Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH của BHXH huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.59 KB, 54 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG I 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ 5
THU QUỸ BHXH 5
II. Quản lý thu quỹ BHXH 14
4.Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu BHXH: 20
CHƯƠNG II 22
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH Ở BHXH HUYỆN YÊN
THÀNH, TỈNH NGHỆ AN 22
I. Giới thiệu chung về BHXH huyện Yên Thành 22
II. Thực trạng công tác quản lý thu quỹ BHXH huyện Yên Thành 27
III. Nhận xét chung về quản lý thu quỹ BHXH huyện Yên Thành 40
I. Định hướng hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH huyện Yên Thành 44
II. Các giải pháp hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH 45
III. Các kiến nghị khác với BHXH tỉnh Nghệ An, BHXH Việt Nam 51
KẾT LUẬN 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
1
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội(BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời
khá sớm và đến nay đã được thực hiện trên toàn thế giới. So với các loại hình
bảo hiểm khác, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do
bản chất của nó chi phối.
Ở nước ta, BHXH là một chính sách lớn trong hệ thống an sinh xã hội.
BHXH vừa mang tính kinh tế nhưng cũng mang tính nhân đạo của Nhà nước ta
nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động trước những biến cố làm giảm
hoặc mất thu nhập. Mục tiêu của Nhà nước là mở rộng đối tượng tham gia
BHXH cho mọi người dân nhưng hiện nay mục tiêu đó chưa được thực hiện vì
nhiều nguyên nhân. Trong công tác BHXH nói riêng còn có nhiều tồn tại cần
được giải quyết.


BHXH cấp huyện là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý
BHXH Việt Nam, là cơ sở đầu tiên để thực hiện công tác BHXH. Thực hiện tốt
hoạt động ở BHXH huyện thì mới đảm bảo cho việc thực hiện của cả hệ thống.
BHXH huyện Yên Thành là cơ quan BHXH cấp huyện trực thuộc quản lý dọc
của BHXH tỉnh Nghệ An. Trong thời gian thực tập tại BHXH huyện Yên
Thành, em đã ghi nhận được một số kiến thức thực tế về công tác quản lý thu
BHXH và đã chọn đề tài : “Hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH của BHXH
huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An”.
Mục đích của chuyên đề nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách quản
lý quỹ BHXH tại BHXH huyện Yên Thành. Qua đó đề xuất một số giải pháp
góp phần hoàn thiện chính sách BHXH, nâng cao hiệu quả quản lý BHXH và
đảm bảo quyền lợi cho NLĐ.Chuyên đề của em ngoài lời mở đầu và phần kết
luận thì gồm có nội dung chính như sau:
Chương I: Cơ sở lí luận về công tác quản lý thu quỹ BHXH
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu quỹ BHXH tại BHXH
huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Chương III: Các giải pháp hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH huyện
Yên Thành, tỉnh Nghệ An
Do còn hạn chế về kiến thức thực tế cũng như nguồn tài liệu, bài báo cáo
của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến
chỉ bảo của các thầy cô và các bạn để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
2
Qua bài viết này cho em gửi lời cảm ơn sự giúp đỡ của các cô chú, anh
chị cán bộ của BHXH huyện Yên Thành, sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô
giáo Khoa quản lý kinh tế trường đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là sự chỉ
bảo tận tình của cô giáo Ths. Nguyễn Thị Hồng Minh - người đã trực tiếp
hướng dẫn thực tập và hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
4

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THU QUỸ BHXH
I. Bảo hiểm xã hội
1. Khái niệm và vai trò
- Thu Bảo hiểm xã hội là việc nhà nước dùng quyền lực của mình bắt
buộc các đối tượng tham gia phải đóng Bảo hiểm xã hội theo mức phí quy định
hoặc cho phép những đối tượng tự nguyện tham gia được lựa chọn mức đóng
và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành
một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho việc chi trả các chế độ
BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp Bảo hiểm xã hội. (giáo trình quản
trị BHXH trường ĐH LĐ - XH trang 78)
Bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của con
người, được thể hiện trên các mặt:
 Đối với người lao động: Bảo hiểm xã hội đã góp phần ổn định
cuộc sống cho bản thân người lao động cũng như gia đình họ khi gặp khó khăn
do bị mất hoặc giảm thu nhập. Từ đó tạo ra tâm lý cho người lao động yên tâm
ổn định trong cuộc sống cũng như trong lao động, góp phần nâng cao năng suất
lao động cho xã hội.
 Đối với người sử dụng lao động: Bảo hiểm xã hội góp phần ổn
định sản xuất kinh doanh, giúp người sử dụng lao động đỡ phải bỏ ra một
khoản tiền lớn, nhiều khi là rất lớn để thực hiện trách nhiệm của mình đối với
người lao động khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ đó Bảo hiểm xã hội
góp phần tạo điều kiện ổn định môi trường lao động, ổn định xã hội, nâng cao
trách nhiệm của người lao động, nâng cao năng suất lao động.
 Đối với Nhà nước: BHXH là công cụ quan trọng giúp Nhà nước
thực hiện chức năng xã hội được tốt hơn để từ đó nhằm đạt tới mục tiêu công
bằng và tiến bộ xã hội. Thông qua các quy định về BHXH đối với người lao
động và người sử dụng lao động, Nhà nước thực hiện việc tốt việc điều tiết lợi
ích, quyền lợi của các bên. Nói cách khác, Nhà nước sử dụng pháp luật để can

thiệp vào mối quan hệ chủ - thợ. Đảm bảo những quyền lợi xã hội cho người
lao động tạo sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,
phân phối lại thu nhập, dẫn đến việc phát huy tốt nhân tố con người, kết hợp tốt
giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
5
Ngoài ra, Bảo hiểm xã hội còn là kênh huy động vốn có hiệu quả cung
cấp nguồn tiền tệ lớn cho việc đầu tư phát triển đối với nền kinh tế và cũng
chính điều này là sự đảm bảo cho quỹ Bảo hiểm xã hội được bảo toàn và phát
triển tránh sự trượt giá của đồng tiền theo thời gian.
2. Tính tất yếu của BHXH
Trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động sản xuất, dù ko mong
muốn nhưng không mấy ai tránh khỏi những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai
nạn, bệnh nghề nghiệp hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm cho những
ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các
tác nhân xã hội khác. Tất cả những nguyên nhân đó xảy ra đều ít nhiều làm ảnh
hưởng đến đời sống tinh thần cũng như vật chất của bản thân cũng như gia
đình, người thân của họ.
Để khắc phục các rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân cũng
như gia đình ngoài việc tự mình khắc phụ, người lao động cần phải được sự
bảo trợ của cộng đồng. Đặc biệt để người lao động yên tâm than gia sản xuất
tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước. Không chỉ là lời nói hỏi thăm, động
viên mà sự bảo trợ này phải bằng những nguồn vật chất cần thiết nhằm nhanh
chóng khôi phục sức khỏe, duy trì sức lao động xã hội góp phần làm giảm bớt
những khó khăn cho người lao động cũng như gia đình người lao động khi gặp
khó khăn về thu nhật trong các trường hợp như ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, Tất cả những cái đó trở thành mối đe dọa cuộc sống
bình thường của người lao động. Để từ đó, xã hội đã phát huy những truyền
thống tương thân, tương ái của con người đối với con người. Từ đó BHXH
được ra đời như một tất yếu khác quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đề
cảm thấy cần phải tham gia hệ thống BHXH này

Vì vậy, Bảo hiểm xã hội đã trở thành nhu cầu và quyền lợi cho người lao
động và được thừa nhận như một nhu cầu tất yếu khách quan trong cuộc sống
3. Chức năng của BHXH
Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho
cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi
lao động theo các điều kiện quy định của Bảo hiểm xã hội. Còn mất việc làm
và mất khả năng lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã hội với
6
mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được
hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của Bảo hiểm xã hội,
nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của Bảo hiểm
xã hội.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người
sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ
này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít,
BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang.
Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những
người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v
Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã
hội.
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham
gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương
hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có
BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia

đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn
yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực
lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng
này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao
năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và
người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền
lương, tiền công, thời gian lao động v.v Thông qua BHXH, những mâu thuẫn
đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có
BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn
bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách
thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn
7
về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn
định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
4. Tính chất của BHXH
BHXH ra đời gắn liền với đời sống của người lao động do vậy BHXH có
một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội.
- Tính ngẫu nhiên phát sinh không đồng đều theo thời gian và không
gian. Các rủi ro không may đem lại trong BHXH đã hình thành nên tính ngẫu
nhiên của nó. Vì các rủi ro này được áp dụng BHXH đều không thể lường
trước được sự việc xảy ra, các rủi ro này thường xảy ra một cách bất ngờ. Vì
vậy mà không phải tất cả những người lao động của một tổ chức hay tất cả các
tổ chức đều phải chịu chung một rủi ro hay nhiều rủi ro cùng một lúc, cùng một
thời điểm.
- Vừa mang tính xã hội, vừa mang tính kinh tế và có cả tính chất dịch vụ.
Tính chất kinh tế của BHXH được biểu hiện thông qua cơ chế hình thành và sử
dụng quỹ BHXH, Quỹ BHXH khi được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng

quỹ thì nhất thiết phải có sự tham gia đóng góp tài chính của tất cả các bên liên
quan. Mức tham gia đóng góp của các bên được xác định rất cụ thể dựa trên
nguyên tắc hoạt động cơ bản của Bảo hiểm xã hội trên cơ sở lấy số đông bù
cho số ít vì thực chất mức tham gia đóng góp của từng nguời lao động là không
đáng kể so với mức họ được thụ hưởng quyền lợi. Xét về góc độ kinh tế thì
người sử dụng lao động, được lợi rất nhiều khi quan hệ BHXH, khi tham gia
BHXH người sử dụng lao động sẽ không phải chi trả các khoản chi phí cho
người lao động bị suy giảm sức khỏe hoặc mất khả năng lao động. Xét về phía
Nhà nước thì việc tạo lập, hoạt động của quỹ BHXH đã góp phần giảm nhẹ
gánh nặng cho Ngân sách nhà nước (NSNN). Đồng thời nó còn góp phần đầu
tư phát triển cho nền kinh tế. Từ đó cơ chế tạo lập và sử dụng, hoạt động của
quỹ BHXH đã đem lại rất nhiều quyền lợi, lợi ích cho nguời lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước.
Vì tính chất xã hội của BHXH được thể hiện rất rõ nét về tính chất lâu
dài mọi nguời lao động trong xã hội đều có quyền tham gia đóng góp vào quỹ
BHXH cho nên BHXH là một bộ phận quan trọng chủ yếu trong hệ thống đảm
bảo an toàn xã hội. Và ngược lại BHXH phải có trách nhiệm Bảo hiểm đảm
bảo quyền lợi cho mọi người lao động và gia đình họ kể cả khi họ đang còn
8
trong độ tuổi lao động. Do đó tính chất xã hội của BHXH luôn gắn chặt chẽ với
tính dịch vụ của nó, khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển mạnh thì tính
chất dịch vụ, tính chất xã hội hoá của hệ thống BHXH ngày càng được nâng
cao.
4.1. Đặc điểm của quỹ BHXH
- Thứ nhất, việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH không vì mục
tiêu lợi nhuận:
Mục đích khi hình thành quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của
người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp
khác để có một lượng tiền tệ đủ lớn, đảm bảo đủ chi trả các trợ cấp BHXH cho
các trường hợp bị giảm hoặc mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao

động do gặp phải những sự kiện hoặc những "rủi ro xã hội" đã nêu và những
chi phí cho hoạt động thường xuyên của bộ máy BHXH. Khác với bảo hiểm
thương mại, trong kết cấu phí BHXH không tính phần lợi nhuận của bên bảo
hiểm (cơ quan BHXH). Trong tổng phí BHXH chỉ bao gồm phí thuần túy và
phụ phí (bao gồm quản lý phí và phí dự phòng - nếu có). Trong khi đó, đối với
bảo hiểm thương mai và các loại bảo hiểm kinh doanh khác, trong cơ cấu phí
bao giờ cũng có phần lãi định mức (lợi nhuận) này. Trong quá trình sử dụng
quỹ, các chi phí chi trả các trợ cấp BHXH chiếm phần lớn trong tổng chi của
quỹ BHXH. Phần chi phí quản lý thường chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp và những chi
phí này là chi phí thực sự cần thiết, đảm bảo cho cả hệ thống BHXH hoạt động
được bình thường. Trong quá trình hoạt động, như đã nêu, có một phần quỹ
BHXH tạm thời chưa sử dụng đến ngay, phần này được đưa vào đầu tư để tăng
trưởng quỹ. Lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư này khác với lợi nhuận của các
nhà doanh nghiệp và khác với lợi nhuận đầu tư khác, được đưa trở lại làm tăng
quy mô quỹ BHXH và để đảm bảo tốt hơn cho các chi trả các trợ cấp BHXH.
Như vậy, mặc dù là một quỹ tài chính, nhưng quỹ BHXH không phải vì
mục đích lợi nhuận mà vì phúc lợi, quyền lợi của người lao động tham gia
BHXH và của cả cộng đồng.
- Thứ hai, Quỹ BHXH vừa có tính sử dụng tức thời vừa có tính sử
dụng lâu dài:
Đối với một người lao động, quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH
( nhất là đối với các chế độ BHXH dài hạn) thường kéo dài trong nhiều năm và
phải sau hàng chục năm đóng họ mới có thể được hưởng BHXH. Tuy nhiên,
9
đối với quỹ BHXH, do được hình thành từ sự đóng góp của nhiều thế hệ người
lao động và cũng được sử dụng cho nhiều thế hệ người lao động. Vì vậy, quỹ
BHXH vừa có tính sử dụng tức thời vừa có tính sử dụng lâu dài.
Tính tức thời thể hiện ở chỗ, luôn luôn có một phần của quỹ được sử
dụng ngay để chi trả ngay lập tức cho những người thụ hưởng BHXH ở bất kỳ
thời điểm nào trong năm khi phát sinh nhu cầu được BHXH. Có thể hình dung

là, nếu có một "lát cắt" vào một thời điểm nào đó trong năm (ví dụ 1 tháng 7)
thì tại thời điểm này có rất nhiều người vừa mới đóng BHXH, nhưng cũng có
nhiều người khác thì đã đóng được một số năm và một số khác đã đóng được
nhiều năm rồi. Cũng tại "lát cắt" này (thời điểm này) có rất nhiều người bị ốm
đau, một số người khác lại bị tai nạn lao động và cũng có một số khác được
nghỉ hưu và quỹ BHXH phải chi trả cho rất nhiều loại người này với các loại
trợ cấp khác nhau (cả trợ cấp cho các chế độ dài hạn và trợ cấp cho các chế độ
ngắn hạn). Dưới giác độ này, quỹ BHXH có tính thời điểm.
Tính lâu dài của quỹ BHXH thể hiện ở chỗ, do nhiều thế hệ người lao
động đóng góp và được tích lũy lại theo năm tháng, nên sự đóng góp của thế hệ
lao động hiện tại được dùng để chi trả BHXH cho các thế hệ lao động trước đó
(những người đang nghỉ hưu và hưởng trợ cấp BHXH dài hạn) và sự chi trả của
quỹ BHXH trong tương lai cho những người đóng góp hiện tại sẽ chắc chắn do
những thế hệ đóng góp tương lai đảm nhận. Dòng đóng và hưởng cứ như vậy
liên tục diễn ra. Nói cách khác, quỹ BHXH thực hiện sự chuyển dịch trách
nhiệm đóng góp giữa các thế hệ người lao động tham gia BHXH. Đây cũng là
ý nghĩa nhân văn của BHXH. Mặt khác, giữa đóng và hưởng BHXH thường
không xẩy ra đồng thời, nên quỹ có một bộ phận nhàn rỗi tương đối. Bộ phận
này của quỹ được đem đầu tư vào các dự án dài hạn để có thể sinh lời lâu dài
và đáp ứng được nhu cầu chi dùng trong tương lai của qũy. Trong tính toán
BHXH, người ta thường phải dự báo những chi phí của quỹ trong tương lai rất
xa, khoảng 30 năm thậm chí cho 50 năm sau.
- Thứ ba, Quỹ BHXH vừa có thể là một tài khoản vừa có thể là một
tổ chức BHXH:
Do tính đặc thù của mình, quỹ BHXH của mỗi quốc gia vừa có thể là
một tài khoản (account) vừa có thể là một tổ chức BHXH (fundation). Là một
tài khoản khi quỹ BHXH được tập trung từ sự đóng góp của những người tham
gia BHXH thông qua hệ thống kho bạc vào tài khỏan chung của BHXH (có thể
10
có quỹ chung hoặc các quỹ thành phần cho các nhóm chế độ). ở đây, việc đóng

góp của người lao động và người sử dụng lao động được chuyển tới tài khoản
của cơ quan BHXH. Khi đó, quỹ BHXH có ý nghĩa của một tài khoản để giao
dịch.
Quỹ BHXH cũng có thể có ý nghĩa một tổ chức BHXH, khi tổ chức đó
thực hiện việc thu BHXH và tổ chức chi trả các trợ cấp BHXH và thực hiện các
hoạt động đầu tư đề tăng trưởng và phát triển quỹ. Với ý nghĩa này, quỹ BHXH
thực hiện các nghiệp vụ về BHXH theo các quy định của pháp luật, bao gồm cả
việc đề ra mức thu, mức chi và cơ chế thu - chi, cơ chế quản lý quỹ BHXH.
- Thứ tư, hình thức và cơ chế hoạt động của quỹ BHXH phụ thuộc
vào cơ chế kinh tế, chính sách BHXH và cơ chế tài chính của mỗi quốc gia
trong các giai đoạn lịch sử:
Sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH phụ thuộc vào điều kiện phát
triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia. Trong từng thời kỳ, Nhà nước có những
chính sách BHXH phù hợp với cơ chế kinh tế. Có thể nói sự phát triển kinh tế
của mỗi nước quyết định nguồn hình thành quỹ BHXH, từ đó sẽ quyết định các
hình thức BHXH. Chẳng hạn, ở Việt Nam, trước năm 1995, Nhà nước bao cấp
cho các hoạt động BHXH. Các chi phí cho BHXH, bao gồm cả chi trả trợ cấp
và các chi phí cho các hoạt động thường xuyên của bộ máy BHXH. Khi đó,
không cần thiết phải có quỹ BHXH độc lập và cũng không cần quan tâm đến
nguồn thu mà chỉ quan tâm đến số lượng người được hưởng trợ cấp BHXH. Từ
năm 1995 trở lại đây, người lao động được hưởng BHXH phải trên cơ sở có
đóng góp BHXH. Nhà nước đã giảm dần sự đóng góp cho quỹ BHXH. Quỹ
BHXH đã được tách khỏi ngân sách Nhà nước. Vì vậy, việc thu và chi của quỹ
BHXH phải tính toán sao cho việc đóng góp hiện tại không những phải đảm
bảo chi dùng trong hiện tại, mà còn phải đáp ứng được cho những chi dùng
trong tương lai. Tuy nhiên, việc đóng như thế nào và việc hưởng BHXH ra làm
sao phải do chính sách và pháp luật BHXH quy định
- Thứ năm, quỹ BHXH vừa có chức năng phân phối và chức năng
giám đốc:
Là một quỹ tài chính, quỹ BHXH cũng có hai chức năng thuộc tính là

phân phối và giám đốc. Tuy nhiên, do tính đặc thù xã hội, quỹ BHXH có hai
chức năng là phân phối lại thu nhập và giám đốc.
11
Chức năng phân phối lại thu nhập của quỹ BHXH là chức năng rất đặc
thù của hệ thống tài chính BHXH. Do có nhiều thế hệ người đóng BHXH và
nhiều thế hệ người thụ hưởng BHXH, nên việc phân phối lại thu nhập trong
BHXH khác với những phân phối vật chất hoặc tài chính thông thường. Phân
phối lại thu nhập trong BHXH được thực hiện theo chiều ngang và theo chiều
dọc:
- Phân phối lại thu nhập theo chiều ngang được thực hiện giữa
những người lao động trẻ khoẻ và những người già yếu, ốm đau; giữa những
người đang làm việc và những người về hưu; giữa những người có việc làm và
những người bị mất việc làm;giữa một bên là những người thường xuyên đóng
phí BHXH nhưng chưa gặp rủi ro và những biến cố nào đó trong cuộc sống,
nên chưa được hưởng trợ cấp BHXH và một bên là những người cũng tham gia
đóng phí, nhưng gặp phải rủi ro và biến cố nên được quỹ BHXH trợ cấp.
- Phân phối lại thu nhập theo chiều dọc được thực hiện giữa những
người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp. ở nhiều nước quy định
người có thu nhập cao đóng phí BHXH với tỷ lệ cao hơn người có thu nhập
thấp, người sử dụng lao động đóng phí BHXH cao hơn người lao động. Phân
phối lại theo chiều dọc còn được thể hiện sự phân phối lại tài chính (thu nhập)
của chính bản thân người lao động theo thời gian. Người lao động hàng tháng
trích một phần thu nhập của mình đóng góp cho quỹ BHXH (phí BHXH). Phần
đóng góp này được tích lũy và được đầu tư để đến khi nghỉ hưu đem ra chi
dùng ( thông qua trợ cấp hưu trí). Như vậy, BHXH đã thực hiện chức năng
phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang, khái quát hơn là giữa
số đông những người đóng góp vào quỹ BHXH với số ít người hưởng trợ
BHXH. Điều đó góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu xã hội. Có
thể nói, phân phối lại trong BHXH là sự phân phối mang đậm tính nhân văn mà
không loại hình hoạt đồng tiền tệ nào có được.

Cùng với chức năng phân phối lại thu nhập, quỹ BHXH còn thực hiện
chức năng giám đốc bằng đồng tiền thông qua quá trình tạo lập và sử dụng quỹ
BHXH. Chức năng giám đốc của quỹ BHXH là chức năng mà nhờ vào đó, việc
kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình vận động của các
nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng quỹ BHXH, đảm bảo đủ chi cho các trợ
cấp BHXH và các chi phí thường xuyên cho hoạt động BHXH.
12
4.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH
BHXH được thực hiện sẽ hình thành nên quỹ BHXH - là một quỹ tài
chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Đây là một trong
những yếu tố quan trọng bậc nhất trong toàn bộ quy trình thực hiện chính sách
BHXH. Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau:
 Đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động:
- Chủ sử dụng lao động đóng 16% so với tổng quỹ tiền lương của những
người tham gia BHXH trong đơn vị, trong đó, 11% để chi các chế độ hưu trí, tử
tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 6% tiền lương tháng để chi trả các chế độ
hưu trí, tử tuất.
 Nhà nước đóng và hỗ trợ: Để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với người lao động, hàng tháng, Bộ Tài chính trích từ ngân
sách Nhà nước số tiền bổ sung vào quỹ BHXH đủ chi trả các khoản
thuộc về BHXH như sau:
- Chi trả các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, tử tuất cho tất cả các đối tượng được thụ hưởng chế độ
BHXH
- Hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH
đối với người lao động thuộc khu vực Nhà nước
- Đóng toàn bộ Bảo hiểm y tế cho các đối tượng đang được thụ hưởng
chế độ BHXH.

 Các nguồn thu khác: Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau
đây:
- Tiền lãi, tiền sinh lời từ việc thực hiện các phương án bảo tồn và phát
triển quỹ BHXH.
- Các nguồn tài trợ, viện trợ khác của cộng đồng quốc tế và trong nước,
kể cả các tổ chức phi Chính phủ hoặc các cá nhân hảo tâm
- Các nguồn thu khác: Phạt tiền do nộp BHXH chậm so với thời gian quy
định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng
thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ BHXH được hưởng thụ
4.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Phí BHXH bao gồm 3 bộ phận đó là:
13
- Phí thuần.
- Phí dự trữ.
- Phí quản lý.
Từ đó ta thấy quỹ BHXH được sử dụng cho 3 mục đích đó là: chi trả
cho các chế độ trợ cấp BHXH, chi cho việc quản lý hệ thống BHXH, chi trích
lập quỹ dự phòng, dự trữ giải quyết trong trường hợp gặp những tổn thất lớn.
Trong cơ cấu chi từ quỹ BHXH thì chi trả cho các chế độ BHXH là rất
lớn, chiếm phần lớn nguồn quỹ BHXH vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của
BHXH là: bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động, cho các hoạt động
của các đơn vị, tổ chức. Trong thực tế việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn
ra thường xuyên, liên tục với số lượng chi phí lớn trên phạm vi rộng lớn. Một
trong những khoản chi thường xuyên hàng tháng đó là chi lương hưu cho
những người lao động đã nghỉ công tác và chi trả trợ cấp BHXH hàng tháng
cho thân nhân của người lao động, người đang nghỉ hưu khi họ không may qua
đời .
Nguồn chi thứ hai trong quỹ BHXH đó là chi phí dự trữ, thực chất đây là
quá trình tích luỹ lâu dài trong qúa trình sử dụng quỹ BHXH. định kỳ hàng
tháng, quý, năm cơ quan BHXH giữi hay trích lại một phần quỹ BHXH của

mình để thành lập nên quỹ dự phòng, dự trữ BHXH. Quỹ này chỉ được sử
dụng trong những trường hợp khi nhu cầu chi trả quá lớn dẫn đến thâm hụt quỹ
BHXH như trong lúc đồng tiền mất giá và do hội đồng quản lý quyết định.
II. Quản lý thu quỹ BHXH
1. Khái niệm
Quản lý thu BHXH là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản lý để
điều chỉnh các hoạt động thu BHXH. Sự tác động đó được thực hiện bởi hệ
thống các biện pháp hành chính, kinh tế và pháp luật nhằm đạt được mục đích
thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và không để thất thu tiền đóng BHXH theo quy
định của pháp luật về BHXH. (giáo trình quản trị BHXH trường ĐH LĐ - XH
trang 79).
2. Vai trò
Công tác quản lý thu có vai trò chủ yếu sau đây:
 Nắm chắc được các nguồn thu bảo hiểm xã hội.
- Nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định tại luật bảo hiểm xã
hội hiện hành gồm:
14
- Nguồn đóng bảo hiểm xã hội của người lao động tham gia bảo hiểm xã
hội.
- Nguồn đóng bảo hiểm xã hội của chủ sử dụng lao động.
- Tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư tăng trưởng.
- Nguồn hỗ trợ của nhà nước.
- Các nguồn khác: Viện trợ, quà biếu, quà tặng… của các tổ chức và cá
nhân trong nước và ngoài nước.
 Tăng thu, bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.
Thu bảo hiểm xã hội có vai trò rất lớn trong việc cân đối quỹ. Hơn thế
nữa, thu bảo hiểm xã hội còn có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của hệ thống bảo hiểm xã hội. Để tăng thu, có nhiều biện pháp trong đó có một
số biện pháp chính sau đây:
Tăng số người tham gia đóng bảo hiểm xã hội đây là biện pháp có tính

chất quyết định. Trong điều kiện kinh tế nước ta chưa phát triển, chúng ta chưa
thể tăng nhanh mức đóng bảo hiểm xã hội mà phải tăng từ từ. Từ thực tế đó
việc tăng số người tham gia đóng bảo hiểm xã hội càng có ý nghĩa thực tế và
có tính chất quyết định trong việc cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.
Thu đúng đối tượng, thu đủ số lượng và đảm bảo thu đúng thời gian quy
định. Nội dung này chỉ có thể đạt được trên cơ sở tăng cường các biện pháp
quản lý hành chính, tổ chức thu khoa học kết hợp với các biện pháp kinh tế.
Thu đúng đối tượng là phải căn cứ vào những quy định trong luật bảo hiểm xã
hội. Hiện nay theo quy định trong luật bảo hiểm xã hội, đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội có hai loại: Bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự
nguyện. Nhiều doanh nghiệp với các lý do khác nhau (chủ quan hoặc khách
quan) đã kê khai danh sách đóng bảo hiểm xã hội ít hơn số lao động đủ điều
kiện tham gia bảo hiểm xã hội theo luật định. Tình trạng này xảy ra phổ biến ở
các địa phương, đặc biệt là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đã ảnh hưởng
đến quyền lợi người lao động và ảnh hưởng đến nguồn thu của quỹ bảo hiểm
xã hội.
Thu đủ số lượng và thu đúng thời gian quy định cũng như phụ thuộc vào
công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội. Trên thực tế có rất nhiều đơn vị nộp bảo
hiểm xã hội không đủ số lượng theo quy định hàng tháng. Tình trạng trốn tránh
nộp bảo hiểm xã hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội còn xảy ra ở nhiều đơn vị. Vì
vậy phải bằng các biện pháp hành chính cứng rắn, phạt tiền đối với các đơn vị
15
cố tình nợ, không nộp bảo hiểm xã hội đúng hạn. Có như vậy công tác quản lý
mới đem lại hiệu quả.
 Bảo đảm quyền lợi tham gia bảo hiểm xã hội.
Vai trò này của công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội được thể hiện trên
hai nội dung:.
- Thứ nhất: Bảo vệ quyền lợi của người lao động trong các đơn vị
được tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là quyền lợi chính đáng và hợp pháp của
người lao động. Nhưng vì các đơn vị phải đóng bảo hiểm xã hội 2/3; còn người

lao động đóng 1/3 nên nhiều đơn vị không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao
động, ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động. Nếu tăng cường công tác quản
lý thu, phát hiện các trường hợp trốn tránh nộp bảo hiểm xã hội cho người lao
động, từ đó có biện pháp bắt các đơn vị phải nộp bảo hiểm xã hội đầy đủ cho
người lao động, sẽ đảm bảo quyền lợi của người lao động.
- Thứ hai: Khi quỹ bảo hiểm xã hội được cân đối, điều đó cũng có
nghĩa là quỹ luôn luôn có đủ nguồn lực để chi trả trợ cấp cho các chế độ bảo
hiểm xã hội. Người tham gia bảo hiểm xã hội khi bị rủi ro, khi hết tuổi lao
động… được bảo hiểm xã hội trợ cấp kịp thời, góp phần ổn định cuộc sống của
người lao động và gia đình họ.
 Đầu tư quỹ BHXH
Ở tầm vĩ mô, vai trò quản lý thu còn được thể hiện khi số thu lớn hơn số
chi, quỹ bảo hiểm xã hội được Chính phủ cho phép thực hiện các biện pháp đầu
tư tăng trưởng, cung ứng lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trên thị trường tài chính,
để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mang lại hiệu quả kinh tế xã
hội.
3. Nội dung quản lý thu quỹ BHXH
3.1. Theo quy trình quản lý thu
3.1.1. Phân cấp quản lý thu trong hệ thống BHXH Việt Nam
- BHXH Việt Nam: chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra tình hình thực
hiện công tác quản lý thu, cấp sổ BHXH trong toàn ngành . Xác định mức lãi
suất bình quân trong năm để hoạt động đầu tư quỹ BHXH và thông báo cho
BHXH tỉnh.
- BHXH tỉnh :
16
+ Căn cứ tình hình thực hiện của địa phương để phân cấp quản lý thu
BHXH cho phù hợp với chức năng nhiệm vụ.
+ Xây dựng, quản lý dữ liệu liên quan đến người lao động tham gia
BHXH trên địa bàn tỉnh.
+ Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện công

tác thu cấp sổ BHXH theo phân cấp quản lý và quyết toán số tiền thu BHXH
huyện theo định kỳ và lập biên bản thẩm định số liệu thu BHXH.
- BHXH huyện : tổ chức thực hiện thu BHXH, cấp sổ BHXH đối
với người sử dụng lao động theo phân cấp quản lý.
- BHXH bộ Quốc Phòng, bộ Công An, ban Cơ Yếu chính phủ trực
tiếp thu BHXH, cấp sổ BHXH đối với người lao động làm việc trong bộ này.
Xây dựng kế hoạch thu và báo cáo quyết toán thu BHXH, cấp sổ BHXH hàng
năm với cơ quan BHXH Việt Nam.
3.1.2. Lập và giao kế hoạch thu hàng năm
+ BHXH huyện: căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả năng mở
rộng người lao động tham gia BHXH trên địa bàn huyện lập kế hoạch thu
BHXH cho năm sau theo mẫu số 13 – TBH.
+ BHXH tỉnh:
- Lập dự toán thu BHXH đối với người sử dụng lao động do tỉnh
quản lý đồng thời tổng hợp toàn tỉnh, lập kế hoạch thu BHXH cho năm sau.
- Căn cứ dự toán thu BHXH Việt Nam tiến hành phân bổ dự toán
thu BHXH cho các đơn vị thuộc tỉnh và BHXH huyện trước ngày 20/01 hàng
tháng.
+ BHXH Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, Bộ Cơ Yếu chính phủ: lập kế
hoạch thu BHXH gửi BHXH Việt Nam trước ngày 15/11 hàng năm.
+ BHXH Việt Nam: căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch năm trước và
khả năng tăng lao động năm sau của các địa phương, tổng hợp, lập và giao dự
toán thu BHXH cho BHXH tỉnh và BHXH Bộ Quốc Phòng,Bộ Công An, ban
Cơ Yếu chính phủ trước 10/01 hàng năm.
3.1.3. Tổ chức thu
 Mức thu BHXH.
Mức đóng BHXH ( bắt buộc và tự nguyện) thực hiện theo quy định tại
luật BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật
BHXH.
17

Hàng tháng người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công
đóng BHXH của người lao động là:
+ 3% vào quỹ ốm đau, thai sản trong đó người sử dụng lao động giữ 2%
để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản
theo quy định của pháp luật và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức
BHXH.
+ 1% vào quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp.
+ 12% vào quỹ hưu trí tử tuất và từ năm 2010 trở đi thì cứ 2 năm một lần
đóng thêm 1% cho đến khi đạt 14% vào tháng 01/2014 thì dừng lại.
Đối với người lao động hàng tháng sẽ đóng bằng 6% mức tiền lương,
tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất. Từ năm 2010 trở đi cứ 2 năm tăng một lần
đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng 8% vào tháng 01/2014 thì không tăng
nữa.
 Căn cứ thu BHXH
- Người lao động thuộc đối tượng thực hiện theo chế độ tiền lương
do nhà nước quy định :TL, TC tháng đóng BHXH là tiền lương theo ngạch,
bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt
khung, phụ cấp thâm niên nghề(nếu có). Mức TL, TC tháng đóng BHXH được
tính trên mức tiền lương tối thiểu chung tai thời điểm đóng.
- Người lao động thuộc đối tượng thực hiện theo chế độ tiền lương
do người sử dụng lao động quy định. TL,TC tháng đóng BHXH là mức TL,TC
ghi trong hợp đồng lao động, nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu chung
tại thời điểm đóng.
- Trường hợp người lao động có TL, TC ghi trong hợp đồng lao
động bằng ngoại tệ thì TL,TC tháng đóng BHXH được tính bằng đồng Việt
Nam trên cơ sở TL, TC bằng ngoại tệ được chuyển sang đồng Việt Nam theo tỷ
giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
- Đối với những người tham gia BHXH tự nguyện thì căn cứ đóng
BHXH là mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện mà người tham gia
lựa chọn

 Phương thức thu BHXH
Hàng tháng, chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng, người sử dụng lao
động đóng BHXH trên quỹ TL, TC của những người tham gia BHXH, đồng
thời trích từ TL, TC tháng của từng người lao động theo mức quy định để đóng
18
cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại Ngân hàng
hoặc Kho bạc Nhà nước.
Hàng tháng, NSDLĐ được giữ lại 2% số phải nộp vào quỹ ốm đau, thai
sản để chi trả kịp thời 2 chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động. Hàng quý
thực hiện quyết toán với cơ quan BHXH, trường hợp tổng số tiền quyết toán
nhỏ hơn số tiền giữ lại thì người sử dụng LĐ phải nộp số chênh lệch này vào
tháng đầu quý sau.
Hiện nay, BHXH Việt Nam đang áp dụng hai hình thức thu BHXH, đó
là:
- Một là, thu gián tiếp tức là thu qua tài khoản. Với hình thức này
thì hàng tháng các đơn vị SDLĐ nộp tiền vào tài khoản thu của BHXH Việt
Nam mởi tại ngân hàng Nông nghiệp và pháp triển nông thôn. Đây là hình thức
thu chủ yếu của BHXH Việt Nam.
- Hai là, hình thức thu trực tiếp đó là thu bằng tiền mặt. Hình thức
này chủ yếu được áp dụng đối với BHXH tự nguyện. Từ 1-1-2008 nếu thực
hiện loại hình BHXH tự nguyện thì cũng có thể phải áp dụng hình thức thu
bằng tiền mặt của các đối tượng này.
Nhưng dù thu qua tài khoản hay thu bằng tiền mặt thì tất cả mọi nguồn
thu đều được tập trung vào tài khoản thu của BHXH Việt nam. Các địa phương
không được lấy thu BHXH của địa phương mình để tự trang trải các khoản chi
phí, số còn lại mới nộp vào tài khoản của BHXH Việt nam.
3.1.4. Quản lý tiền thu
- BHXH tỉnh và BHXH huyện không được sử dụng tiền thu BHXH
vào bất cứ mục đích gì.
- Hàng quý, BHXH tỉnh và BHXH huyện có trách nhiệm quyết toán

số tiền 2% đơn vị giữ lại, xác định số tiền chênh lệch thừa, thiếu.
- BHXH Việt Nam thẩm định số thu BHXH định kỳ 6 tháng hoặc
hàng năm đối với BHXH tỉnh, BHXH thuộc Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, ban
Cơ Yếu chính phủ.
3.1.5. Thông tin báo cáo thu
- BHXH tỉnh, huyện mở sổ chi tiết thu BHXH, thực hiện ghi sổ
BHXH theo hướng dẫn sử dụng biểu mẫu.
- BHXH tỉnh, huyện thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu BHXH
định kỳ tháng, quý, năm.
19
+ BHXH huyện báo cáo trước ngày 22 hàng tháng, báo có quý trước
ngày 20 tháng đầu của quý sau.
+ BHXH tỉnh báo cáo trước ngày 25 hàng tháng, báo cáo quý trước
ngày cuối tháng của tháng đầu quý sau.
+ BHXH Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, Ban Cơ Yếu chính phủ thực
hiện báo cáo thu BHXH 6 tháng đầu năm trước ngày 30/7 và báo cáo năm
trước ngày 15/2 năm sau.
3.2.Thu theo các khối:
Công tác thu BHXH tại BHXH chủ yếu ở các khối như sau:
- Khối các cơ quan hành chính sự nghiệp;
- Khối Doanh nghiệp nhà nước;
- Khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
- Khối cán bộ xã, thị trấn;
- Khối sự nghiệp giáo dục;
- Khối ytế;…
4.Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu BHXH:
 Sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước: tác động không nhỏ
đến công tác thu. Nếu kinh tế suy thoái sẽ khiến các doanh nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn. Nhiều doanh nghiệp đã phải thu hẹp quy mô, động tới công tác thu
BHXH. Rõ ràng nếu như với một chính sách tiền lương tốt thì người lao động

sẽ không ngại ngần đóng BHXH theo tỉ lệ trích, nhưng khi cuộc sống chưa
được đảm bảo thì họ sẽ nghĩ tới việc tham gia BHXH. Bên cạnh đó còn có các
chính sách khác của chính phủ, như chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình, chính sách việc làm,
 Hệ thống pháp luật : Hệ thống pháp luật là một yếu tố quan trọng
trong công tác quản lý thu BHXH. Nếu các văn bản luật không chặt chẽ thì sẽ
có nhiều kẽ hở để các doanh nghiệp dựa vào những kẻ hở đó để lách luật, trốn
tránh trách nhiệm đóng BHXH cho người lao đông. Nếu các văn bản luật chặt
chẽ thì các doanh nghiệp không thể trốn đóng tiền bảo hiểm, sẽ phải tham gia
và không còn tình trạng nợ đọng quỹ nữa. Công tác quản lý thu cũng dễ dàng
hơn
 Nhận thức của người lao động : Khi người lao động hiểu được
bản chất, mục đích, nội dung, các chế độ…của BHXH họ biết được sư cần thiết
20
khi tham gia BHXH như thế nào. Lúc đó họ sẽ thúc dục người sử dụng lao
động phải tham gia đóng góp BHXH cho mình, dẫn đến công tác quản lý cung
sẽ dễ dàng hơn.
 Nhận thức của người sử dụng lao động: Phải cho họ biết lợi ích
khi họ tham gia BHXH cho người lao động của họ là sẽ thu hút được người lao
động đến làm việc, tạo tâm lý yên tâm cho người lao động khi làm việc, hiệu
quả làm việc cũng sẽ cao hơn, mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp…
Họ biết được những lợi ích đó thì họ sẽ chủ động tham gia vào BHXH cho
người lao động. điều này ảnh hưởng đến công tác quản lý cửa các nhà hoạch
định.
 Trình độ của cán bộ quản lý: Trình độ của cán bộ là một yếu tố
ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý. Nếu một người dù có nhiệt tình với công
việc của mình đến đâu nhưng trình độ, năng lực làm việc kém thì cũng không
thể quản lý tốt được. Nếu có năng lực trình độ làm việc thì công việc quản lý sẽ
dễ dàng hơn, không tốn nhiều thời gian, tiết kiệm chi phí quản lý… Mặt khác
nghiệp vụ quản lý thu BHXH là một nghiệp vụ khó công việc đòi hỏi những

người phải có năng lực, trình độ hiểu biết sâu về nghiệp vụ này.
21
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH Ở BHXH
HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN
I. Giới thiệu chung về BHXH huyện Yên Thành
1. Lịch sử hình thành của BHXH huyện Yên Thành
Bảo hiểm xã hội (BHXH) huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An được thành
lập theo quyết định số 03/BHXH- TCCB ngày 01/07/1995 của tổng giám đốc
BHXH Việt Nam. Chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01/10/1995
BHXH Yên Thành đựơc tách từ phòng lao động thuơng binh xã hội và
liên đoàn lao động huyện Yên Thành , tỉnh nghệ an. Khi đó, với 7 cán bộ công
nhân viên, đựơc chia làm 4 bộ phận:
- Bộ phận quản lý thu.
- Bộ phận quản lý chế độ chính sách.
- Bộ phận kế hoạch tài chính.
- Bộ phận hồ sơ kho quỹ.
Trong đó cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu thốn.
Hoạt động chính của đơn vị là thu bảo hiểm xã hội, chi trả lương huư và
trợ cấp bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện.
Đến năm 2003, Bảo hiểm y tế được sát nhập vào đơn vị nên có thêm bộ
phận giám định bảo hiểm y tế. Lúc này thì có thêm hoạt động thu bảo hiểm y
tế, phát hành thẻ, giám định và chi trả chế độ bảo hiểm y tế.
Năm 2010, bảo hiểm xã hội nông dân tỉnh Nghệ An đựơc sát nhập vào
nên có thêm hoạt động chi trả chế độ, thu bảo hiểm xã hội tự nguyện. Hiện nay,
đơn vị có 15 cán bộ công nhân viên.
Cán bộ có trình độ đại học 5 người, trình độ cao đẳng 1 người, trung cấp
9 người, nhìn chung chất lượng, trình độ của cán bộ không đồng đều , hầu hết
đều mới tuyển dụng và được thuyên chuyển từ ngành khác đến nên hiểu biết về
chế độ, chính sách của đảng và nhà nước còn nhiều lúng túng.

2. Chức năng và nhiệm vụ của BHXH huyện Yên Thành
+ Vị trí chức năng của Bảo hiểm xã hội huyện :
Bảo hiểm xã hội (BHXH) huyện Yên thành là cơ quan trực thuộc BHXH
tỉnh Nghệ An trụ sở đặt tại huyện Yên thành, có chức năng giúp giám đốc
BHXH tỉnh tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT; quản lý thu,
22
chi BHXH, BHYT trên địa bàn huyện theo phân cấp quản lý của BHXH Việt
Nam và quy định của pháp luật.
BHXH huyện Yên Thành chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của giám
đốc BHXH tỉnh Nghệ An và chịu sự quản lý hành chính nhà nước của UBND
huyện Yên Thành.
BHXH huyện Yên Thành có tư cách pháp nhân đầy đủ, có con dấu, tài
khoản và trụ sở riêng tại khối 1, Thị trấn, Yên Thành.
+ Nhiệm vụ quyền hạn của Bảo hiểm xã hội
- Xây dựng, trình giám đốc BHXH tỉnh kế hoạch phát triển BHXH
huyện dài hạn, ngắn hạn và chương trình công tác hàng năm; tổ chức thực hiện
kế họach, chương trình sau khi được phê duyệt.
- Tổ chức thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế
độ, chính sách, pháp luật về BHXH,BHYT; tổ chức khai thác, đăng ký, quản lý
các đối tượng tham gia và hưởng chế độ BHXH, BHYT theo phân cấp.
- Tổ chức cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho những người tham gia bảo hiểm
theo phân cấp.
- Tổ chức thu các khoản đúng BHXH, BHYT đối với các tổ chức và cá
nhân theo phân cấp.
- Hướng dẫn về tổ chức tiếp nhận hồ sơ, giải quyết các chế độ
BHXH,BHYT theo phân cấp.
- Tổ chức chi trả các chế độ BHXH, BHYT theo phân cấp; từ chối việc
đúng hoặc chi trả các chế độ BHXH, BHYT không đúng quy định.
- Quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí về tài sản theo phân cấp.
- Tổ chức ký hợp đồng với các cơ sở, chữa bệnh có đủ điều kiện, tiêu

chuẩn chuyên môn, kỹ thuật theo phân cấp; giám sát thực hiện hợp đồng và
giám sát việc cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh, bảo vệ quyền lợi người có thẻ
BHYT và chống lạm dụng quỹ BHYT.
- Tổ chức ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân làm đại lý do UBND xã,
phường thị trấn giới thiệu và bảo lãnh để thực hiện chế độ chính sách
BHXH,BHYT ở xã, phường, thị trấn theo chỉ đạo, hướng dẫn của BHXH tỉnh.
- Kiểm tra, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện
chế độ, chính sách BHXH, BHYT đối với các tổ chức, cá nhân tham gia bảo
hiểm, cơ sở khám chữa bệnh BHYT theo quy định của pháp luật.
23
- Tổ chức thực hiện chương trình, kế họach cải cách hành chính theo chỉ
đạo, hướng dẫn của BHXH tỉnh; tổ chức bộ phận tiếp nhận, trả kết quả giải
quyết chế độ BHXH, BHXH theo cơ chế “một cửa” tại cơ quan BHXH huyện.
- Tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ BHXH,BHYT cho các tổ chức và cá
nhân tham gia BHXH.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã
hội ở huyện, với các tổ chức, cá nhân tham gia BHXH,BHYT để giải quyết các
vấn đề có liên quan đến việc thực hiện các chế độ BHXH, BHYT theo quy định
của pháp luật.
- Đề xuất, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm
tra các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện BHXH,BHYT.
- Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin việc đúng, quyền được hưởng
các chế độ bảo hiểm, thủ tục thực hiện BHXH, BHYT khi tổ chức, cá nhân
tham gia bảo hiểm hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu. Cung cấp đầy đủ và kịp
thời tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
3. Cơ cấu tổ chức của BHXH huyện Yên Thành
Cơ cấu tổ chức của đơn vị gồm:
 Giám đốc : Nguyễn Hoàng Kiên
- Do bảo hiểm xã hội tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm.

Giám đốc
Phó giám đốc
Bộ phận
quản lý
thu
Bộ phận
quản lý chế
độ chính
sách
Bộ phận kế
hoạch tài
chính
Bộ phận
hồ sơ kho
quỹ
Bộ phận
giám
định chi
BH y tế
24
- Chịu trách nhiệm:
 Là người đứng đầu đơn vị , trực tiếp lãnh đạo, quản lý bộ máy.
 Chỉ đạo trực tiếp các bộ phận.
 Khi vắng mặt uỷ quyền giao cho phó giám đốc chỉ đạo điều
hành.
 Phó giám đốc : Hoàng Thị Chín
- Chịu trách nhiệm :
 Là người giúp việc cho giám đốc về mọi lĩnh vực với chức năng
và quyền hạn do giám đốc uỷ quyền.
 Giải quyết mọi công việc khi giám đốc đi vắng nếu được sự uỷ

quyền của giám đốc.
 Bộ phận quản lý thu
- Chức năng, nhiệm vụ
 Xây dựng kế hoạch thu Bảo hiểm xã hội theo tháng, quí , năm.
 Thực hiện thu Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
của đơn vị sử dụng lao động , thu Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo quy định của
Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế .
 Thực hiện việc cấp sổ, ghi xác nhận quá trình tham gia Bảo hiểm xã
hội, Bảo hiểm thất nghiệp.
 In phiếu khám chữa bệnh bảo hiểm y tế đối với từng người lao động.
 Theo dõi quá trình biến động tăng giảm lao động quỹ tiền lương
tham gia BHXH, BHYT, BHTN.
 Xác nhận quá trình tham gia BHXH cho người lao động khi di
chuyển, giải quyết chế độ BHXH, BHTN.
 Đôn đốc và thực hiện việc thu nộp BHXH, BHYT tự nguyện dân,
BHYT tự nguyện học sinh .
 Hàng tháng tiến hành đối chiếu quyết toán và thông báo tình hình thu
nộp BHXH, BHYT, BHTN cho đơn vị sử dụng lao động.
 Bộ phận kế hoạch tài chính
Chức năng, nhiệm vụ
 Xây dựng kế hoạch chi BHXH hàng tháng.
 Tổ chức làm nguồn thực hiện công tác chi trả lương hưu và trợ cấp
Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp an toàn, đầy đủ, đến tận tay đối tượng
của 39 xã, thị trấn.
25

×