, nền kinh tế các nước Châu
Âu phát triển quá mau nhưng khối lượng tiền tệ bị ràng buộc bởi quý kim nên không tăng theo
cùng một tỷ lệ. Đôi khi giữa lúc nền kinh tế đáng lẽ cần phải có nhiều tiền hơn để tiếp tục
yểm trợ các hoạt động sản xuất phát triển, thì ngân hàng, do áp lực của nhu cầu chuyển
đổi của dân từ tiền giấy sang vàng, đã buộc phải làm áp lực với khách hàng thu hồi nợ,
khiến cho nền kinh tế đang cần tiền, trở nên thiếu tiền trầm trọng, làm phát sinh những
cuộc khủng hoảng ở Hoa Kỳ năm 1907, và cuộc khủng hỏang kinh tế thế giới 1929. Từ thập niên
1930 trở đi, các nước đã lần lượt cắt đứt mối liên hệ giữa tiền giấy và vàng theo một tỷ giá cố
định. NHTW đảm nhiệm vai trò phát hành tiền tệ trên một căn bản rộng rãi hơn là
căn bản vàng và điều này đã làm cho việc phát hành dựa vào nhu cầu thực tế của nền kinh tế.
Chúng ta đã biết là tiền tệ có một sức mua, một giá trị tiềm ẩn. Sức mua này bao gồm cả mọi lọai
23
hàng hóa và dịch vụ, kể cả vàng chứ không riêng gì vàng. Vậy giữa tiền tệ và hàng hóa, dịch vụ
có một tương quan nhất định. Vai trò của tiền tệ là làm thế nào để yểm trợ những hoạt động sản
xuất hàng hóa và dịch vụ hay những hoạt động đưa khối lượng hàng hóa và dịch vụ vào
lưu thông phân phối.Việc phát hành tiền tệ phải dựa vào nhu cầu làm xuất hiện một khối
lượng hàng hóa dịch vụ đủ giữ vững cho sức mua của tiền tệ, nghĩa là việc phát hành tiền tệ
ngày nay căn bản là dựa vào nguyên tắc hàng hóa. Đó là căn bản của việc phát hành tiền tệ ngày
nay. Căn bản phát hành này rộng hơn căn bản phát hành ngày xưa. Trước thập niên 30, như
chúng ta đã thấy, theo nguyên tắc trữ kim, đại bộ phận tiền giấy phát hành có đối phần là
vàng, lúc ban đầu 100% là vàng, nhưng lần lần về sau, có thể có một khối tiền giấy vượt
đinh mức vàng ở một biên vực lúc đầu nhỏ hẹp về sau rộng dần. Tuy số tiền giấy ngoài
định mức vàng đó cũng phải có đối phần là thương phiếu hay trái phiếu quốc gia, nhưng nó
chiếm một tỷ lệ tương đối ít hơn đối phần bằng vàng. Ngày nay, tỷ lệ quan trọng của các đối phần

của tiền tệ đảo ngược lại. Tiền tệ phát hành phần lớn là để làm ra của cải vật chất, tức là hàng hóa
dịch vụ, vì hàng hóa dịch vụ được tiêu dùng trong cả nước khắp mọi tầng lớp. Nó được tượng
trưng bởi khối thương phiếu làm đảm bảo cho việc ứng tiền hay cấp phát tín dụng. Khối
thương phiếu đó là đối phần quan trong nhất, kế đó là vàng và ngoại tệ,rồi mới tới đối
phần thứ ba là trái phiếu quốc gia.
3.2 Đối với chức năng ngân hàng của các ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa việc tái cấp vốn của mình đối
với các NHTM.
3.3 Đối với chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng
Bên cạnh những mặt đã làm được NHTW vẫn còn một số những hạn chế của mình như: một
số ngân hàng thương mại đang có những hiện tượng xấu như tỉ lệ nỡ xấu cao hay khả năng thanh
khoản kém mà NHTW không công bổ, chỉ đến khi các ngân hàng này gần đi đến phá sản NHTW
mới chính thức công bố, điều này gây tổn hại lớn đối với các cá nhân và doanh nghiệp trong xã
hội. Một số chính sách nhằm kiềm chế lạm phát, bên cạnh việc giảm tỉ lệ lạm phát lại làm cho
một số doanh nghiệp rơi vào tình trạng trì trệ, thiếu nguồn vốn và nhiều doanh nghiệp trong thời
gian qua đã lâm vào tình trạng phá sản. Một số cán bộ ngân hàng móc nối với nhau để tham ô,
chiếm đoạt tài sản chung chưa được điều tra sáng tỏ.
Một số giải pháp:
• Cần cân nhắc kỹ các chính sách ổn định khối lượng tiền tệ trong lưu thông
• Thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động của các ngân hàng thương mại
• Cần minh bạch tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại
24
• Có những chính sách về sát nhập hay giải thể các ngân hàng thương mại vừa và nhỏ hợp lý.
KẾT LUẬN
Ngân hàng nhà nước Việt nam trong việc phát huy chức năng của NHTW có những đặc
điểm chung của một NHTW và cũng có những đặc thù riêng của Việt Nam. Chúng ta đã đạt
những thành tựu đáng kể, chúng ta có đơn vị tiền tệ, tự phát hành tiền, thực hiện tốt chức năng
ngân hàng của các ngân hàng và qua hoạt động của NHNN VN nhà nước thực hiện nhiều chính
sách quản lí vĩ mô phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đưa Việt Nam phát triển, khẳng định
trên trường quốc tế. Cho đến ngày hôm nay, hệ thống ngân hàng vẫn là nhân tố nòng cốt, tích cực

trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, vận hành bằng cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nền văn minh tiền tệ Việt Nam đã từng bước được khẳng định thông qua tính
ổn định giá trị, tính đa dạng về phương tiện thanh toán thay tiền mặt và không ngừng hoàn thiện
các công nghệ điều hành cũng như công nghệ kinh doanh hiện đại hướng về các nhu cầu tiện ích
đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Sự lớn mạnh và thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng ngày
càng hiện đại phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế cùng với sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của
ngành trong hơn nửa thế kỷ qua chắc chắn Ngân hàng Việt Nam cũng sẽ không phụ lòng tin của
25

×