Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Tình hình triển khai nghiệp vụ Tái Bảo hiểm kỹ thuật tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO giai đoạn 2005-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.13 KB, 77 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm là một lĩnh vực ngành nghề đang rất phát triển trên thế giới hiện
nay, bảo hiểm mang lại sự an tâm cho người sử dụng và nguồn lợi nhuận dồi dào
cho đất nước. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, kinh tế thị trường đã tạo điều kiện
cho thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ.
Cùng với sự lớn mạnh chung của toàn ngành bảo hiểm và sự phát triển thần
tốc của của khoa học kỹ thuật, bảo hiểm kỹ thuật đã không ngừng lớn mạnh và
ngày càng chứng tỏ rõ vai trò quan trọng đối với quá trình hội nhập toàn cầu hóa.
Để phát huy được vai trò của bảo hiểm kĩ thuật không thể không nhắc tới hoạt động
tái bảo hiểm kĩ thuật . Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật lại thường có
giá trị rất lớn. Chính vì vậy tái bảo hiểm là hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cho
các nhà bảo hiểm có thể triển khai nghiệp vụ một cách có hiệu quả. Qua những
phân tích trên khiến em quyết định chọn đề tài : Tình hình triển khai nghiệp vụ
Tái Bảo hiểm kỹ thuật tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO giai đoạn 2005-2009
để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp
Cấu trúc của bài viết gồm 3 phần
1) Khái quát chung về nghiệp vụ tái bảo hiểm kĩ thuật
2) Thực trạng triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm kĩ thuật tại công ty cổ
phần bảo hiểm PJICO giai đoạn 2005-2010
3) Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ tái bảo hiểm kĩ thuật tại
PJICO
Trong quá trình thực tập và viết bài em đã rất cố gắng hoàn thành đề tài , tuy
nhiên chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót không thể tránh khỏi. Do đó em rất mong
nhận được sự góp ý sửa chữa của các thầy cô, các anh chị tại nơi thực tập để em có
thể hoàn thành tốt bài viết
Em xin trân trọng cảm ơn
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ
TÁI BẢO HIỂM KĨ THUẬT
1.1 Sự cần thiết và vai trò của Tái Bảo Hiểm Kĩ Thuật
1.1.1-Sự cần thiết
Trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và trong nghiệp
vụ bảo hiểm kĩ thuật nói riêng , luôn tồn tại nguy cơ rủi ro phá sản mà công ty bảo
hiểm phải đối mặt . Thứ nhất đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật có giá trị
rất lớn và có xu hướng ngày càng gia tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau: do sự
khan hiếm nguyên vật liệu ngày càng gia tăng, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật v.v
Với số tiền bảo hiểm lớn như vậy nếu sự cố xảy ra thì trách nhiệm bồi thường của
người bảo hiểm rất lớn có thể ảnh hưởng đến toàn bộ kết quả nghiệp vụ. Mặt khác
các tổn thất xảy ra cũng ngày càng lớn do sự tập trung, tích tụ trong bảo hiểm kỹ
thuật ngày càng cao.
Thứ hai các rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật khác nhau đáng kể
về qui mô, đặc biệt trong bảo hiểm CAR và EAR. Thêm vào đó sự phân tán rủi ro
thấp vì số lượng rủi ro tương đối ít. Đặc điểm này đe doạ đến tính đồng nhất của rủi
ro - một yêu cầu cơ bản của bảo hiểm và khiến cho việc định phí hết sức phức tạp.
Trong bảo hiểm kỹ thuật, ngày càng xuất hiện nhiều rủi ro mới, đặc biệt ở
các nước đang phát triển do sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Mặt khác sự phát
triển nhanh chóng của khoa học kỹ thụật tác động mạnh tới các loại rủi ro làm xuất
hiện những nguy cơ mới. Những yếu tố đó gây ra rất nhiều khó khăn trong việc
định phí bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm tìm đến tái bảo hiểm khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kỹ
thuật để chia sẻ rủi ro và nhận được sự tư vấn giúp đỡ của người nhận tái về kỹ
thuật và nghiệp vụ. Chỉ có những công ty tái bảo hiểm với phạm vi hoạt động rộng,
có đội ngũ chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm mới có thể giúp cho các công ty
bảo hiểm gốc triển khai nghiệp vụ an toàn và có hiệu quả.
Sự cần thiết của tái bảo hiểm kỹ thuật còn được thể hiện ở những tác dụng to
lớn của tái bảo hiểm kỹ thuật. Đó là:
+ Tăng khả năng kí kết của công ty bảo hiểm. Nhờ có các hợp đồng tái bảo

hiểm khả năng kí kết của công ty bảo hiểm gốc được tăng lên bởi phần trách nhiệm
được chấp thuận từ công ty nhận tái bảo hiểm. Có thể nói tái bảo hiểm giúp các
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
công ty bảo hiểm với một khả năng tài chính hạn chế có thể linh hoạt chủ động hơn
trong việc chấp thuận bảo hiểm cho các đối tượng có giá trị lớn, đáp ứng sự đa dạng
trong nhu cầu bảo hiểm kỹ thuật.
+ Ổn định tình hình tài chính của công ty bảo hiểm. Người nhận tái bảo hiểm
với tư cách là người bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm sẽ cùng chia sẻ tổn thất với
công ty bảo hiểm trong trường hợp sự cố xảy ra gây tổn thất lớn nhờ vậy góp phần
ổn định tình hình tài chính của công ty bảo hiểm gốc
+ Giúp sửa chữa tính bất thường, biến động của rủi ro.
+ Giúp các công ty bảo hiểm mới triển khai nghiệp vụ ổn định và phát triển
qua việc tăng cường năng lực bảo hiểm của công ty bảo hiểm và tư vấn giúp đỡ về
kỹ thuật nghiệp vụ cho công ty
+ Tư vấn về nghiệp vụ và kỹ thuật. Đây là một chức năng hết sức quan trọng
của tái bảo hiểm kỹ thuật bởi vì các công ty tái bảo hiểm có bộ phận chuyên môn về
bảo hiểm kỹ thuật với những chuyên gia có trình độ rất cao về kỹ thuật cũng như
nghiệp vụ có thể tư vấn cho các công ty bảo hiểm gốc trong việc đánh giá quản lý
rủi ro và định phí.
Do vậy để có thể yên tâm kinh doanh nhưng vẫn muốn có được các hợp
đồng bảo hiểm có giá trị bảo hiểm lớn, phòng ngừa phá sản, các công ty bảo hiểm
đã liên kết với nhau để phân tán bớt rủi ro mà mình gặp phải trong hợp đồng bảo
hiểm gốc. Và biện pháp thường được sử dụng cùng với đồng bảo hiểm đó là tái bảo
hiểm. Nghiệp vụ tái bảo hiểm đã xuất hiện trong các công ty bảo hiểm ; bao gồm
công tác nhận nhượng tái bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu cho các công ty bảo
hiểm và đảm bảo cho người tham gia bảo hiểm.
“Tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà nhà BH này gánh chiu

cho nhà BH khác.Tái bảo hiểm là sự bảo hiểm lại. Bản chất của phương pháp này là
san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính giữa các nhà BH với nhau nhằm góp phần làm cho
ngành BH phát triển nhanh chóng ở mọi lúc mọi nơi”
Trong Tái BH , công ty nhận BH cho khách hàng gọi là công ty BH gốc, các
công ty còn lại gọi là các nhà tái BH. Công ty bảo hiểm gốc (hay công ty nhượng tái
bảo hiểm) nhận bảo hiểm cho người tham gia, sau đó chuyển giao một phần rủi ro
đã nhận bảo hiểm cho các công ty nhận tái bảo hiểm (hay nhà tái bảo hiểm). Khi tổn
thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc phải bồi thường cho
người được bảo hiểm trên cơ sở khả năng tài chính của mình, sau đó đòi lại phần
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trách nhiệm từ công ty nhận tái bảo hiểm. Và người được bảo hiểm không có quan
hệ trực tiếp với công ty nhận tái bảo hiểm.
Có thể dễ dàng thấy rằng chính sự phát triển nhanh của BHKT từ khi ra đời
đến nay. Các tòa nhà chọc trời từ đâu mà có…, các công trình kĩ thuật kì vĩ trên thế
giới có thể có thể được xây dựng hay không nếu ta nhắc thiếu đến vai trò của bảo
hiểm kĩ thuật gốc và tái bảo hiểm.
Vài nét về lịch sử ngành bảo hiểm
Bảo hiểm kỹ thuật (BHKT) là loại hình bảo hiểm sinh sau đẻ muộn hơn
nhiều so với các loại hình bảo hiểm truyền thống khác như bảo hiểm hàng hải
(1667), bảo hiểm cháy (1687).
Bảo hiểm kỹ thuật bắt đầu ở nước Anh công nghiệp vào giữa thế kỷ 19, vào
lúc các đơn bảo hiểm cháy tương đối phổ biến thì một hiểm hoạ có tính chất huỷ
diệt tương tự khác đã gây thiệt hại cho nhà máy bông ở Lancashire, đó là vụ nổ nồi
hơi. Không những vụ nổ này gây ra thiệt hại có tính chất tàn phá và thiệt hại về
người, mà sự gián đoạn sản xuất sau đó đã làm nhiều doanh nghiệp có liên quan bị
phá sản.
Tại sao các vụ nổ có tính chất thảm hoạ này lại thường xảy ra như vậy? Rõ

ràng, có thể đổ lỗi phần nào cho những sai sót trong thiết kế do thiếu kinh nghiệm
đối với công nghệ mới này. Nhưng, thông thường hơn, còn có rủi ro đạo đức; sử
dụng nồi hơi quá mức bình thường, bất cẩn, hoặc những tập quán làm việc nguy
hiểm với ý định nâng cao hiệu suất hoạt động của nồi hơi và mức độ sản xuất. Rõ
ràng, những người chủ của nhà máy đã phải làm một việc gì đó.
Trong thực tế, họ đã làm theo một hình thức quản lý rủi ro sơ khai bằng cách
cùng phối hợp kinh nghiệm và kiến thức sản xuất của họ. Các kỹ sư lành nghề,
được lựa chọn từ nhiều nhà máy, đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ thường xuyên
kiểm tra tất cả các nồi hơi thuộc sở hữu của các bên tham gia, cung cấp ý kiến tư
vấn về vận hành và bảo dưỡng. Sự hợp tác tương hỗ này là nhằm không cho bất kỳ
bên nào có được lợi thế thương mại. Thực tế, khái niệm này có sức mạnh đến mức
các tổ chức này sẵn sàng nhận cấp đơn bảo hiểm Nổ nồi hơi (BE) cho các nồi hơi đã
được kiểm tra để bồi thường thiệt hại của nồi hơi do nổ, bồi thường thiệt hại tài sản
xung quanh, cũng như bồi thường cho các bên thứ ba trong trường hợp chết, bị
thương và thiệt hại tài sản. Và vì thế, năm 1858, công ty bảo hiểm đầu tiên trong số
các công ty bảo hiểm chuyên ngành này, Công ty Bảo hiểm Nồi hơi (The Steam
Boiler Assurance Company), đã được thành lập.
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo hiểm Đổ vỡ Máy móc cũng dần dần được đưa ra thị trường và đầu thế
kỷ 20, đơn bảo hiểm Mất lợi nhuận đầu tiên (tiếp theo bảo hiểm Đổ vỡ Máy móc)
cũng đã được tung ra thị trường.
Đơn bảo hiểm Mọi rủi ro Xây dựng (CAR) đầu tiên được cấp năm 1929 để
bảo hiểm cho việc xây dựng cầu Lamberth bắc qua sông Thames, và sau đó chẳng
bao lâu là đơn bảo hiểm Mọi rủi ro Lắp đặt (EAR). Tuy nhiên, cả hai đơn bảo hiểm
này chỉ giành được vị trí quan trọng trong giai đoạn xây dựng sau chiến tranh sau
năm 1945 và công cuộc phát triển sau đó trên thế giới của các nền kinh tế đang nổi
lên.

Sự phát triển thương mại và công nghệ sau đó đã thúc đẩy việc đưa ra các
phạm vi bảo hiểm mới, phức tạp; các đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất như là bảo
hiểm Máy tính (EDP), bảo hiểm thiết bị điện tử điện áp thấp (LVEE), bảo hiểm
Máy móc và Thiết bị xây dựng (CPE), và bảo hiểm Rủi ro đối với công trình xây
dựng dân dụng đã hoàn thành (CECR) đã xuất hiện, và còn thêm cả các đơn bảo
hiểm Gián đoạn kinh doanh/tài chính như là bảo hiểm Hư hỏng hàng hoá trong kho
(DOS) và Bảo hiểm Mất lợi nhuận dự tính (ALOP).
Như vậy BHKT ra đời gắn liền với sự xuất hiện của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật và cũng chính sự phát triển của khoa học kỹ thuật là động lực thúc đẩy
sự lớn mạnh không ngừng của loại hình bảo hiểm này.Qua đó có thể hiểu tại sao
cần có tái bảo hiểm kĩ thuật
1.1.2-Vai trò của Tái bảo hiểm kĩ thuật
Vai trò tái bảo hiểm nói chung
-Giúp các công ty BH gốc nâng cao được khả năng khai thác bảo hiểm thuộc
nghiệp vụ BH kĩ thuật. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với các công ty BH nhỏ,
mới thành lập. Có ý nghĩa đặc biệt trong điều kiện tiên bộ thời đại ngày nay
-Nâng cao uy tín cho các công ty BH gốc
-Công ty BH gốc còn được nhận một khoản hoa hồng nhất định từ các nhà
tái BH nên lại có ý nghĩa với các công ty mới thành lập nhỏ.
-Tái BH ra đời còn thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại đất nước. Giúp
ngành BH trong nước ngày càng vươn cao và xa hơn ra thị trường thế giới. Vấn đề
này không phải ngành nào cũng có thể làm được
Chính vì 4 vai trò nói trên mà các Công ty BH trên thế giới luôn luôn coi
TBH là “xương sống” của tất cả các Công ty bảo hiểm
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Vai trò của tái bảo hiểm kĩ thuật
Theo một định nghĩa tương đối phổ dụng trong những người làm kỹ thuật thì:

lĩnh vực kỹ thuật là lĩnh vực mà trong đó các quá trình hoạt động, thực hiện các chức
năng được tiến hành với sự tham gia của các kỹ sư và nó bao gồm các ứng dụng của
khoa học cũng như tính toán mà trên cơ sở đó của cải vật chất cũng như các nguồn
năng lượng tự nhiên được sử dụng để tạo ra các cấu trúc nhà cửa, máy móc, các sản
phẩm hệ thống, quá trình công nghệ phục vụ cho lợi ích của con người.
Bảo hiểm về kỹ thuật có thể hiểu hẹp là cách thức mà các nhà bảo hiểm sử
dụng một tập hợp các điều khoản, điều kiện để xây dựng nên nhiều loại đơn bảo
hiểm khác nhau nhằm mục đích bảo vệ các công việc xây dựng lắp đặt và hoạt động
của các máy móc. Tóm lại:
Bảo hiểm kỹ thuật là một loại bảo hiểm tài sản trong đó sự hoạt động, tồn
tại, và sản xuất của đối tượng được bảo hiểm; việc đánh giá rủi ro và định phí; việc
đề phòng và hạn chế tổn thất và việc phục hồi, thay thế các đối tượng được bảo
hiểm bị tổn thất đòi hỏi phải có sự tham gia của các kỹ sư, sự vận dụng các phương
pháp và bí quyết (know- how) thuộc về khoa học kỹ thuật công nghệ.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy được phần nào vai trò của TBH kĩ thuật. Ở
đây xin đưa ra một số vai trò chính của tái bảo hiểm kĩ thuật
Thứ nhất bảo hiểm kỹ thuật nói chung là nhằm ổn định hoạt động của các tổ
chức kinh tế cũng như đời sống của nhân dân trong trường hợp không may gặp
phải rủi ro. Với việc thu phí bảo hiểm của các tổ chức kinh tế và các thành viên có
liên quan trong xã hội và với quan hệ tái bảo hiểm giữa các tổ chức bảo hiểm trên
toàn thế giới, ngành bảo hiểm sẽ có đủ khả năng để bồi thường ngay tổn thất cho
các người được bảo hiểm cho dù tổn thất là rất lớn, giúp họ nhanh khắc phục hậu
quả của tổn thất, ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống. Và như vậy bảo hiểm kỹ
thuật đã đóng góp vào sự ổn định kinh tế - xã hội nói chung.Giúp cho cá nhân hay
doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu quả, yên tâm sản xuất kinh doanh.
Nhanh chóng khắc phục hậu quả các sự cố gây thiệt hại nghiêm trọng các công trình
xây dựng lớn, tòa nhà ,máy móc& thiết bị kĩ thuật điện tử, các hạng mục thuộc đối
tượng bảo hiểm kĩ thuật…
Thứ hai, góp phần tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao
trách nhiệm của người được bảo hiểm đối với các tài sản, công trình được bảo hiểm.

Trước khi tiến hành bảo hiểm, người bảo hiểm phải theo dõi, kiểm tra và đánh giá
mức độ rủi ro của các đối tượng được yêu cầu bảo hiểm, trên cơ sở đó sẽ đóng góp
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kịp thời cho người được bảo hiểm các biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng gây
nguy hiểm cho công trình, tài sản được bảo hiểm. Các biện pháp đề phòng như
phòng chữa cháy, kiểm tra giám định các thiết bị máy móc công trình được bảo
hiểm đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đề phòng hạn chế tổn thất. Đặc biệt
khi tiến hành bảo hiểm cho các công trình xây dựng, lắp đặt, người bảo hiểm cùng
với các ngành, cơ quan hữu quan khác phối hợp tiến hành công tác đề phòng, hạn
chế tổn thất nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro có thể gây ra thiệt hại đối với
tài sản, con người.
Thứ ba, làm tập trung vốn, nhất là vốn dài hạn để đầu tư trở lại cho nền kinh
tế. Thông qua việc thu phí bảo hiểm, người bảo hiểm tập trung được một lượng tiền
vốn phân tán rải rác hình thành nên quỹ bảo hiểm - một quỹ tiền tệ quan trọng trong
thị trường tài chính. Trong bảo hiểm kỹ thuật, đặc biệt là bảo hiểm CAR và EAR sự
khác biệt giữa thời hạn đóng phí và thời hạn phải bồi thường là khá lâu vì thời hạn
bảo hiểm kéo dài trong nhiều năm. Vì vậy quỹ bảo hiểm đó tạm thời nhàn rỗi trong
một khoảng thời gian tương đối dài được người bảo hiểm tính toán đầu tư một cách
linh hoạt, hợp lý có hiệu quả và đúng pháp luật.vào các lĩnh vực của nền kinh tế. Đây
là nguồn vốn trung và dài hạn hết sức quan trọng bổ sung cho thị trường tài chính
1.2 Nội dung cơ bản của tái bảo hiểm kĩ thuât
Trong tái BH kĩ thuật có một số nét khác với các loại tái BH khác ở các điểm như:
Ít có sự phân tán rủi ro.
Số phí nghiệp vụ thường chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng phí BH của công ty BH
Liên quan đến các rủi ro về công nghệ và thường chịu các rủi ro liên quan
đến tự nhiên,thiết kế,xây lắp…
Một số nội dung cụ thể như sau :

1.2.1- Điều kiện nhượng tái
Đối tượng BH có giá trị rất lớn nếu có tổn thất xảy ra bồi thường vượt quá
khả năng chi trả của công ty,xác suất xảy ra rủi ro là tương đối cao…Những đối
tượng này cần được xem xét cẩn thận trước khi đem tái. Nếu đem đi tái sẽ phát sinh
các điều kiện cho việc nhượng.Trong hợp đồng tái bảo hiểm, điều kiện này được
viết như sau: "nhà nhận tái bảo hiểm sẽ cung cấp cho công ty bảo hiểm gốc những
điều kiện hợp đồng và những nguyên tắc tính phí bảo hiểm cho dịch vụ nhượng tái
theo hợp đồng nhượng tái bảo hiểm này", công ty bảo hiểm gốc buộc phải tuân theo
nguyên tắc và tỷ lệ phí của họ. Tức là khi đã thu xếp hợp đồng tái tục cố định từ đầu năm
nghiệp vụ, công ty nhượng sẽ tái đi các đơn BH nằm trong loại hình BH cần tái tục do đã
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
có sự thỏa thuận và kí kết hợp đồng từ trước. Các đơn sẽ được tái đi một cách tự động
mà không cần có sự đàm phán lại của các bên, chuyển giao rủi ro tự động bắt buộc có
tính chất nhanh nhạy. Công ty nhượng sẽ được nhà tái trả cho một khoản tiền gọi là hoa
hồng nhượng tái BH. Tỷ lệ giữ lại và tái đi được ghi rõ trong hợp đồng đã kí đồng thời
trách nhiệm các bên cũng được quy đinh rõ ràng minh bạch.
Hoặc nếu công ty nhượng thu xếp với các nhà tái khác bằng hợp đồng tạm
thời: công ty bảo hiểm gốc phải cung cấp cho công ty tái bảo hiểm tất cả những thông
tin có liên quan đến dịch vụ được bảo hiểm. Trong thực tế, nhà tái bảo hiểm cũng tiến
hành đánh giá mức độ rủi ro của dịch vụ, và do đó có thể quyết định nhận hay không
nhận tái bảo hiểm mà không cần đầy đủ các chi tiết. Các thông tin này có thể được
cung cấp thông qua trao đổi hoặc bằng cách điền vào đơn đề nghị tái bảo hiểm.
1.2.2-Quy trình nhượng tái
Cụ thể các bước như sau:
Sơ đồ 1 : Mô tả quy trình nhượng tái bảo hiểm kĩ thuật
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49

Nguồn thông tin
Nguồn thông tin
Xử lí thông tin
Xử lí thông tin
Treaty
Treaty
Tái bảo hiểm tạm thời
Tái bảo hiểm tạm thời
Thực hiện tái bảo hiểm
nhượng
Thực hiện tái bảo hiểm
nhượng
Báo cáo Ban Giám Đốc
Báo cáo Ban Giám Đốc
Lưu giữ hồ sơ
Lưu giữ hồ sơ
Thiếu thông
tin
Đầy đủ thông tin
Hoàn
tất
Không hoàn tất
Không
đồng ý
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
*Thu thập thông tin:
Nguồn thông tin là những thông tin yêu cầu có được từ quy trình khai thác
nhận TBH, thường bao gồm:
- Bản chào phí hoặc

- Đơn gốc, và các phụ lục đính kèm đơn (nếu có)
- Bản đánh giá rủi ro/giấy yêu cầu bảo hiểm (nếu có)
- Các thông tin khác của dịch vụ
-Tỷ lệ tham gia và giới hạn trách nhiệm của công ty mình
- Hoa hồng nhượng tái.
Thông tin, yêu cầu TBH được tiếp nhận bởi trưởng phòng, phó phòng hoặc
chuyên viên.
*Xử lý thông tin
- Kiểm tra mức độ đầy đủ của thông tin, xem xét tính hợp lý của điều kiện,
điều khoản, tỷ lệ phí. Chuyên viên thực hiện cần tham chiếu các yêu cầu về thông
tin rủi ro cho từng loại nghiệp vụ do công ty ban hành (nếu có).
- Đề nghị khách hàng yêu cầu cung cấp thêm thông tin nếu cần thiết.
- Xác nhận xem có phải tái bảo hiểm hay không dựa trên các yếu tố: mức giữ
lại của Công ty và mức rủi ro. Nếu mức trách nhiệm vượt quá mức giữ lại hoặc
trong mức giữ lại nhưng rủi ro quá lớn thì phải thực hiện tái bảo hiểm
*Các công cụ TBH tự động:
-Việc thu xếp tái bảo hiểm được ưu tiên sử dụng các công cụ TBH tự động,
bao gồm: các hợp đồng cố định (Treaty), các hợp đồng mở (Facility) và TBH chỉ
định. Lưu ý: Việc tái bảo hiểm chỉ định chỉ được áp dụng trong một số trường hợp
đặc biệt và phải được sự đồng ý của Ban giám đốc.
- Nếu rủi ro không thể đưa vào hoặc vượt quá năng lực của công cụ TBH tự
động thì phải thu xếp TBH tạm thời.
- Các trường hợp đặc biệt khác thì phải có sự đồng ý của lãnh đạo
Phòng/lãnh đạo Công ty.
* Sử dụng TBH tạm thời
- Phòng nghiệp vụ thực hiện chào TBH tạm thời dựa trên đánh giá về rủi ro,
đánh giá tình hình thị trường và mối quan hệ của công ty mình với các nhà nhận tái.
- Phòng nghiệp vụ phải thường xuyên cập nhật tình hình thu xếp với lãnh đạo
Phòng.
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm

K49
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
*Phân cấp thực hiện quản lý
- Lãnh đạo Tổng công ty phê chuẩn tất cả các phương án tái bảo hiểm trên cơ
sở tổng hợp nguyên dịch vụ khai thác được và trách nhiệm bảo hiểm vượt quá khả
năng giữ lại của Tổng công ty.
- Các trưởng phòng nghiệp vụ phải trình lãnh đạo phê chuẩn phương án TBH
bảo vệ cho các dịch vụ Tổng công ty nhận nêu trên.
- Lãnh đạo phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện các phương án TBH đã được
phê chuẩn.
- Cập nhật các thông tin chi tiết khác trong mẫu PAS.
*Thực hiện các thủ tục TBH
- Đối với các dịch vụ được thu xếp qua hợp đồng TBH cố định hoặc hợp
đồng mở, việc thực hiện thanh toán phải tuân thủ phù hợp với từng loại hợp đồng.
Hồ sơ thanh toán bao gồm: Chứng từ thanh toán (Statement of Account) và Bảng
kê phí TBH (Reinsurance Bordereaux) nếu cần. Chứng từ thanh toán được làm 4
bản: 2 bản chuyển phòng kế toán, 1 bản lưu tại phòng nghiệp vụ, 1 bản gửi cho các
nhà nhận TBH.
- Đối với các dịch vụ có TBH tạm thời, trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận
được xác nhận tham gia TBH hoặc ngày ký đơn bảo hiểm gốc/sửa đổi bổ sung tùy
theo thời điểm nào muộn hơn, chuyên viên phải hoàn thành hồ sơ TBH. Hồ sơ TBH
bao gồm: Hợp đồng TBH (Reinsurance Slip hoặc Endorsement), Chứng từ thanh
toán. Hợp đồng TBH được làm 3 bản: 2 bản gửi nhà nhận TBH và đề nghị ký trả 1
bản, 1 bản lưu tại phòng nghiệp vụ. Chứng từ thanh toán được làm 4 bản: 2 bản
chuyển phòng kế toán, 1 bản lưu tại bộ phận TBH, 1 bản gửi cho nhà nhận TBH.
Chuyên viên làm chi tiết thanh toán chuyển phòng Kế toán đối với những dịch vụ
tổng hợp gồm nhiều dịch vụ nhỏ, những dịch vụ mà công ty tái hộ, thu đòi hộ.
- Phòng nghiệp vụ chuyển hồ sơ thanh toán tới phòng Kế toán kiểm tra trước
khi chuyển lên Ban giám đốc ký duyệt.

- Ngay sau khi Ban giám đốc ký hồ sơ thanh toán, phòng nghiệp vụ chuyển
các bản chứng từ thanh toán tới phòng Kế toán. Phòng nghiệp vụ sẽ gửi xác nhận
của các nhà nhận TBH tới phòng Kế toán sau khi nhận được xác nhận này. Việc
chuyển tiền hoặc đối trừ sẽ được phòng TBH gửi yêu cầu bằng văn bản tới phòng
Kế toán.
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
*Lưu giữ hồ sơ
Chuyên viên thực hiện lưu trũ toàn bộ hồ sơ tài liệu liên quan đến quá trình
thu xếp và thanh toán TBH.
Ví dụ
Doanh nghiệp BH sau khi đã thu xếp hợp đồng bảo hiểm gốc và cấp đơn BH
gốc những đơn BH này sẽ được sắp xếp và xét xem có đủ điều kiện phù hợp đối với
loại hợp đồng nào?
Ở đây ta chỉ đề cập đến hợp đồng tạm thời và hợp đồng cố định
+Nếu giới hạn trách nhiệm thuộc hợp đồng cố định thì nhượng tái theo hợp
đồng cố định , thủ tuc rất nhanh và tiết kiệm thời gian, chi phí.
+Nếu giới hạn trách nhiệm vượt quá giới hạn trách nhiệm hợp đồng cố định
thì sẽ chuyển phần trách nhiệm dôi ra ở hợp đồng cố định sang hợp đồng tạm thời.
Sau khi thu xếp ,tiến hành cấp đơn BH cho hợp đồng TBH cố định hoặc cho
hợp đồng TBH tạm thời
Minh họa
Công trình đường cao tốc có STBH=1600 tỷ VND,tỷ lệ phí 0.33%. Công tyA
đồng BH với công ty B theo tỷ lệ nhận của A và B là 60% và 40%
Công tyA thực hiện tái BH theo hơp đồng cố định với mức giữ lại 10 tỷ
Hợp đồng số thành (mức giữ lại 20% STBH)
Hợp đồng mức dôi 1(hạn mức trách nhiệm 10 tr USD)
Hợp đồng mức dôi 2(hạn mức trách nhiệm 10 tr USD)

Tỷ giá 1USD=18500 VND
A là công ty BH gốc thực hiện hợp đồng TBH số thành kết hợp mức dôi 1 và
2 sẽ thưc hiện tái tục
Như vậy công ty A nhận 60% giá trị công trình với STBH=960 tỷ VND , sẽ
được phân chia như sau
+Đầu tiên thực hiện hợp đồng cố định giữ lai =10 tỷ VND
+ Trách nhiêm của HĐ số thành (20% của 960 tỷ) =192 tỷ VND
+Trách nhiêm của HĐ mức dôi 1 (10 tr USD) =185 tỷ VND
+Trách nhiêm của HĐ mức dôi 2 (10 tr USD) =185 tỷ VND

Tổng cộng =572 tỷ VND
Sau khi thu xếp vào hợp đồng cố định nhưng vẫn dôi ra phần vượt quá giới
hạn trách nhiệm (960-572=388)
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Vậy còn 388 tỷ VND giới hạn trách nhiệm sẽ được thu xếp tiếp vào hợp đồng
tạm thời với các nhà tái khác.
1.2.3-Điều kiện nhận tái
Công ty nhận tái BH trước tiên phải có năng lực nhận bảo hiểm.Vì tái bảo
hiểm kỹ thuật thường mất cân đối trong BH các rủi ro CAR và EAR do chúng thuộc
đơn BH không thể tái tục. Một hợp đồng tái bảo hiểm kĩ thuật thường có tỷ lệ giữa
(năng lực nhận bảo hiểm/tổng phí BH) là 1/2 đến 1/5 hoặc có thể lên tới 1/10 hoặc
cao hơn. Tuy nhiên những rủi ro trong bảo hiểm có thể tái tục( như
MB,CECR,CPM) hàng năm thì có sự cân đối hơn giữa số tiền bảo hiểm và năng lực
nhận bảo hiểm.
Năng lực tài chính của công ty sẽ quyết định xem công ty nhận có khả năng
về chi trả bồi thường rủi ro tổn thất xảy ra trong thời gian ngắn có hiệu quả hay
không? Nếu công ty nhận tái các HĐ BH có độ rủi ro cao ,đồng thời nếu không đảm

bảo nhận tài chính cho chi trả tổn thất thì họ sẽ giảm tỷ lệ giữ lại khi tiếp tục tái tục
cho nhà tái khác. Mục đích của việc nhận tái ngoài nhằm thu phí tái thì còn giúp
duy trì mối quan hệ bạn hàng tin cậy, vì lúc này công ty mình nhận tái của họ thì
khi khác họ sẽ nhận tái của mình.
Vì đặc thù của bảo hiểm kỹ thuật nên trong công tác khiếu nại bồi thường
các công ty tái bảo hiểm có các điều khoản hướng dẫn chi tiết.Các công ty bảo hiểm
gốc phải cung cấp cho công ty tái bảo hiểm những thông số chi tiết có liên quan đến
hợp đồng, đồng thời khi có tổn thất xảy ra thì cần phải thông báo cho công ty tái
bảo hiểm gấp để kịp thời phối hợp với công ty bảo hiểm gốc giải quyết hậu quả.
Lúc này do đã trở thành nhà tái BH nên công ty BH sẽ xem xét đánh giá ,kí
kết các hợp đồng tạm thời khi có các bản chào tái từ phía công ty khác. Việc kí kết
các hợp đồng cố định với các công ty đã đàm phán được tiến hành đầu năm, các
đơn tái BH thuộc loại này sẽ tự động tái tục trong năm, rủi ro cũng được tự động
chuyển giao bắt buộc. Đồng thời việc trả phí nhượng tái cho các công ty nhượng sẽ
được thực hiện và thanh toán như trong hợp đồng kí kết.
1.2.4-Quy trình nhận tái
Cụ thể các bước như sau:
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sơ đồ 2 : Mô tả quy trình nhận tái bảo hiểm kĩ thuật
*Tiếp nhận thông tin
-Đối với dịch vụ tạm thời:
- Bản chào tái bảo hiểm
- Thông tin về rủi ro (nếu có): Bảng câu hỏi, điều tra rủi ro…
- Thông tin về tổn thất các năm (nếu có): từ 3-5 năm
- Thông tin khác
-Đối với dịch vụ cố định
- Bản tóm tắt hợp đồng cố định

- Thông kê nghiệp vụ từ 3 đến 5 năm trước (Thông tin rủi ro, thông tin tổn thất…)
- Đánh giá quy trình triển khai.
* Đánh giá, kiểm tra – Xử lý thông tin
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
Tiếp nhận thông tin
Xử lí thông tin, đánh giá
kiểm tra
Định phí, lên phương án
nhận tái
Trình trưởng phòng
Trình ban giám đốc
Xác nhận, kí kết
Lưu giữ hồ sơ
Thiếu thông
tin
Từ chối nhận tái
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Đối với hợp đồng tạm thời:
- Nếu dịch vụ tái tục: Kiểm tra kết quả đơn cũ, nếu có hiệu quả có thể tiệp
tục tham gia hoặc không.
- Nếu là dịch vụ mới:
Đánh giá rủi ro dựa trên các thông tin được cung cấp, nếu điều kiện điều
khoản không nằm trong chính sách khai thác của Công ty thì trả lời từ chối.
Kiểm tra độ chính xác của thông tin vừa cung cấp qua các kênh thông tin khác.
Kiểm tra khả năng nhận trùng từ các nguồn khác.
- Đối với hợp đồng cố định:
- Kiểm tra thông tin về Công ty nhượng tái hoặc Công ty môi giới nếu là dịch
vụ mới.

- Đánh giá quy trình khai thác của công ty gốc.
- Đánh giá kỹ năng khai thác, đơn, quy trình và kinh nghiệm để đảm bảo
rằng công ty gốc tuân thủ đúng quy trình đã để ra.
- Kiểm tra cấu trúc hợp đồng, chỉ số xếp hạng (rating) của Công ty nhận tái
đứng đầu (nếu là hợp đồng nhận từ nước ngoài).
- Đánh giá hiệu quả hợp đồng thông qua số liệu thông kê.
- Kiểm tra độ chính xác của thông tin cung cấp qua các kênh khác.
- Kiểm tra độ chính xác của những thông tin cung cấp qua các kênh khác nhau.
* Định phí, lên phương án nhận tái bảo hiểm
Trưởng phòng, phó phòng, chuyên viên tính toán mức trách nhiệm có thể
tham gia dựa trên các yếu tố sau:
- Mức giứ lại cho công ty
- Có thể chuyển nhượng tiếp vào hợp đồng cố định hay không.
- Có thể chào TBH tạm thời cho các nhà nhận tái khác được không
- Phí thực thu (đàm phán với nhà nhượng tái để có được tỷ lệ hoa hồng hợp lý).
* Phân cấp quản lý
- Lãnh đạo Tổng Công ty phê chuẩn tất cả các dịch vụ nhận TBH trên cơ sở
thông tin bản chào TBH (cố định, tạm thời) từ khách hàng, môi giới và các nguồn
khác.
- Lãnh đạo các phòng nghiệp vụ phải trình lãnh đạo Tổng Công ty nội dung
cơ bản sau:
+ Loại hình bảo hiểm
+ Điều kiện điều khoản, người đứng đầu nhận tái bảo hiểm.
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Tình hình và kết quả của loại hình dịch vụ này khoảng 3 năm trước và dự
kiến trong 3 năm tới, có thể so sánh với tình hình thị trường trong nước và quốc tế.
+ Đề xuất nhận hoặc từ chối

+ Nếu nhận: Đề xuất mức giữ lại và hoa hồng
+ Phương án nhượng tái bảo hiểm, để bảo vệ cho phần nhận của công ty mình
+ Cập nhập các thông tin chi tiết khác trong mẫu PAS
- Sau khi được phê chuẩn (có chữ ký của Ban Giám Đốc), trưởng hoăc phó
phòng tái BH tổ chức việc thực hiện việc nhận, nhượng theo phương án đã đề ra.
- Báo cáo lãnh đạo khi có thay đổi ,bổ sung.
*Xác nhận, ký kết:
- Sau khi lãnh đạo Phòng/Ban giám đốc phê duyệt, Phòng tái BH xác nhận
với nhà nhận tái.
- Trong vòng 1 ngày làm việc kể từ ngày xác nhận hoặc ngày đơn nhận tái
bắt đầu có hiệu lực tùy theo thời điểm nào muộn hơn, phòng tái BH phát sinh chứng
từ nội bộ gửi tới bộ phận theo dõi hồ sơ, thanh toán (mẫu, các ghi chú đặc biệt như
thời hạn thanh toán, tỷ lệ chuyển nhượng tiếp…).
- Sau khi nhận và kiểm tra lại hồ sơ nhượng TBH từ công ty nhượng, so sánh
với với mẫu đã được phê duyệt, trưởng phòng tái thực hiện thủ tục ký kết hợp đồng
TBH (có ký duyệt của Ban giám đốc), chứng từ gốc được chuyển lên phòng kế toán.
* Thống kê, lưu giữ hồ sơ:
Chuyên viên nhận TBH thực hiện thông kê và theo dõi quá trình thực hiện
hợp đồng thanh toán, thống kê, và lưu hồ sơ.
Chú ý
Ở đây cần lưu ý đến “năm tài chính” và “năm nghiệp vu BH” và cần phân
biệt rõ 2 khái niệm này như sau.
-Năm tài chính có nghĩa là nhà TBH có trách nhiệm bồi thường cho các rủi ro
tổn thất xảy ra trong năm tài chính bất kể tổn thất đó xảy ra thuộc đơn BH cấp năm
nào,ngược lại những rủi ro được BH trong năm tài chính mà vẫn còn hiệu lực trong
năm kế tiếp thì nhà TBH không chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất năm kế tiếp
-Năm nghiệp vụ BH có nghĩa nhà TBH có trách nhiệm bồi thường cho tất cả
những tổn thất xảy ra thuộc các đơn BH được cấp và các đơn BH được công ty
nhượng tái tục trong năm nghiệp vụ. Do đó nhà TBH vẫn phải có trách nhiệm cho các
tổn thất có thể xảy ra thuộc năm nghiệp vụ đó và năm kế tiếp nếu thời hạn BH vẫn còn.

Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Điều này có ý nghĩa quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến công tác
hoach toán kế toán mà còn ảnh hưởng đến kỹ thuật tái bảo hiểm, vấn đề kí kết và
thanh lí hợp đồng. Đứng trên góc độ công ty nhượng nếu thỏa thuận với nhau trên
cơ sở năm nghiệp vụ BH thì công ty nhượng sẽ gặp bất lợi hơn trong trường hợp :
không đòi lại được từ nhà TBH những tổn thất thuộc trách nhiệm của họ nếu như
tổn thất đó xảy ra từ cùng một sự cố nhưng lại thuộc 2 năm nghiệp khác nhau . Nếu
kí hợp đồng theo năm tài chính thì nhược điểm lớn nhất là nhà TBH hủy bỏ không
tham gia tái tục năm tới.
1.2.5-Các hình thức TBH áp dụng trong TBH kĩ thuật
Có 2 hình thức TBH là TBH tạm thời và TBH cố định , ngoài ra còn có một
hình thức nữa là sư kết hợp của 2 loại trên là TBH lựa chọn bắt buộc. Ở đây xin
trình bày về TBH tạm thời và TBH cố định
a) TBH tạm thời
Tái bảo hiểm tạm thời là phương thức tái bảo hiểm lâu đời nhất, và do đó, sẽ
được trình bày trước ở đây. Theo phương thức này, công ty bảo hiểm gốc chuyển
nhượng cho công ty tái bảo hiểm từng dịch vụ hay từng đơn bảo hiểm một cách
riêng lẻ. Công ty tái bảo hiểm , về phần mình, không có nghĩa vụ bắt buộc phải
nhận tái bảo hiểm cho dịch vụ hay đơn bảo hiểm đó. Công ty bảo hiểm gốc cũng có
toàn quyền quyết định tiến hành tái bảo hiểm cho dịch vụ nào, với tỷ lệ bao nhiêu,
và cho công ty tái bảo hiểm nào tùy sự lựa chọn của họ. Mặt khác, công ty tái bảo
hiểm cũng có quyền từ chối nhận tái bảo hiểm cho dịch vụ hay chỉ nhận với một tỷ
lệ mà họ cho là thích hợp.
Tái bảo hiểm tạm thời là phương pháp đã xuất hiện cùng với sự ra đời của tái
bảo hiểm và nó vẫn được sử dụng trong một số trường hợp như sau:
* Có những trường hợp mà nhà bảo hiểm gốc không hiểu biết đầy đủ về một
loại rủi ro nào đó và phải yêu cầu công ty tái bảo hiểm giúp đỡ. Khi ấy nhà tái bảo

hiểm sẽ là người xác định mức phí, các điều khoản và điều kiện bảo hiểm cũng như
những hạn chế cần thiết cho dịch vụ của nhà bảo hiểm gốc.
* Những thỏa thuận tái bảo hiểm tự động hiện có của công ty bảo hiểm gốc
có thể không áp dụng cho một số rủi ro hay một phần của những rủi ro nào đó, nếu
nhà bảo hiểm gốc vẫn quyết định nhận bảo hiểm cho rủi ro đó thì phải tiến hành thu
xếp tái bảo hiểm tạm thời.
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
* Rủi ro nhận bảo hiểm có thể có giá trị lớn vượt quá phạm vi của những
thỏa thuận tái bảo hiểm tự động. Do đó phải thu xếp tái bảo hiểm tạm thời cho phần
giá trị vượt quá này.
* Công ty bảo hiểm gốc cũng có thể muốn tránh không đưa ra những dịch vụ
có nguy có tổn thất cao vào những thỏa thuận tái bảo hiểm hiện có của mình. Do đó,
họ phải tiến hành thu xếp tái bảo hiểm tạm thời trước để giảm bớt khả năng tổn thất
trước khi đưa vào hợp đồng tái bảo hiểm tự động.
* Ưu điểm:
-Phù hợp với các công ty BH nhỏ còn ít kinh nghiệm nhằm cạnh tranh để nhận
những dịch vụ lớn nằm ngoài khả năng của mình bằng cách tái bảo hiểm quốc tế.
- Cho phép công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ nằm ngoại phạm vi
khai thác thông thường của mình. Năng cao uy tín cho công ty nhượng
- Đảm bảo phân tán rủi ro
* Nhược điểm
- Yêu cầu nhiều thời gian vì hợp đồng phát sinh đơn lẻ. Công ty bảo hiểm
gốc phải thu xếp tái bảo hiểm tạm thời trước khi nhận một dịch vụ, chỉ đến khi thu
xếp xong tái bảo hiểm tạm thời mới có thể nhận BH thì quá chậm.Có thể để rơi hợp
đồng gốc vào tay các đối thủ cạnh tranh và mất uy tín BH với khách hàng
- Phát sinh chi phí đàm phán, soạn thảo hợp đồng, có thể kéo dài thời gian
- Rò rỉ thông tin liên quan đến dịch vụ cần BH cho các đối thủ cạnh tranh

b) TBH cố định
Tái bảo hiểm cố định hay còn gọi là tái bảo hiểm bắt buộc, là hình thức tái bảo
hiểm mà theo đó công ty nhượng phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất cả các đơn vị
rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã thoả thuận và quy định trong hợp đồng. Ngược lại,
nhà tái bảo hiểm cũng buộc phải chấp nhận bảo hiểm toàn bộ các rủi ro đó.
+ Tái bảo hiểm cố định được thu xếp trước khi các hợp đồng bảo hiểm gôc
được ký kết. Hợp đồng tái bảo hiểm này có hiệu lực đối với tất cả các hợp đồng bảo
hiểm gốc được ký kết trong khoảng thời gian đã được thỏa thuận.
+ Dạng hợp đồng tái bảo hiểm có tính chất ổn định và lâu dài, thường từ 1
đến 3 năm.
+ Tái bảo hiểm bắt buộc quy định rõ các điều kiện, điều khoản về phương
thức tái bảo hiểm, về phương thức chuyển giao phí tái bảo hiểm và bồi thường nhận
tái bảo hiểm.
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Về đồng tiền thanh toán : Đây là hợp đồng tái bảo hiểm có tính toàn diện
vì nó không chỉ áp dụng cho từng loại nghiệp vụ bảo hiểm mà còn có thể áp dụng
cho tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm.
Ưu điểm:
• Giúp công ty nhượng chủ động chấp nhận, định phí bảo hiểm cho rủi ro
bảo hiểm gốc mà không phải mất thời gian tham khảo ý kiến của của nhà tái bảo
hiểm, do đó hợp đồng bảo hiểm sẽ nhanh chóng được ký kết .
• Công ty nhượng được nhà tái bảo hiểm bảo vệ cho mọi rủi ro thuộc phạm
vi hợp đồng, do đó khả năng an toàn của công ty bảo hiểm được đảm bảo.
• Việc nhận tái bảo hiểm theo hợp đồng cố định cho phép công ty tái bảo
hiểm nhận được nhiều dịch vụ hơn so với việc nhận từng hợp đồng tạm thời đơn lẻ.
Nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu được phí lớn, phù hợp với nguyên tắc "quy luật
số đông" giúp nhà tái bảo hiểm có điều kiện đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật của ngành

bảo hiểm bằng việc chấp nhận rủi ro mới.
Nhược điểm:
• Thông thường nó có tính ổn định cho một giai đoạn nhất định, do đó
thiếu tính linh hoạt trước những thay đổi của công ty chuyển nhượng.
• Vì mọi rủi ro phải đem tái đi cho nên đứng về phía công ty nhượng
những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem tái đi trong khi khả năng
tài chính của họ vẫn có khả năng đảm đương được.
• Nếu công ty nhượng thiếu kinh nghiệm, đặc biệt sơ suất việc ký kết hợp
đồng bảo hiểm gốc thì hậu quả đối với các nhà tái bảo hiểm rất khó lường trước
được.
1.2.6-Các phương thức TBH áp dụng trong TBH kĩ thuật
* Tái bảo hiểm theo tỷ lệ (tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm).
a. Tái bảo hiểm theo số thành: trong hình thức tái bảo hiểm này, công ty
nhượng buộc phải nhượng và công ty nhận buộc phải nhận một tỷ lệ (thường được
thể hiện dưới dạng đơn vị phần trăm) đã được ấn định trước đối với tất cả các dịch
vụ mà công ty nhượng khai thác được trong một loại hình bảo hiểm đã được thỏa
thuận. Thông thường, có một mức giới hạn số tiền tối đa đối với tỷ lệ phân chia đã
thỏa thuận.
Áp dụng hình thức tái bảo hiểm này trong các trường hợp sau :
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Một công ty bảo hiểm bắt đầu triển khai một loại hình bảo hiểm mới mà
chưa có thống kê về nghiệp vụ.
Đơn giản hóa các công việc theo dõi và thực hiện hợp đồng và chi phí cho
các công việc đó trong các nghiệp vụ có số tiền bảo hiểm lớn và tương đối đồng
nhất hoặc đối với các nghiệp vụ mà hợp đồng số thành được thu xếp cho phần giữ
lại của hợp đồng mức dôi ( surplus).
b. Tái bảo hiểm mức dôi: nếu một công ty bảo hiểm chỉ tái bảo hiểm theo

hợp đồng tái bảo hiểm số thành , công ty đó sẽ phải thường xuyên vận dụng đến
phương pháp tái bảo hiểm tạm thời vì nhiều rủi ro có tầm cỡ lớn và giá trị rất cao.
Trong khi đó, giới hạn của một hợp đồng số thành thường không quá lớn, bởi vì
mức giữ lại của công ty nhượng phụ thuộc vào quỹ cổ đông của công ty.
Nhằm tăng các ưu thế tái bảo hiểm tự động của mình, công ty nhượng cần
phải thu xếp một hợp đồng mức dôi bên trên phần hợp đồng tái bảo hiểm số thành
cơ bản của mình.
Phương pháp tái bảo hiểm theo hình thức mức dôi này cho phép công ty
nhượng nhượng tái bảo hiểm phần trách nhiệm phụ trội , vượt quá giới hạn trong
hợp đồng bảo hiểm số thành, và được giới hạn ở một mức độ cao hơn.
Mức độ chuyển tái bảo hiểm trong một hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi được
thể hiện bới số các lần (line). Một lần bằng 100% mức giới hạn của hợp đồng tái
bảo hiểm số thành cơ bản. Vì vậy, nếu một công ty nhượng có một hợp đồng mức
dôi gồm 10 lần, nghĩa là hợp đồng có mức độ chuyển tái bảo hiểm bằng 10 lần giới
hạn của hợp đồng số thành cơ bản.
Ngày nay, rất hiếm khi các công ty sử dụng hợp đồng số thành để bảo vệ các
nghiệp vụ chính của mình. Các hợp đồng mức dôi được áp dụng phổ biến hơn. Như
vậy, mức độ chuyển tái bảo hiểm của một hợp đồng mức dôi sẽ được thể hiện như
là một bội số của mức giữ lại của công ty nhượng.
Trên thực tế , khi thu xếp hợp đồng mức dôi thứ hai, công ty nhượng thường
gặp phải nhiều khó khăn hơn so với hợp đồng mức dôi lần đầu, bởi vì chỉ những rủi
ro lớn mới được chuyển nhượng trong hợp đồng này. Cũng có thể có đến hợp đồng
mức dôi thứ ba, nhưng trong thực tế hợp đồng này không phổ biến lắm.
Cũng giống như trường hợp tái bảo hiểm số thành, hợp đồng mức dôi cũng
được thu xếp thông qua các bản chào tái bảo hiểm ( reinsurance slip).
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
c. Tái bảo hiểm kết hợp số thành và mức dôi: Đây không phải là dạng thứ ba

của phương thức TBH theo tỉ lệ mà là sự kết hợp giữa hai dạng số thành và mức
dôi. Phương thức này có đặc điểm:
+ Việc thực hiện TBH trước hết được triển khai với hợp đồng số thành, sau
đó hợp đồng mức dôi được thực hiện để bảo vệ cho hợp đồng số thành.
+ Hợp đồng số thành giới hạn trách nhiệm ở một số tiền bảo hiểm nhất định.
Phần vượt quá được chuyển cho công ty nhận trong hợp đồng mức dôi. Tuy nhiên
hợp đồng mức dôi thường cũng giới hạn trách nhiệm nên nếu giá trị hợp đồng bảo
hiểm gốc quá lớn, vượt quá giới hạn trách nhiệm này, số tiền bảo hiểm sẽ quay lại
với trách nhiệm của hợp đồng số thành.
+ Việc phân bố trách nhiệm bồi thường giữa các công ty bảo hiểm được tính
dựa trên trách nhiệm và số tiền bồi thường mà mỗi công ty đảm nhận.
* Tái bảo hiểm phi tỉ lệ (tái bảo hiểm theo mức bồi thường).
Tái bảo hiểm phi tỷ lệ :tái bảo hiểm phi tỷ lệ là một hình thức tái bảo hiểm
trong đó công ty nhượng và công ty nhận tái bảo hiểm không chia sẻ phí và tổn thất
theo cùng một tỷ lệ như trong tái bảo hiểm theo tỷ lệ. Do vậy mà hình thức tái bảo
hiểm này được gọi là tái bảo hiểm phi tỷ lệ. Theo hình thức này công ty nhận tái
bảo hiểm chịu trách nhiệm đối với tất cả các tổn thất vượt quá một giá trị đã thỏa
thuận trước. Giá trị này có thể được gọi theo nhiều cách khác nhau: “mức miễn
thường” (deductible), hay”phần ưu tiên”(priority), hay “mức giữ lại”(retention).
Mức giữ lại có thể cho tất cả các tổn thất phát sinh từ một sự cố đơn lẻ
Trong tái bảo hiểm phi tỉ lệ không có việc xác định trước tỉ lệ phân chia phí
và bồi thường tổn thất giữa người nhận và người nhượng. Đặc trưng của phương
pháp này là việc phân chia trách nhiệm về số tiền bảo hiểm không được đặt ra. Việc
xác định phí tái bảo hiểm và phân bổ số tiền bồi thường phụ thuộc vào số tiền bồi
thường thực tế. Số tiền bồi thường mà người nhượng phải gánh chịu được thoả
thuận trước trong hợp đồng , nó được biết tới như là “mức khấu trừ” hoặc “điểm
vượt mức”. Nó có thể được xác định bằng một tỉ lệ (tỉ lệ tổn thất) trong phương
pháp tái bảo hiểm vượt tỉ lệ bồi thường Stop loss hoặc một số tiền trong phương
pháp tái bảo hiểm vượt mức Excess of loss. Người nhận tái chịu trách nhiệm đối với
phần vượt quá mức khấu trừ cho đến mức giới hạn thoả thuận trước. Mức giới hạn

đó cũng có thể được xác định một cách tương ứng bằng một tỉ lệ hoặc một số tiền.
Cái giá cho việc cung cấp đảm bảo tái bảo hiểm phi tỉ lệ mà người nhận tái
muốn nhận được là một phần của phí bảo hiểm gốc. Để xác định mức giá này người
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhận tái xem xét các tổn thất xảy ra trong các năm trước đã được giải quyết (định
phí theo kinh nghiệm) hoặc tổn thất tương lai dự tính theo loại rủi ro liên quan (định
phí theo nguy cơ tổn thất). Người nhận chỉ buộc phải bồi thường khi tổng lượng
hoặc một rủi ro thuộc phạm vi tái bảo hiểm chịu tổn thất vượt quá mức khấu trừ.
Về mặt lý thuyết thì các phương pháp tái bảo hiểm có thể được áp dụng
trong mọi nghiệp vụ bảo hiểm, kể cả trong bảo hiểm kỹ thuật. Tuy nhiên trong tái
bảo hiểm kỹ thuật thì phương pháp tỉ lệ giữ vai trò thống trị. Đa số phí tái bảo hiểm
kỹ thuật trên thế giới là phí tái bảo hiểm theo phương pháp tỉ lệ. Sở dĩ như vậy là vì:
- Bản chất của tổng lượng dịch vụ trong bảo hiểm kỹ thuật thường xuyên mất
cân đối do: bao gồm cả loại hình bảo hiểm không thể tái tục và tái tục hàng năm;
các rủi ro CAR và EAR kéo dài trong nhiều năm.
- Năng lực tái bảo hiểm phải lớn để đảm bảo cho những rủi ro với số tiền bảo
hiểm rất lớn.
- Các hợp đồng theo phương pháp tỉ lệ bảo vệ cho các rủi ro trên cơ sở năm
nghiệp vụ trong khi đó hợp đồng tái bảo hiểm phi tỉ lệ chỉ nhận bảo vệ trên cơ sở
năm xảy ra tổn thất. Người nhượng không có sự đảm bảo chắc chắn về việc có thể
tái tục hợp đồng.
Chỉ có những công ty bảo hiểm lớn mới có những chương trình tái bảo hiểm
phi tỉ lệ nhưng tổng lượng dịch vụ của các công ty này lớn và đa dạng tạo ra sự cân
bằng đủ cho phép họ tiến hành những chương trình như vậy.
1.3 Bảng chào tái bảo hiểm kĩ thuật
1.3.1-Khái niệm bảng chào tái
Bảng chào tái BH kĩ thuật là một tập thông tin bằng văn bản mời chào TBH

về các đối tượng thuộc BH kĩ thuật của công ty nhượng gửi cho các nhà tái có liên
quan.
Khi phát sinh dịch vụ cần tái BH tạm thời thì công ty nhượng sẽ gửi bản
chào tái tới một hoặc nhiều nhà tái.Đồng thời chờ đợi xem họ có đồng ý với các
điều kiện nhượng đã nêu hay không, đánh giá phí BH ,hoa hồng nhượng tái , đánh
giá rủi ro, xem xét lại đối tượng BH ,… Sau đó nếu đồng ý họ sẽ kí tắt vào bản chào
tái và gửi trả về công ty nhượng. Nếu hai bên cần trao đổi ý kiến , nội dung liên
quan tới đối tượng BH, thì sẽ tiến hành bàn bạc kĩ lưỡng với nhau.
Nếu là chào tái cố định thì gửi tóm tắt bản chào tái cố định, kiểm tra về các
điều kiện ,điều khoản có liên quan, kiểm tra độ chính xác của thông tin
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.3.2-Kết cấu chủ yếu bảng chào tái
Bao gồm những nội dung chủ yếu sau
*Loại hình bảo hiểm (tên loại hình BH)
*Người được bảo hiểm
*Đối tượng được bảo hiểm
*Địa điểm công trình , máy móc, thiết bị…
*Thời hạn bảo hiểm
*Quyền lợi được bảo hiểm
*Số tiền bảo hiểm
*Điều kiện bảo hiểm
*Mức miễn thường
*Tỷ lệ phí bảo hiểm(%)-bao gồm VAT
*Tổng phí bảo hiểm-bao gồm VAT
*Phương thức thanh toán
1.4 Hợp đồng tái bảo hiểm kĩ thuật
1.4.1- Khái niệm hợp đồng tái bảo hiểm kĩ thuật

Bản chất là sự cam kết giữa 2 bên mà trong đó nhà TBH cam kết bồi thường
cho công ty nhượng về những trách nhiệm mà công ty nhượng có thể sẽ phải gánh
chịu trong hợp đồng bảo hiểm của mình
Đứng trên góc độ thiết lập hợp đồng TBH người ta có những định nghĩa về
TBH như sau: TBH là loại BH mới được thực hiện bằng một hợp đồng mới cho
cùng một rủi ro đã được bảo hiểm từ trước nhằm bồi thường cho nhà BH đối với
những cam kết trước đó của họ.
Hợp đồng TBH và hợp đồng bảo hiểm gốc có những điểm giống nhau và
khác nhau như sau:
+Giống nhau: Diễn ra trong cùng một khoảng thời gian
+Khác nhau:Chủ thể của các hợp đồng là khác nhau
Tuyệt đại đa số những rủi ro trong hợp đồng TBH có phạm vi hẹp hơn trong
hợp đồng BH gốc
Những rủi ro trong hợp đồng BH gốc và hợp đồng TBH đều là những rủi ro
bất ngờ, lớn ,cần được san sẻ tuy nhiên việc san sẻ rủi ro trong hợp đồng BH gốc và
TBH là khác nhau
Trong hợp đồng BH gốc: Khách hàng muốn san sẻ toàn bo rủi ro
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong hợp đồng TBH: thường chỉ san sẻ một phần(Nếu san sẻ hết thì công ty
nhượng trở thành môi giới)
*Đặc điểm của hợp đồng TBH kỹ thuật
-Nhà TBH cam kết bồi thường cho công ty nhượng mà bản thân công ty
nhượng là một thành viên của hợp đồng(Tức là khách hàng không có quyền can
thiệp vào hợp đồng này)
-TBH có thể cam kết bồi thường một phần hoặc toàn bộ đối với những trách
nhiệm công ty nhượng có thể phải gánh chịu theo HĐ BH( rất ít khi toàn bộ)
-HĐ TBH là hợp đồng riêng biệt giữa nhà TBH với công ty nhượng tuy

nhiên nếu kết hợp các phương pháp với nhau thì mỗi HĐ riêng biệt cũng có thể có
những điểm chung giống nhau( về đơn vị rủi ro, hoa hồng …)
-TBH để ngỏ : nói lên sự thỏa thuận để sử dụng các dịch vụ BH trong tương lai
-TBH bắt buộc theo mức dôi: Đây là loại HĐ TBH mà công ty nhượng cần
phải có những hành động dứt khoát trước khi một phần trách nhiệm trong đơn BH
gốc đem tái đi. Hành động này được thể hiện rõ trong bảng thông báo TBH
-Dạng TBH số thành và TBH phi tỷ lệ là những HĐ mà các rủi ro được công
ty nhượng chấp nhận BH gốc đều được đem tái đi một cách tự động. Công ty
nhượng không cần thêm gì trong HĐ về các loại thủ tục khác nhau
-Việc san sẻ rủi ro cũng như san sẻ tài chính thể hiện ở cả STBH, STBT, phí
BH, hoa hồng
-Những rủi ro trong HĐ TBH kĩ thuật ngày nay phần lớn là các rủi ro mà hậu
quả thiệt hại rất lớn . Bởi thế H Đ TBH kĩ thuật ngày nay có tính quốc tế rất rộng.
Người làm TBH cần phải am hiểu luật pháp quốc tế liên quan đến BH
1.4.2- Nội dung chủ yếu của hợp đồng tái bảo hiểm kĩ thuật
Những nội dung chủ yếu nhất trong hợp đồng TBH kĩ thuật bao gồm:
-Nhà TBH cam kết bồi thường cho công ty nhượng về những trách nhiệm mà
công ty nhượng có thể sẽ phải gánh chịu từ hợp đồng BH gốc
-Quy định thời hạn Bảo hiểm
-Các điều khoản bảo hiểm, điều khoản bổ sung, các rủi ro mà công ty
nhượng tái đi, trách nhiệm giữ lại công ty nhượng
-Cam kết trả phí nhượng tái bảo hiểm, thống nhất đồng tiền thanh toán, kì
thanh toán
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với các hợp đồng tạm thời, nội dung hợp đồng được nêu đầy đủ gần như
giống với những nội dung đã nêu trong bản chào tái BH ở trên. Tuy nhiên trong
hợp đồng kí kết có thêm một số hạng mục quy định về :

-Tên công ty nhượng TBH
-Tên công ty nhận TBH
-Tỷ lệ TBH (%)
-Hoa hồng TBH (%)
*Các bên tiến hành xem xét lại một lần nữa về quyền lợi được bảo hiểm, các
điều kiện bảo hiểm( bao gồm cả các điều khoản bổ sung mở rộng), các rủi ro loại
trừ, nếu phát hiện sai sót phải thông báo cho nhau ngay để tiến hành sửa chữa thống
nhất trước khi kí kết
1.4.3-Các loại bảo hiểm kĩ thuật nhượng tái chủ yếu
a) Đặc điểm chung của bảo hiểm kỹ thuật
Các loại hình bảo hiểm kỹ thuật có một số đặc điểm chung sau:
- Các loại hình bảo hiểm kỹ thuật đều liên quan tới các khía cạnh kỹ thuật
như kỹ thuật dân dụng, cơ khí, điện tử, xây dựng v.v Do đó cần phải có các
chuyên gia có trình độ chuyên môn về kỹ thuật
- Các loại hình bảo hiểm kỹ thuật đều chỉ bảo hiểm cho người được bảo hiểm
đối với những tổn thất gây ra bởi những rủi ro bất ngờ, không lường trước.
- Các sự cố tổn thất nhỏ và thường xuyên là thông thường đối với hầu hết các
loại hình bảo hiểm kỹ thuật. Vì vậy tất cả các loại hình bảo hiểm kỹ thuật đều áp
dụng mức miễn thường.
b) Loại hình bảo hiểm kĩ thuật nhượng tái chủ yếu:
* Các loại hình bảo hiểm không thể tái tục
Các đơn bảo hiểm loại này được kí kết để bảo hiểm cho các dự án đang trong
giai đoạn xây dựng, lắp đặt. Số tiền bảo hiểm cho những dự án như vậy có thể lên
tới hàng triệu USD. Vì thế bảo hiểm thực sự là nhu cầu cần thiết cho các nhà đầu tư
cũng như các nhà thầu. ở một số nước, bảo hiểm cho các dự án xây dựng, lắp đặt là
bắt buộc. Hầu hết các tổ chức tài chính sẽ không cấp vốn cho các dự án trừ khi
chúng được bảo vệ bằng các đơn bảo hiểm thích hợp.
Thời hạn bảo hiểm, đồng thời cũng là thời gian xây dựng lắp đặt của dự án
bắt đầu ngay sau khi tài sản được bảo hiểm được dỡ xuống công trường hoặc bắt
đầu công việc theo hợp đồng, kết thúc khi công trình được bàn giao cho chủ đầu tư,

Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đưa vào sử dụng hoặc ngày đã được xác định trong hợp đồng bảo hiểm. Vì thế thời
hạn bảo hiểm thực tế được xác định bởi thời gian thi công xây lắp.
Các đơn bảo hiểm loại này đều có phần điều kiện chung và loại trừ chung.
Sau đây là một số điểm chính:
Điều kiện chung:
- Người được bảo hiểm phải thực hiện tất cả các biện pháp đề phòng hợp lý
nhằm ngăn chặn tổn thất hay trách nhiệm xảy ra và tuân theo mọi qui chế, kiến nghị
của nhà sản xuất đưa ra để đảm bảo hoạt động an toàn của máy móc thiết bị. Hơn
nữa, người được bảo hiểm phải duy trì đầy đủ các điều kiện đó.
- Người được bảo hiểm phải báo ngay cho người bảo hiểm bất kỳ sự thay đổi
nào của rủi ro (thay đổi số tiền bảo hiểm, thời hạn xây lắp, tiêu chuẩn thiết kế
v.v ). Điều này rất quan trọng bởi vì những thay đổi như vậy sẽ có tác động đến
các điều khoản, điều kiện về rủi ro đã đồng ý trước đây.
- Trong trường hợp xảy ra sự cố có thể dẫn đến việc đòi bồi thường theo đơn
bảo hiểm, người được bảo hiểm phải ngay lập tức thông báo cho người bảo hiểm và
cung cấp tất cả những thông tin, chứng từ, văn bản theo yêu cầu.
Loại trừ chung:
- Những tổn thất có tính hậu quả như tiền phạt, tổn thất do chậm trễ không
đảm bảo công việc, thiệt hại hợp đồng, công việc ngừng.
- Hành động cố ý hay cố tình sơ xuất của người được bảo hiểm hay đại diện
của họ.
- Rủi ro hạt nhân như phản ứng hạt nhân, phóng xạ hạt nhân hay nhiễm
phóng xạ.
- Rủi ro chính trị như chiến tranh, bạo động dân sự v.v
Một điểm chung của các dự án được bảo hiểm bởi các đơn loại này là thường
hạn chế sự tương đồng trong xây dựng lắp đặt hoặc các loại rủi ro. Địa hình, địa

chất, thuỷ văn, các hiểm hoạ tự nhiên của mỗi rủi ro, các phương tiện phòng cháy
chữa cháy và các nhân tố kỹ thuật khác tất cả đều ảnh bưởng đáng kể đến các nguy
cơ trong quá trình xây lắp và do vậy ảnh hưởng tới việc xác định phí bảo hiểm. Vì
thế trừ những rủi ro đơn giản, đồng nhất như nhà ở cư dân một, hai tầng, không thể
xác lập mức phí với biểu phí cố định. Các rủi ro phức tạp phải được xử lý một cách
riêng rẽ. Mức phí hướng dẫn dựa vào kinh nghiệm và phân tích thống kê giúp các
nhà bảo hiểm xử lý rủi ro nhưng tỉ lệ phí cuối cùng được xác định một cách riêng rẽ
dựa trên các thông tin do người được bảo hiểm cung cấp. Để đảm bảo rằng các
Trịnh Vũ Nghĩa Lớp: Kinh tế Bảo hiểm
K49
25

×