Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.03 KB, 24 trang )

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH DỆT
MAY VIỆT NAM
3.1. Triển vọng phát triển ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước nhiều nhân tố cả thuận lợi lẫn
khó khăn mà những nhân tố này có tác động tực tiếp hay gián tiếp đến sự phát triển
ngành dệt may Việt Nam
- Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực vào năm 2001 đã tạo cơ hội
thuận lợi cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ và Bắc Mỹ.
Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ,
mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, đồng thời nó tác động
tới việc thúc đẩy các nhà đầu tư thực hiện vốn và dự án đầu tư mới. Việc ký kết
được Hiệp định thương mại Việt Mỹ sẽ góp phần thu hút được nhiều nhà đầu tư
khác quan hệ với Việt Nam. Từ đó sẽ mở ra cho ngành dệt may Việt Nam nhiều cơ
hội mới, tăng được số vốn đầu tư vào ngành, mở rộng sản xuất, nâng cao được
năng lực cạnh tranh, …Do vậy mà ngành dệt may Việt Nam có cơ hội phát triển
hơn
- Việt nam là một trong những ứng cử viên của tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Cũng như các nước và vùng lãnh thổ đang tiến hành thương lượng gia
nhập WTO, Việt Nam rất quan tân việc thực hiện các thoả thuận mà các vòng đàm
phán của WTO thông qua.
Trước vòng đàm phán Doha, theo quy định, các nước buộc phải cắt giảm
thuế quan, nhưng trong thực tế các nước giàu vẫn duy trì thuế suất cao đối với
hàng nhập khẩu. Đối với hàng dệt may, mặt hàng mang tính chất chiến lược của
các nước đang phát triển, theo cam kết các nước phát triển phải giảm mức thuế suất
bình quân là 17%, nhưng trong thực tế EU chỉ giảm 3,6%, Mỹ giảm 1,3% .
Vòng đàm phán Doha diễn ra yêu cầu các nước phát triển phải giảm thuế
đánh vào các mặt hàng công nhiệp và giảm nhẹ những hạn chế phi thuế quan. Tuy
vậy, Mỹ và các nước Châu Âu bãi bỏ yêu cầu phải dỡ bỏ nhanh các hạn ngạch dệt
may, vẫn tiếp tục tăng thuế và áp dụng các quy chế chống bán phá giá đối với hàng
dệt may. Do đó, Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác vẫn gặp không


ít những khó khăn trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang các nước phát triển.
Trong thực tế, tuy nhiều nước đang phát triển chưa được lợi từ WTO nói
chung, Doha nói riêng, nhưng cũng có không ít nước, nhất là các nước đang phát
triển đã tranh thủ được những quy định có lợi của WTO để tăng nhanh sự phát
triển của ngoại thương, từ đó đẩy mạnh sự phát triển kinh tế trong nước.
Tham gia WTO, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, kinh
nghiệm nhiều nước đang phát triển đã tham gia WTO cho thấy cái lợi trước tiên có
lẽ là việc thay đổi, điều chỉnh cách chơi của mình cho phù hợp với luật chơi quốc
tế phổ biến. Những cam kết giảm trợ cấp, mở rộng hạn ngạch xuất khẩu của các
nước, nhất là nhóm nước phát triển tại hội nghị Doha có thể giúp Việt Nam giành
được nhiều thị trường hơn, tăng xuất khẩu nhiều hơn các mặt hàng dệt may. Tuy
vậy, điều quan tâm lớn nhất của các doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư
nước ngoài ở mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực dệt may nói riêng là
liệu đến năm 2005 Việt Nam đã là thành viên của tổ chức WTO hay chưa. Nếu như
vẫn đứng ngoài tổ chức thương mại quốc tế quan trọng này thì hàng dệt may Việt
Nam sẽ mất hẳn sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bởi vì lúc đó các nước là
thành viên của WTO được xuất khẩu tự do còn Việt Nam thì vẫn bị áp dụng hạn
ngạch.
Nếu đến tháng 7/2005 Việt Nam là thành viên của WTO thì chúng ta vẫn
chậm mất một năm, và không chỉ cho một năm trễ đó mà là lâu dài bởi ngoài Hiệp
định ATC, chúng ta còn phải theo các lộ trình khác như AFTA.
- Việc EU mở rộng ( thêm 10 thành viên) cũng tạo điều kiện rất thuận lợi
cho ngành dệt may phát triển mạnh hơn. Trong 10 thành viên mới của EU, phần
lớn lại có quan hệ gần gũi và chặt chẽ với Việt Nam trong Hội đồng tương trợ kinh
tế trước đây. Điều này rất có ý nghĩa vì phần lớn các nước mới này đều là bạn hàng
truyền thống với Việt Nam, Việt Nam có thể sử dụng các thị trường này như là một
khu vực kết nối để tiếp cận và mở rộng sang thị trường khổng lồ EU. Song, việc
EU mở rộng cũng tạo ra khó khăn đối với hàng dệt may Việt Nam đó là việc giao
lưu thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên mới của EU với các hình
thức như hiện nay sẽ khó được duy trì, thậm chí nhiều cam kết song phương sẽ bị

huỷ bỏ, tiêu chuẩn xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước này sẽ đòi hỏi phải cao
hơn. Mặt hàng Dệt may Việt Nam vào các nước thành viên mới không bị hạn
ngạch cũng sẽ áp dụng hạn ngạch. Tuy vậy, theo dự tính của Bộ kế hoạch và Đầu
tư thì ngành dệt may Việt Nam năm 2004 sẽ có thể xuất khẩu được khoảng 1 tỷ
USD vào thị trường EU.
- Hiệp định đa sợi (MFA) được ký kết năm 1974, với việc thiết lập hệ thống
hạn ngạch khắt khe của các nước nhập khẩu. Xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá
thương mại trong Vòng đàm phán Uruguay đã đưa đến việc ký kết hiệp định Dệt -
May (ATC) giữa các nước thành viên với việc loại bỏ dần hạn ngạch từ 1/1/1995
và tiến dần tới loại bỏ hoàn toàn vào 31/12/2004. Thương mại dệt may đang tiến
dần tới thời điểm 1/1/2005, cột mốc quan trọng đánh dấu sự chấm dứt chế độ hạn
ngạch kéo dài suốt 30 năm từ 1974 với Hiệp định hàng đa sợi và sự bắt đầu thời kỳ
mới tự do hoá thương mại dệt may. Các chuyên gia nhận định, sau năm 2004, cuộc
cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ khốc liệt hơn và toàn diện hơn. Xuất khẩu của một
số nước sẽ suy giảm, nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá sản.
Thời điểm Hiệp định ATC giữa các nước thành viên của tổ chức thương mại
thế giới WTO hết hiệu lực đang đến gần. Theo khuôn khổ Hiệp định này, đến
31/12/2004, các nước nhập khẩu hàng dệt may sẽ bỏ hạn ngạch cho các nước xuất
khẩu là thành viên của WTO. Đây có thể coi là cơn "đại hồng thuỷ" của ngành dệt
may, đặc biệt là với Việt Nam - một nước chưa gia nhập WTO. Sau thời điểm
31/12/2004, do Việt Nam vẫn chưa là thành viên của WTO nên vẫn chưa được bỏ
hạn ngạch; trong khi đó, một số nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia…đã là
thành viên của tổ chức này thì sẽ có điều kiện thuận lợi hơn. Do vậy mà dệt may
Việt Nam sẽ không có lợi thế ngang bằng với họ, sẽ có nhiều khó khăn hơn là cơ
hội.
- Nước ta có tình hình kinh tế, chính trị tương đối ổn định, được coi là địa
điểm 'an toàn" về đầu tư cũng như có môi trường pháp lý về đầu tư tương đối hoàn
chỉnh. Điều này có vai trò rất lớn trong việc thu hút được các nhà đầu tư nước
ngoài vào hoạt động kinh doanh trên thị trường Việt Nam trong các lĩnh vực kinh
doanh xuất nhập khẩu nói chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng.

- Việc Trung Quốc gia nhập WTO đã tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc nhiều hơn. Trong khi đó, ở trong nước từ
khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và sau nhiều lần bổ sung, sửa đổi
năm 2000 thì ngành dệt may đã có sẵn một số điều kiện cơ bản để thu hút FDI
- Nguồn nhân lực: lực lượng lao động dồi dào với trình độ kỹ thuật, kỹ năng
tay nghề khá, đáp ứng yêu cầu trình độ kỹ thuật của ngành và đối tác đầu tư nước
ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh có kinh nghiệm tiếp cận, đàm
phán hợp tác với nước ngoài. Giá nhân công rẻ tương đối so với một số nước trong
khu vực. Tuy vậy, trong lĩnh vực dệt may thì ta vẫn phải nhập khẩu tới 70%
nguyên liệu, hàng chủ yếu lại gia công, năng suất thấp, giá thành cao…
- Việc triển khai các biện pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết 09 của
Chính phủ đã và đang góp phần cải thiện môi trường đầu tư cả về môi trường pháp
lý và thủ tục hành chính tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Việc sửa đổi này cũng nhằm mục đích tạo cơ hội cho Việt Nam trong
tiến trình gia nhập WTO. Từ đó tạo đà cho sự phát triển ngành dệt may Việt Nam.
Việc Việt Nam được là thành viên chính thức của WTO sẽ thúc đẩy xuất khẩu dệt
may Việt Nam phát triển, và cũng thu hút được thêm cho mình nhiều nhà đầu tư
lớn hơn vào lĩnh vực dệt may.
- Nền kinh tế thế giới, nhất là các nước ASEAN đang được phục hồi, cùng
với xu hướng tăng cương hội nhập kinh tế quốc tế sẽ góp phần làm tăng luồng vốn
đầu tư ra nước ngoài và tạo điều kiện để Việt Nam có thể tăng xuất khẩu sang các
nước này
Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010
1
:
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 55/2001/QD-TTg ngày 23 tháng 04
năm 2001 phê duyệt chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực
hiện chiến lược phát triển Ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các nội
dung sau:

1. Mục tiêu:
Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp
trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng
trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập
vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
2. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010:
a) Đối với ngành dệt, bao gồm: sản xuất nguyên liệu dệt, sợi dệt, in nhuộm
hoàn tất:
1 Theo nhuồn tin từ
- Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo; khuyến khích các
thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực
này
- Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng các
cụm công nghiệp sơi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn
- Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến,
trình độ chuyên môn hoá cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới,
nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệ Việt Nam trên thị
trường quốc tế
- Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước
nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm đáp ứng nhu
cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước
b) Đối với ngành may
- Đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà Nhà nước không cần
nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành
may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động
- Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may. Tập
trung đầu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các
biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành sản xuất
và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường quốc tế
c) Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại câu có

xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hóa chất, thuốc nhuộm cung cấp cho
ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu và phụ liệu thay
thế nhập khẩu
d) Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, để phát
triển cơ khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may
trong nước
3. Các chỉ tiêu chủ yếu
Cũng theo nguồn tin từ www.mpi.gov.vn thì Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ số 55/2001/QD-TTg đã chỉ ra một số chỉ tiêu cần phải đạt được của
ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 như sau:
a) Sản xuất
- Đến năm 2005, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 30.000 tấn; xơ sợi tổng
hợp 60.000 tấn; sợi các loại 150.000 tấn; vải lụa thành phẩm 800 triệu m
2
; dệt kim
300 triệu sản phẩm; may mặc 780 triệu sản phẩm
- Đến năm 2010, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 80.000 tấn; xơ sợi tổng
hợp 120.000 tấn, sợi các loại 300.000 tấn; vải lụa thành phẩm 1.400 triệu m
2
; dệt
kim 500 triệu sản phẩm; may mặc 1.500 triệu sản phẩm
b) Kim ngạch xuất khẩu
- Đến năm 2005: 4.000 đến 5.000 triệu USD
- Đến năm 2010: 8.000 đến 9.000 triệu USD
c) Sử dụng lao động
- Đến năm 2005: Thu hút 2,5 đến 3,0 triệu lao động.
-Đến năm 2010: Thu hút 4,0 đến 4,5 triệu lao động
d) Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu
- Đến năm 2005: trên 50%
- Đến năm 2010: trên 75%

e) Vốn đầu tư phát triển
- Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005
khoảng 35.000 tỷ đồng, trong đó Tổng công ty Dệt may Việt Nam khoảng 12.500
tỷ đồng
- Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2006-2010
khoảng 30.000 tỷ đồng, trong đó tổng Công ty Dệt May Việt Nam khoảng 9.500 tỷ
đồng
- Tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trồng bông đến năm 2010
khoảng 1.500 tỷ đồng
 Với chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 như
trên thì Nhà nước đã đề ra một số cơ chế, chính sách để hỗ trợ thực hiện như
sau:
1. Nhà nước hỗ trợ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy
hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm; đầu tư các
công trình xử lý nước thải; quy hoạch các cụm công nghiệp dệt, xây dựng cơ sở hạ
tầng đối với các cụm công nghiệp mới; đào tạo và nghiên cứu của các viện, trường
và trung tâm nghiên cứu chuuyên ngành dệt may
2. Các dự án đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất: sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất,
nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may:

×