Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tăng cường sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.05 KB, 53 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới chuyển từ nền kinh tế bao cấp
sang nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã
có được những thành công to lớn. Nền kinh tế thị trường buộc các doanh
nghiệp luôn phải phấn đấu nỗ lực không ngừng thì mới có tồn tại trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất có tồn
tại được hay không còn phải phụ thuộc vào khâu tìm kiếm đầu ra cho sản
phẩm của mình, đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Việt Nam đang từng bước mở cửa thị trường và hội nhập với các nước
trong khu vực và thế giới, điều đó làm cho mức độ cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài nước sẽ ngày càng khốc liệt hơn. Các doanh nghiệp
trong nước nói chung và doanh nghiệp dệt may của Việt Nam nói riêng đang
đứng trước những cơ hội và thách thức lớn lao trong điều kiện cạnh tranh gay
gắt. Để có thể đứng vững, tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải
xác định cho mình phương hướng hoạt động, những chính sách, những chiến
lược cạnh tranh đúng đắn nhằm năng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm
và của chính doanh nghiệp. Nhất là đối với ngành dệt may Việt Nam đang
phải đối mặt với sự cạnh tranh rất khốc liệt ngay trên sân nhà. Các sản phẩm
dệt may của nước ngoài tràn ngập vào thị trường Việt Nam, đặc biệt là sản
phẩm dệt may Trung Quốc rất nhiều phong phú về mẫu mã, kiểu dáng, chủng
loại mà giá lại rẻ. Bởi vậy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú trọng
hơn nữa với thị trường trong nước. Qua đó thì chúng tôi đã nghiên cứu đề tài
“Tăng cường sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt
Nam”
1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Dệt may là một trong những ngành quan trọng của nền kinh tế Việt
Nam. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành
dệt may đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển
khá mạnh, là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đứng hàng thứ hai về


giá trị xuất khẩu sau dầu khí. Đặc biệt từ ngày 11/01/2007 khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO thì thị trường xuất khẩu ngày
càng có cơ hội mở rộng. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường chạy
theo thị trường xuất khẩu mà ít chú trọng tới thi trường nội địa. Tuy nhiên
hiện nay, thị trường xuất khẩu của các sản phẩm dệt may Việt Nam đang gặp
nhiều khó khăn do phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu
lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Pakixtan, Hàn Quốc… Trong khi đó
thị trường nội địa với số dân khoảng 86 triệu dân là thị trường tiêu thụ rộng
lớn nhưng lại chưa được khai thác hiệu quả. Theo cuộc điều tra khảo sát của
trường Đại học Kinh tế quốc dân và tổ chức JICA (Nhật Bản), trong 10 công
ty may được phỏng vấn, ngoại trừ hai công ty may 19/5 và May 26 do đặc
trưng của mình (may đồng phục ngành), các công ty khác đều có doanh thu
tiêu thụ nội địa thấp. Công ty May 10 đạt tỷ trọng cao nhất cũng chỉ có 18%
năm 1999 và 21,5% năm 2000, cá biệt có công ty không có hàng tiêu thụ nội
địa, các công ty còn lại có tỷ trọng tiêu thụ hàng nội địa trung bình dưới 10%.
Trong khi đó thị trường nội địa bị chiếm lĩnh bởi các sản phẩm may mặc nhập
lậu từ Trung Quốc với giá rẻ và kiểu dáng đa dạng. Theo ước tính của Viện
nghiên cứu Nomura, hàng Trung Quốc chiếm 60% thị trường nội địa của Việt
Nam.
Người dân Việt Nam ngày càng có nhiều lựa chọn cho việc tiêu dùng
sản phẩm dệt may. Vì vậy để các doanh nghiệp Việt Nam phát triển thị trường
2
dệt may trong nước thì việc thu hút người tiêu dùng đến với các sản phẩm dệt
may nội địa có ý nghĩa rất quan trọng. Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi lựa
chọn đề tài này nhằm tăng cường sự lựa chọn của người tiêu dùng với các sản
phẩm dệt may nội địa, để giúp các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phát triển
thị trường trong nước, đảm bảo cho ngành dệt may Việt Nam được phát triển
ổn định.
1.2 XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ VẤN ĐỀ TRONG ĐỀ TÀI
Từ tính cấp thiết của đề tài, nhóm sinh viên chúng tôi đi sâu nghiên cứu

về vấn đề sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho hàng dệt may Việt Nam.
Thông qua đề tài nghiên cứu chúng tôi sẽ làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng
đến sự lựa chọn của khách hàng nội địa đối với sản phẩm dệt may Việt Nam,
phân tích thực trạng sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt
may Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường sự lựa
chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
1.3 CÁC MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nhóm sinh viên chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm đạt được các mục
tiêu sau:
Thứ nhất: Đưa ra cái nhìn khoa học về các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa
chọn của khách hàng nói chung và khách hàng nội địa nói riêng cho sản phẩm
dệt may.
Thứ hai: Đưa ra thực trạng về sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho
sản phẩm dệt may Việt Nam.
Cuối cùng là đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường sự lựa chọn của
khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
3
1.4 CÁC CÂU HỎI ĐẶT RA TRONG NGHIÊN CỨU
Trong khi nghiên cứu đề tài này, một số câu hỏi được đặt ra cần giải
quyết đó là: Khái niệm bán hàng? Các yếu tố tác động tới sự lựa chọn của
khách hàng cho sản phẩm dệt may? Thực trạng về sự lựa chọn của khách
hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam ra sao? Nguyên nhân do đâu?
Giải pháp đưa ra để tăng cường sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản
phẩm dệt may Việt Nam?
1.5 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu thông qua tài liệu sơ cấp thống kê về về
sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam. Ngoài
ra, chúng tôi còn phát phiếu điều tra khảo sát sự lựa chọn sản phẩm dệt may
của khách hàng tại thị trường Hà Nội.
Nội dùng nghiên cứu bao gồm: Các lý luận về sự lựa chọn của khách

hàng cho sản phẩm dệt may nói chung, thực trạng về sự lựa chọn của khách
hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam và các giải pháp để tăng cường
sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
1.6 Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, nhóm sinh viên thực hiện đề tài đưa
ra được thực trạng về sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt
may Việt Nam, tìm ra nguyên nhân vì sao khách hàng nội địa lại ít lựa chọn
sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp trong nước. Từ đó nhóm thực hiện đề
tài đưa ra các giải pháp để khắc phục thực trạng trên.
Việc nghiên cứu đề tài trên còn có ý nghĩa đối với nhóm sinh viên thực
hiện trong việc tìm ra phương pháp học tập, nghiên cứu, làm việc một cách
khoa học, hiệu quả.
4
1.7 KẾT CẤU BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài.
Chương 2: Tóm lược một số vấn đề lý luận về sự lựa chọn của khách
hàng về sản phẩm dệt may.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng
về sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
Chương 4: Các kết luận, thảo luận và đề xuất giải pháp để tăng cường
sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
5
CHƯƠNG 2: TÓM LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ LỰA
CHỌN CỦA KHÁCH HÀNG VỀ SẢN PHẨM DỆT MAY.
2.1 MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA VÀ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1.1 Khái niệm thị trường
Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hóa, đồng thời là một trong những
hình thức biểu hiện quan hệ sản xuất của những người sản xuất hàng hoá, nên
thị trường hoàn toàn có thể mang bản chất xã hội – kinh tế khác nhau, phụ

thuộc vào tính chất của quan hệ sản xuất, trước hết vào chế độ sở hữu thống
trị trong từng xã hội cụ thể.
Thị trường nội địa được hiểu là hướng tới khách hàng nội địa, mà
khách hàng nội địa là những người dân ở nơi doanh nghiệp sản ra hay là nơi
xuất xứ của doanh nghiệp.
2.1.2 Khái niệm bán hàng
Theo kinh tế doanh nghiệp thương mại dịch vụ: Bán hàng là một quá
trình thực hiện chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho khách hàng và thu tiền về
hay được quyền thu tiền về do bán hàng.
Qua hoạt động bán hàng thì doanh nghiệp sẽ chiếm lĩnh thị phần, thu
lợi nhuận, tạo dựng vị thế và uy tín của mình trên thương trường. Nên mở
rộng tiêu thụ hàng hóa là con đường để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh và thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.
6
2.2 MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ LỰA CHỌN CỦA KHÁCH HÀNG ĐỐI
VỚI SẢN PHẨM DỆT MAY
2.2.1 Vai trò của sản phẩm dệt may trong đời sống
Đối với người tiêu dùng: Từ xa xưa con người đã biết tạo ra tấm khố để
che thân. Ngày nay, với sự phát triển của thời đại, con người không những có
nhu cầu về ăn ngon mà còn phải mặc đẹp. Từ đó, cho ta thấy vai trò của sản
phẩm dệt may trong đời sống là rất quan trọng, không những đáp ứng nhu cầu
không thể thiếu hàng ngày của mọi người mà nó còn phải đáp ứng nhu cầu về
kiểu cách, phong cách, hợp thời trang của từng người.
Đối với nhà sản xuất: Đối với bất kỳ nhà sản xuất nói chung và nhà sản
xuất dệt may nói riêng, mục tiêu của họ đều là lợi nhuận. Ngày nay với sự
toàn cầu hoá thế giới, nhu cầu về ăn mặc của mọi người ngày càng cao, nên
ngành dệt may là một ngành đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế.
Hàng năm, ngành đã có sự đóng góp rất lớn vào GDP trong nền kinh tê.
2.2.2 Các yếu tố để khách hàng lựa chọn sản phẩm dệt may
2.2.2.1 Chất lượng của sản phẩm

Quan niệm xuất phát từ sản phẩm: Chất lượng sản phẩm được phản ánh
bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Quan niệm này đồng nghĩa
chất lượng sản phẩm với số lượng các thuộc tính hữu ích của sản phẩm. Tuy
nhiên, sản phẩm có thể có nhiều thuộc tính hữu ích nhưng không được người
tiêu dùng đánh giá cao.
Theo quan niệm của các nhà sản xuất: Chất lượng sản phẩm là sự hoàn
hảo và phù hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu
chuẩn, quy cách đã xác định trước.
7
Xuất phát từ người tiêu dùng: Khi mua hàng trước hết người tiêu dùng
phải nghĩ tới khả năng hàng hóa đó đáp ứng nhu cầu của họ, tới chất lượng
mà nó có. Do vậy chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm với mục đích sử
dụng của người tiêu dùng.
Ngày nay người ta thường nói đến chất lượng tổng hợp bao gồm: Chất
lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ sau khi bán và chi phí bỏ ra để đạt được
mức chất lượng đó. Quan niệm này đặt chất lượng sản phẩm trong mối quan
niệm chật chẽ với chất lượng của dịch vụ, chất lượng các điều kiện giao hàng
và hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Để giúp cho hoạt động quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp được
thống nhất, dễ dàng. Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) trong bộ tiêu
chuẩn ISO 9000, phần thuật ngữ 9000 đã đưa ra các định nghĩa: “Chất lượng
sản phẩm là mức độ thoả mãn của một tập hợp các thuộc tính đối với các yêu
cầu”. Yêu cầu có nghĩa là những nhu cầu hay mong đợi được nêu ra hay tiềm
ẩn. Do tác dụng thực tế của nó, nên định nghĩa này được chấp nhận rộng rãi
trong hoạt động kinh doanh Quốc tế ngày nay. Định nghĩa chất lượng trong
ISO 9000 là thể hiện sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại khách quan của
sản phẩm với đáp ứng nhu cầu chủ quan của khách hàng.
Chất lượng tạo ra sức hấp dẫn thu hút người mua: Mỗi sản phẩm có rất
nhiều các thuộc tính chất lượng khác nhau. Các thuộc tính này được coi là
một trong những yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh

nghiệp. Khách hàng quyết định lựa chọn mua hàng vào những sản phẩm có
thuộc tính phù hợp với sở thích, nhu cầu và khả năng, điều kiện sử dụng của
mình. Họ so sánh các sản phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có các
thuộc tính kinh tế - kỹ thuật thoả mãn những mong đợi của họ ở mức cao hơn.
Bởi vậy sản phẩm có các thuộc tính chất lượng cao là một trong những căn cứ
8
quan trọng cho quyết định mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Chất lượng sẽ nâng cao vị thế, sự phát triển lâu dài cho doanh nghiệp
trên thị trường: Khi sản phẩm chất lượng cao, ổn định đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng sẽ tạo ra một biểu tượng tốt, tạo ra niềm tin cho khách hàng
vào nhãn mác của sản phẩm. Nhờ đó uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp
được nâng cao, có tác động to lớn đến quyết định lựa chọn mua hàng của
khách hàng.
2.2.2.2 Giá cả của sản phẩm
Theo quan điểm của kinh tế học, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hoá. Về nghĩa rộng đó là số tiền phải trả cho một hàng hoá, một dịch vụ,
hay một tài sản nào đó. Giá cả của hàng hoá nói chung là đại lượng thay đổi
xung quanh giá trị. Khi cung và cầu của một hay một loại hàng hoá về cơ bản
ăn khớp với nhau thì giá cả phản ánh và phù hợp với hàng hoá đó, trường hợp
này ít khi xảy ra. Giá cả của hàng hoá sẽ cao hơn giá trị của hàng hóa đó nếu
số lượng cung thấp hơn cầu. Ngược lại nếu số lượng cung vượt quá cầu thì
giá cả sẽ thấp hơn giá trị của hàng hoá đó.
Cái giá gắn cho sản phẩm chính là tín hiệu đến khách hàng mục tiêu
của nhà sản xuất. Điều đó giải thích tại sao việc định giá đúng là rất quan
trọng. Nếu giá cả quá cao, sẽ mất vị trí trên thị trường, nhưng nếu nó quá thấp
sẽ không đủ khả năng để phát triển kinh doanh.
Thường thì người tiêu dùng cho rằng giá cả là sự thể hiện chất lượng
(tiền nào của ấy), do đó những mặt hàng được định giá thấp trong cùng một
chủng loại sản phẩm sẽ khó tiêu thụ… Tuy nhiên trong nhiều ngành kinh

doanh người ta định giá có những số lẻ, chẳng hạn thay vì định giá 10 ngàn/1
đơn vị sản phẩm người ta định giá 9,8; 9,9 ngàn. Khách hàng cảm thấy rẻ,
9
thấp hơn mặc dù không nhiều. Lý do khác ở đây có thể là khách hàng khi mua
sản phẩm thường định một mức giá mà họ sẽ chấp nhận (dưới 10 ngàn thì
mua, trên 10 ngàn thì thôi ).
Sản phẩm dệt may là sản phẩm mang tính thời vụ. Vì vậy, giá cả của
chúng phải mền dẻo và linh hoạt .
2.2.2.3 Mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc của sản phẩm
Kiểu dáng là hình thức và dáng vẻ bề ngoài mà người mua cảm nhận
được, kiểu dáng có ưu điểm là tạo cho sản phẩm một đặc điểm khác biệt.
Kiểu dáng của sản phẩm dệt may rất phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại
sản phẩm khác nhau như: áo sơ mi, áo jacket, áo khoác, váy, áo trẻ em, các
loại khăn mặt, thảm, ….
Màu sắc: Rất phong phú, đầy đủ các màu sắc khác nhau như: màu đỏ,
màu xanh, màu vàng, màu tím, màu trắng….Một sản phẩm dệt may không
những chỉ mang một màu sắc mà còn kết hợp nhiều màu sắc khác nhau trên
cùng một sản phẩm.
Khi tiếp cận với hàng hoá cái mà người tiêu dùng gặp phải trước hết
chính là bao bì, mẫu mã. Vẻ đẹp và sự hấp dẫn của nó tạo ra thiện cảm, làm
ngã long người tiêu dùng trong giây lát để từ đó họ đi đến quyết định mua
hàng một cách nhanh chóng. Không ngẫu nhiên mà những chi phí cho bao bì
thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong các doanh nghiệp thành đạt.
Hàng hoá dù bền đến đâu cũng sẽ bị lạc hậu trước những yêu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng. Do đó doanh nghiệp cần phải thương xuyên đổi
mới và hoàn thiện hơn về kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc tạo ra những nét riêng,
độc đáo hấp dẫn người mua là điều kiện quan trọng để tăng cường khả năng
tiêu thụ, nâng cao uy tín và thu hút khách hàng của doanh nghiệp.
10
2.2.2.4 Thương hiệu của sản phẩm

Thương hiệu là “Một cái tên, từ ngữ, ký hiệu, biểu tượng hoặc hình vẽ
kiểu thiết kế, hoặc tập hợp của các yếu tố trên nhằm xác định và phân biệt
hàng hoá hay dịch vụ của một người bán hoặc nhóm người bán với hàng hoá
và dịch vụ của đối thủ cạnh tranh”.
Một thương hiệu được cấu thành bởi hai phần:
Phần phát âm được: Là những yếu tố có thể đọc được, tác động vào
thính giác của người nghe như tên công ty, tên sản phẩm, câu khẩu hiệu, đoạn
nhạc hát đặc trưng và các yếu tố phát âm được khác.
Phần không phát âm được: Là những yếu tố không đọc được mà chỉ có
thể cảm nhận được bằng thị giác như hình vẽ, biểu tượng, màu sắc, kiểu dáng
thiết kế, bao bì và các yếu tố nhận biết khác. Thương hiệu có thể là bầt kể cái
gì được gắn liền với sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm làm cho chúng được nhận
biết dễ dàng và khác biệt với các sản phẩm cùng loại.
Các yếu tố thương hiệu của một sản phẩm hoặc dich vụ có thể được
luật pháp bảo hộ dưới dạng là các đối tượng của sở hữu trí tuệ như: Nhãn hiệu
hàng hoá, tên thương mại, tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng
công nghiệp và bản quyền.
Thương hiệu là hình thức thể hiện cái bên ngoài, tạo ấn tượng và thể
hiện cái bên trong cho sản phẩm hoặc doanh nghiệp. Thương hiệu tạo ra nhận
thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm và dịch vụ mà doanh
nghiệp cung ứng. Giá trị của một thương hiệu là triển vọng lợi nhuận mà
thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Nói cách khác,
thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp.
11
Trước những nhu cầu hết sức phong phú và đa dạng khác nhau của thị
trường, các công ty cần thiết kế và sản xuất các sản phẩm với các thuộc tính
và đặc điểm sao cho phù hợp, đáp ứng được tối đa nhu cầu của một nhóm
khách hàng cụ thể. Do vậy, thương hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc
làm nổi bật và khác biệt hoá các đặc tính của sản phẩm so với đối thủ cạnh
tranh. Thương hiệu là một sản phẩm nhưng là một sản phẩm có bổ sung them

các yếu tố khác để phân biệt nó, theo một cách nào đó, với các sản phẩm khác
được thiết kế để thoả mãn cùng một nhu cầu. Thương hiệu chính là sự đánh
giá và cảm nhận của người tiêu dùng về các thuộc tính của sản phẩm và biểu
hiện các thuộc tính đó được đại diện bởi một thương hiệu và công ty gắn với
thương hiệu đó.
Bằng việc tạo ra những khác biệt rõ nét giữa các sản phẩm thong qua
thương hiệu, duy trì và phát triển long trung thành của khách hàng đối với
thương hiệu, các công ty tạo ra giá trị. Những giá trị này có thể chuyển thành
lợi nhuận tài chính cho công ty. Thực tế tài sản đáng giá nhất của công ty
không phải là tài sản hữu hình (nhà xưởng, thiết bị, bất động sản), mà tài sản
vô hình như kỹ năng quản lý, chuyên môn về tài chính và điều hành, và quan
trọng nhất đó chính là thương hiệu.
Đối với khách hàng: Xác định xuất xứ của sản phẩm, qui trách nhiệm
cho nhà sản xuất sản phẩm, giảm thiểu rủi ro trong tiêu dùng, tiết kiệm chi phí
tìm kiếm, khẳng định giá trị bản than, yên tâm về chất lượng. Ý nghĩa đặc biệt
của thương hiệu là có thể làm thay đổi nhận thức và kinh nghiệm của ho về
sản phẩm. Với người tiêu dùng, thương hiệu làm cho sinh hoạt hàng ngày
cũng như cuộc sống của họ trở nên thuật tiện và phong phú hơn.
Đối với nhà sản xuất: Công cụ để nhận diện và khác biệt hoá sản phẩm,
là phương diện bảo vệ hợp pháp các lợi thế và đặc điểm riêng của sản phẩm,
khẳng định đẳng cấp chất lượng trước khách hàng, đưa sản phẩm ăn sâu vào
12
tâm trí khách hàng, nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh, nguồn gốc của cạnh
tranh. Đối với họ thương hiệu là tài sản có giá trị rất lớn, bởi nó có khả năng
tác động đến thái độ và hành vi của người tiêu dùng.
Thương hiệu được sử dụng nhằm tạo nên sự khác biệt, mối quan hệ và
sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm, từ hàng hoá vật chất, dịch vụ,
thậm chí cả con người, tổ chức, địa danh.
Từ góc độ của nhà sở hữu thương hiệu, các sản phẩm và dịch vụ có
thương hiệu bao giờ cũng bán được giá cao hơn. Khi có hai sản phẩm tương

tự nhau, nhưng có một sản phẩm có thương hiệu còn một sản phẩm không có
thương hiệu, người tiêu dùng thường chọn sản phẩm có thương hiệu.
2.2.2.5 Sự quảng bá sản phẩm
Quảng cáo có ý nghĩa là thông báo với mọi người và kích thích họ mua
hàng. Ngày nay các công cụ thông báo với công chúng, nghệ thuật kích thích
mua hàng, rất phong phú đa dạng đồng thời việc sử dụng chúng cũng rất tốn
kém. Nhiều doanh nghiệp nhờ quảng cáo tốt đã tăng được doanh số bán hàng
và có những doanh nghiệp lớn chi tới hàng tỷ đôla cho quảng cáo. Điều này
hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên mà vì lợi ích to lớn của quảng cáo nếu sử
dụng hiệu quả công cụ này.
Tuy vậy, quảng cáo cũng có mặt trái của nó, nếu quảng cáo sai sự thật
có thể làm mất lòng tin của khách hàng, ảnh hưởng lâu dài đến hoạt động tiêu
thụ.
2.2.2.6 Hệ thống phân phối
Kênh tiêu thụ là đường đi của hàng hóa từ doanh nghiệp đến người tiêu
dùng. Trên đường đi doanh nghiệp có thể sử dụng những người trung gian
(bán buôn, bán lẻ, đại lý…)
13
Hệ thống phân phối là toàn bộ các kênh mà doanh nghiệp thiết lập
và sử dụng trong phân phối bán hàng. Thiết lập kênh phân phối phải căn cứ
vào chính sách, chiến lược tiêu thụ mà doanh nghiệp đang theo đuổi, khả
năng nguồn lực của doanh nghiệp, đặc tính của khách hàng, đặc tính của sản
phẩm…để có khả năng chuyển tải và thực hiện hàng hóa một cách cao nhất
với chi phí thấp nhất.
Nếu doanh nghiệp biết cách lựa chọn kênh và thiết lập đúng đắn mạng
lưới các kênh tiêu thụ thì sẽ thu hút được khách hàng, từ đó làm thúc đẩy tiêu
thụ bán hàng.
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn sản phẩm của khách hàng
2.2.3.1. Các yếu tố khách quan
Tập quán, thói quen tiêu dùng của khách hàng:

Môi trường văn hoá - xã hội ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của
khách hàng, thể hiện thông qua các thông số ảnh hưởng đến tiêu thụ như: Môi
trường văn hoá ảnh hưởng tới thói quen tiêu dùng, cách ứng xử của khách
hàng trên thị trường, thu nhập và sự phân bổ của dân cư, trình độ văn hoá
giữa các vùng miền…Vì vậy, hiểu biết về môi trường văn hoá - xã hội của
khu vực thị trường là tiền đề quá trình cho những quyết định về tiêu thụ hàng
hoá của doanh nghiệp.
Chính phong tục tập quán, lối sống, trình độ dân trí, tôn giáo, tín
ngưỡng… có ảnh hưởng sâu sắc đến thói quen tiêu dùng của khách hàng.
Nhân tố này ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của các doanh nghiệp thiết kế
và sản xuất các sản phẩm may mặc, các sản phẩm tiêu dùng truyền thống.
14
Sở thích thị hiếu của khách hàng:
Phong cách ăn mặc là sự trưng bày những tính cách ở bên trong tâm
hồn của mỗi người thông qua cách ăn mặc. Mà mỗi người có sở thích khác
nhau, có cách cảm nhận và suy nghĩ khác nhau nên sẽ có những phong cách
ăn mặc khác nhau.
Chính sách quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước:
Hoạt động bán hàng chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi những yếu tố của môi
trường bên ngoài. Một trong những yếu tố đó là chính sách quản lý của cơ
quan quản lý Nhà nước như: Chính sách quản lý giá, chính sách thuế, chính
sách hỗ trợ…có thể thúc đẩy song cũng có thể kìm hãm tiêu thụ.
2.2.3.2. Các yếu tố chủ quan
Các yếu tố chủ quan thì chúng ta sẽ xem xét ở góc độ doanh nghiệp,
khi đó thì có những yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới sự lựa chọn sản phẩm của
khách hàng
Tài chính:
Một doanh nghiệp muốn đầu tư vào mở rộng tái sản xuất, mở rộng thị
trường, năng cao cơ sở vật chất hay thúc đẩy xúc tiến thương mại thì nguồn
tài chính của doanh nghiệp là rất quan trọng. Nếu nguồn tài chính của doanh

nghiệp mà hạn chế, không cho phép thì doanh nghiệp khó mà có thể năng cao
sản xuất và thúc đẩy tiêu thụ được. Chính vì thế, doanh nghiệp cần tìm mọi
cách để huy động tối đa nguồn tài chính cho mình thì khi đó mới có thể tăng
sức cạnh trạnh, thúc đẩy tiêu thụ được.
Tính chuyên nghiệp của nhân viên bán hàng:
15
Người bán hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi mua hàng của
khách hàng. Người bán hàng cùng một lúc thực hiện các hoạt động quảng các,
tiếp thị, thuyết phục khách hàng…Do đó doanh nghiệp muốn tăng doanh số
bán hàng thì cần phải lựa chọn người bán hàng có óc tổ chức, nghiệp vụ và
nghệ thuật bán hàng. Hoạt động của người bán tốt không những thúc đẩy
được tiêu thụ mà còn tạo ra chữ tín và sự tín nhiệm của khách hàng đối với
sản phẩm, doanh nghiệp lại thúc đẩy tiêu thụ.
Năng lực quản lý:
Chúng ta có thể nhận thấy dễ dàng, doanh nghiệp nào có năng lực
quản lý tốt hơn thì năng lực cạnh tranh sẽ tốt hơn. Chính vì thế, ngoài đầu tư
về cơ sở vật chất doanh nghiệp còn phải chú trọng đầu tư cho con người, nhất
là bộ phận quản lý. Bộ phận quản lý cần có trình độ cao và sẵn sàng hợp tác
với các đối tác mạnh hơn mình để học hỏi kinh nghiệm và phát triển thị
trường.
2.2.3.3 Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu ở Việt Nam
Trước khi nhóm sinh viên chúng tôi thực hiện đề tài này, đã có một số
tác giả đi trước nghiên cứu về các nội dùng có liên quan. Chúng tôi xin đề cập
tới một vài công trình nghiên cứu cụ thể sau:
Lâm Tăng Tiên, (2006) “Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị
trường tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng”. (Đề án)
Bài viết này, tác giả Lâm Tăng Tiên đã thiết kế, lập kế hoạch, tiêu thụ
sản phẩm. Từ đó tác giả đã đưa ra các phương pháp thu thập thông tin về thị
trường tiêu thụ sản phẩm, để có thể phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm
được tốt. Cụ thể là tác giả đã nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị

trường tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng.
16
Phan Thu Hiền, (2005) “Một số giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
của công ty dệt may Hà Nội”. (Luận văn tốt nghiệp)
Bài viết này, tác giả Thu Hiền đã giới thiệu một cách tổng quan về công
ty dệt may Hà Nội. Sau đó tác giả đã nêu thực trạng công tác tiêu thụ sản
phẩm của công ty dệt may Hà Nội. Từ thực trạng đó tác giả đã đưa ra một số
giải pháp để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ của công ty dệt may Hà Nội.
Phan Thế Cường, (2003) “Đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng
dệt may Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”. (Luận văn tốt nghiệp)
Bài viết này, tác giả Thế Cường đã nêu lên sự cần thiết phải nâng cao
năng lực cạnh tranh và các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh. Sau đó
tác giả đã nêu lên thực trạng về khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may
Việt Nam. Từ những thực trạng đó tác giả đã đưa ra một số giải pháp để tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam.
Qua các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi thấy các tác giả hầu như
là đứng về góc độ doanh nghiệp đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải
pháp để thúc đấy tiêu thụ của một công ty may mặc cụ thể ở Việt Nam. Các
tác giả đều chưa có sự đứng về góc độ người tiêu dùng mà đánh giá, cho nên
chúng tôi thực hiện đề tài “Tăng cường sự lựa chọn của khách hàng nội địa
cho sản phẩm dệt may Việt Nam” là đứng về cả 2 góc độ doanh nghiệp và
người tiêu dùng để xem xét, đánh giá và đưa ra một số giải pháp để tăng
cường sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
2.2.3.4 Những nghiên cứu có liên quan
Trong quá trình học tập nghiên cứu tại trường Đại học Thương Mại,
lĩnh hội kiến thức từ các môn Kinh tế thương mại đại cương, Khoa học quản
lý và một số môn đại cương và kiến thức cơ sở ngành. Chúng tôi đã có những
17
nghiên cứu, tìm hiểu về thị trường ở Việt Nam và thế giới, sau đó là nghiên
cứu sơ lược về hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở Việt Nam để góp phần làm

phong phú các bài thảo luận nhóm. Sau này khi tham gia nghiên cứu môn học
Kinh tế doanh nghiệp thương mại dịch vụ, nhóm nghiên cứu đã có dịp tìm
hiểu sơ lược về thực trạng lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt
may ở Việt Nam, rồi chúng tôi đã tổng hợp.
2.2.3.5. Mô hình nội dùng vấn đề nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xây dựng lý
thuyết cơ bản về thị trường. Dựa trên lý thuyết cơ bản tiến hành nghiên cứu,
phân tích thực trạng lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm dệt may ở
Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường sự lựa chọn của khách
hàng nội địa cho sản phẩm dệt may ở Việt Nam.
18
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ PHÂN
TÍCH THỰC TRẠNG LỰA CHỌN CỦA KHÁCH HÀNG NỘI ĐỊA
CHO SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM
3.1 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phương pháp điều tra trên các đối tượng có các ngành nghề
khác nhau. Mẫu điều tra là 100 người dân ở Hà Nội. Nội dung của bảng điều
tra là đánh giá của khách hàng nội địa đối với sản phẩm dệt may Việt Nam.
Sau đó sử dụng phương pháp tổng hợp số liệu và so sánh để phân tích.
Kết hợp những kết quả thống kê với sự vận dụng lý luận thực tiễn.
3.2 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
SỰ LỰA CHỌN CỦA KHÁCH HÀNG NỘI ĐỊA CHO SẢN PHẨM DỆT
MAY VIỆT NAM.
3.2.1 Tổng quan về sự lựa chọn của khách hàng nội địa cho sản phẩm
dệt may Việt Nam.
Hiện nay, người tiêu dùng Việt Nam đang ngày càng có nhiều cơ hội
lựa chọn cho mình những trang phục vừa ý, hợp mốt và quan trọng hơn là hợp
túi tiền của họ. Theo nhận định của các chuyên gia thời trang ngành dệt may,
trong những năm gần đây, sự phân cấp giữa đồ cao cấp và đồ bình dân không
còn rõ rệt. Thêm nữa, đời sống của đại bộ phận người dân Việt Nam được cải

thiện một cách rõ rệt, vì thế thị trường tiêu dùng hàng dệt may nội địa thời
gian gần đây ngày càng trở lên sôi động và sự lựa chọn sản phẩm dệt may của
người dân Việt Nam ngày càng phong phú.
Tìm hiểu về thị trường dệt may Việt Nam ta thấy: Nếu như trong suốt
thập niên 90 (thế kỷ XX), thị trường quần áo may sẵn nội địa tràn ngập các
19
sản phẩm của Trung Quốc bởi giá rẻ, mẫu mã đa dạng và phong phú. Các sản
phẩm Việt Nam chiếm rất ít trên thị trường bởi các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam do các doanh nghiệp chỉ chú trọng đến xuất khẩu. Vì thế sự lựa
chọn của người dân hướng nhiều tới các sản phẩm xuất xứ từ Trung Quốc.
Tuy nhiên hiện nay, các sản phẩm “Made in Việt Nam” đang dần quay trở lại,
xuất hiện nhiều sản phẩm của nhiều doanh nghiệp tên tuổi được người tiêu
dùng trong nước ưa chuộng. Chẳng hạn: thời trang phụ nữ và trẻ em của công
ty may Việt Tiến; thời trang công sở, hàng may mặc cho phụ nữ trên tuổi 40
của công ty may Việt Thắng; đồ lót của công ty may Đồng Tiến; áo phông, áo
thun, áo ngủ của Legamex; sơ mi nam của May 10; Áo jacket của Nhà Bè;
hàng dệt kim của Hanosimex.
Ngoài những đồ trang phục dành cho giới bình dân, thời trang cao cấp
cũng là khu vực được người tiêu dùng quan tâm. Đặc biệt, những bộ váy áo
bằng các chất liệu voan, tơ tằm, đũi… với những họa tiết hoa văn lớn nhỏ, có
những màu sắc tương phản, đối lập với những hạt cườm với các cỡ lớn bé
khác nhau được đan kết lại thành nhiều hình hài đã tạo nên sự tinh tế sống
động cho những sản phẩm này, được một số người tiêu dùng có thu nhập cao
ưa chuộng với giả khoảng từ 1 đến 1.2 triệu đồng một bộ.
Dù đã có nhiều những sản phẩm phong phú nhưng hàng may mặc trong
nước vẫn ít được sự lựa chọn của khách hàng hơn so với các hàng nhập ngoại
như hàng may mặc Trung Quốc, các nhãn hiệu thời trang của các nước trên
thế giới như Mỹ, Italia, Anh, Pháp, Thái Lan, Hàn Quốc. Bởi vì, sự lựa chọn
của người tiêu dùng còn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như giá cả, chất
lượng, kiểu dáng, thương hiệu…

20
3.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn của khách hàng nội địa
đối với sản phẩm dệt may Việt Nam.
3.2.2.1 Các yếu tố khách quan
Chính sách của chính phủ đối với ngành dệt may tại thị trường nội
địa.
Khi Việt Nam ra nhập WTO, hội nhập thương mại quốc tế, thông qua
các hoạt động tự do hóa thương mại đã ký kết, rất nhiều hàng hóa, sản phẩm
của các công ty nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam. Đây là thách thức không
chỉ của các doanh nghiệp bán lẻ mà của tất cả các doanh nghiệp Việt Nam.
Bản thân doanh nghiệp sản xuất sẽ bị mất thị phần nếu không liên tục nghiên
cứu để phát triển các sản phẩm, cải tiến mẫu mã, đầu tư công nghệ để nâng
cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng trong nước. Còn các nhà phân phối nếu không lựa chọn những sản
phẩm có chất lượng tốt, giá cả hợp lý, sớm muộn cũng bị người tiêu dùng tẩy
chay.
Để người dân Việt Nam lựa chọn sản phẩm dệt may trong nước, ngoài
sự tự nỗ lực, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự hỗ trợ của Nhà Nước để
có thể khai thác tối đa thị trường trong nước.
Hơn 70% người tiêu dùng Việt Nam đang sống ở nông thôn, vùng sâu
vùng xa, nên để chiếm lĩnh thị trường này, doanh nghiệp sẽ cẫn những chính
sách ưu đãi của Nhà Nước như trợ cước, trợ giá, giảm thuế cho hàng hóa đưa
về khu vực này. Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chấp
nhập giảm lãi để bán hàng và trụ được ở thị trường nông thôn. Có thể kể đến
các tên tuổi như Việt Tiến, Nhà Bè, May 10… Đối với khu vực này Nhà nước
đã có cơ chế hỗ trợ, tập trung đẩy mạnh sản xuất, kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ
21
kênh phân phối ở vùng sâu vùng xa, các doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội
này để đứng vững trên sân nhà, chiếm lại lòng tin của người tiêu dùng bằng
chất lượng hàng hóa, phù hợp với tập quán mua bán của người dân.

Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ ngành dệt may trong đầu tư sản
xuất nguyên liệu, phụ liệu cốt lõi. Để chủ động nguyên liệu sản xuất Chính
phủ cần chỉ đạo các địa phương dành quỹ đất để phát triển trồng bông, đầu tư
xây dựng hệ thống tưới tiêu nước phù hợp với mô hình trồng bông trang trại.
Cuộc vận động “Người Việt Nam tiêu dùng hàng Việt Nam” của bộ
chính trị đã đạt được những thành công to lớn. .Khi tham gia chương trình
này, ngành dệt may đã có những hoạt động như phân cấp đẳng cấp sản phẩm,
chú trọng sản xuất những sản phẩm phù hợp với thị hiếu và thu nhập của
người tiêu dùng Việt Nam nên đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của người
mua hàng, đặc biệt là người dân nông thôn, có thu nhập thấp. Doanh thu từ thị
trường nội địa của các đơn vị thành viên Tập đoàn Dệt may Việt Nam năm
2009 đã tăng 26% so với năm trước, ví dụ như Việt Tiến đạt trên 600 tỷ đồng,
tăng gần 150 tỷ so với năm 2008; Nhà Bè đạt 300 tỷ đồng; May 10 đạt trên
100 tỷ đồng; May Phương Đông đạt gần 100 tỷ đồng…Có thể nói năm 2009
là năm thành công của các doanh nghiệp dệt may trong nước tại thị trường nội
địa
Thị hiếu của người tiêu dùng
Người tiêu dùng nội địa chi tiêu khoảng 20% thu nhập của mình cho
việc mua sắm sản phẩm may mặc. Nhìn chung, Việt Nam là một nước đang
phát triển và mức thu nhập bình quân đầu người chưa cao. Vì vậy khi mua
sắm các sản phẩm dệt may, giá cả là yếu tố quyết định hàng đầu. Người Việt
Nam ưa thích dùng hàng có chất lượng tốt với giá rẻ, phù hợp với thu nhập
của mình.
22
Về kiểu dáng, mẫu mã:
Người tiêu dùng Việt Nam thích dùng những hàng hóa có kiểu dáng
đẹp. Tùy vào từng đối tượng khách hàng mà có những nhu cầu về các kiểu
dáng và màu sắc khác nhau. Nói chung, nhu cầu về kiểu dáng và màu sắc của
người tiêu dùng thường rất đa dạng. Lớp người lớn tuổi ưa thích kiểu dáng
đơn giản nhưng trang nhã. Giới trẻ có xu hướng chọn những sản phẩm có màu

sắc bắt mắt, kiểu dáng đa dạng, có phong cách riêng và bắt kịp với xu hướng
thời trang hiện đại.
Về chất lượng:
Người tiêu dùng nội địa luôn muốn dùng những sản phẩm có chất
lượng tốt, bền đẹp. Tùy theo từng mùa vụ mà người tiêu dùng lựa chọn những
sản phẩm có chất liệu phù hợp. Ví dụ mùa hè thì thích những chất liệu mát,
thoáng, thấm mồ hôi…, mùa đông thì thích vải ấm, dày. Và tùy vào từng hoàn
cảnh, môi trường làm việc mà lựa chọn các loại chất liệu phù hợp như voan,
lụa, thô… Nắm bắt được nhu cầu của người dân về chất lượng sản phẩm là
yếu tố quan trọng quyết định tới chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp dệt
may để có thể thu hút được khách hàng.
Về thương hiệu
Người tiêu dùng thích dùng hàng có thương hiệu nổi tiếng. Người Việt
Nam có tâm lý chung là thích dùng hàng ngoại, chính vì vậy mà rất nhiều
người tiêu dùng lựa chọn cho mình các sản phẩm có thương hiệu của nước
ngoài như Versace, Tommy, Gucci, Louis Vouiton… Các sản phẩm có
thương hiệu nổi tiếng ở Việt Nam được người tiêu dùng ưa thích là các sản
phẩm của May 10, Việt Tiến, Thành Côngv.v…
23
3.2.2.2 Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp dệt may.
Giá cả của hàng hóa sản phẩm.
Trong tình hình kinh tế hiện nay, khi mà mức thu nhập của người dân
còn quyết định lớn tới mức sống thì giả cả của hàng hóa sản phẩm cũng là
nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn mua hàng của người tiêu
dùng.
Theo kết quả điều tra của các cơ quan nghiên cứu thị trường thì có thể
phân chia như cầu về hàng hóa dệt may theo giá thành 4 nhóm. Nhóm khách
hàng thứ nhất có nhu cầu về những mặt hàng chất lượng và thời trang với giá
cao, có giá từ 1 triệu đồng/bộ trở lên. Nhóm khách hàng thứ hai có nhu cầu
các loại hàng dệt may có giá từ 300.000 đến 1.000.000 đồng/bộ. Nhóm khách

hàng tiếp theo là những đối tượng mua các bộ quần áo có giá từ 100.000 đến
300.000 đồng/bộ. Nhóm thứ tư có nhu cầu thấp hơn với mức giá mua từ
60.000 đến 100.000 đồng/bộ.
Ở Việt Nam, mặt hàng dệt may hiện nay đang phân khúc ra nhiều thị
trường để thỏa mãn các nhu cầu của nhiều nhóm khách hàng. Các doanh
nghiệp Việt Nam tung ra thị trường nhiều loại sản phẩm dệt may thời trang
với nhiều mức giá phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Ngoài những dòng
sản phẩm cao cấp phù hợp với những đối tượng có thu nhập cao, để có thể
thâm nhập sâu vào thói quen mua sắm của người dân, các doanh nghiệp Việt
Nam đang cố gắng tung ra dòng sản phẩm có giá trung bình có giá dưới
200.000 đồng/bộ. Cụ thể như sản phẩm của công ty may Việt Tiến với thị
phần cao cấp và trung lưu có thể bán các sản phẩm từ 800.000 đến 1.000.000
đồng/bộ cùng các sản phẩm ở thị phần trung lưu từ 100.000 đến 200.000
đồng/bộ. Các sản phẩm của Vinatex cũng có mức giá từ 50.000 đến 200.000
24
đồng/bộ. Việc tung ra các sản phẩm với nhiều mức giá đã tạo ra nhiều sự lựa
chọn cho khách hàng thỏa mãn tối đa nhu cầu của họ.
Tuy nhiên, nhìn chung hiện nay các sản phẩm dệt may của Việt Nam
phần lớn có giá cả cao, chỉ phù hợp với các đối tượng có thu nhập cao.
Nguyên nhân chủ yếu là giá thành các sản phẩm dệt may còn cao, do nguồn
nguyên liệu phụ thuộc vào nhập khẩu, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, bộ
máy tổ chức cồng kềnh, thiếu linh hoạt, trình độ tay nghề công nhân thấp …
Nhóm khách hàng có thu nhập trung bình và thấp thường lựa chọn những sản
phẩm có mức giá trung bình. Thị trường các sản phẩm bình dân ở Việt Nam
hiện nay bị cạnh tranh bởi các mặt hàng giá rẻ mang nhãn mác Trung Quốc,
Hồng Kông, Thái Lan. So với hàng Việt Nam, hàng Trung Quốc cùng loại
kém chất lượng hơn nhưng do giá cả rẻ hơn nên được người tiêu dùng ưa
chuộng. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý hơn tới thị trường này để có
thể khai thác tối đa thị trường trong nước.
Kiểu dáng của hàng hóa sản phẩm.

Có 3 yếu tố tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm may mặc là loại vải,
kiểu mẫu và kĩ thuật may, tính thời trang. Kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm là
một nhân tố quan trọng, quyết định 50% đến việc lựa chọn mua hàng của
khách hàng.
Đơn giản, dễ tính nhưng nhàm chán là nhận xét của phần lớn người tiêu
dùng đối với hàng may mặc Việt Nam. Một thực tế là kiểu dáng của sản phẩm
dệt may Việt Nam thường ít phong phú, đơn điệu, chậm thay đổi, dẫn đến ít
sự lựa chọn cho khách hàng, nhất là giới trẻ là đối tượng có yêu cầu nhiều về
kiểu dáng, phong cách. Màu sắc cũng đơn điệu, thiếu kích cỡ cho khách hàng
lựa chọn.
25

×