Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế - VIB Hoàng Thạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.37 MB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài
GIẢI PHÁP NĂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ - VIB HOÀNG THẠCH
Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Thanh Tú
Sinh viên: Phạm Việt Phương
Lớp: Tài chính Doanh nghiệp VB2 – K19
Hạ Long, tháng 4 năm 2011
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
LỜI CẢM ƠN
rong suốt hơn hai năm tham gia chương trình đào tạo văn bằng 2 chuyên
ngành Tài chính Doanh nghiệp do Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh
Quảng Ninh phối hợp với Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân tổ chức, em đã nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ không nhỏ của các thầy cô giáo là giảng viên trực tiếp
đến các thầy cô quản lý lớp. Từ việc truyền đạt kiến thức bằng những phương pháp
đào tạo mới, phù hợp với trình độ học viên và yêu cầu của chương trình đến các
hoạt động ngoại khóa.
T
Từ kinh nghiệm thực tế và kiến thức được bổ sung từ chương trình đào tạo em
đã nghiên cứu và thực hiện đề tài tốt nghiệp “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động
vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế - VIB Hoàng Thạch” với sự giúp
đỡ đặc biệt của Tiến sĩ Kinh tế Trần Thị Thanh Tú.
Những vấn đề em đề cập trong luận văn có thể chưa thực sự hoàn chỉnh và còn
hạn chế, em rất mong nhận được sự hỗ trợ của thầy cô để những đánh giá, ý kiến
của mình sẽ có tính khả thi cao khi áp dụng vào thực tế của đơn vị mà em chọn tìm
hiểu và hoàn thiện đề tài.
Em xin trân trọng cảm ơn !
2


Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
MỤC LỤC
2.1.1. Hoạt động huy động vốn 11
2.1.2. Hoạt động sử dụng vốn 11
2.1.3. Hoạt động khác 13
Nguồn tiền được truyền tải đến ngân hàng theo nhiều kênh khác nhau, với
các hình thức phân loại khác nhau: 16
2.2.3.1. Phân loại theo đối tượng khách hàng 16
2.2.3.2. Phân loại theo mục đích huy động 17
Phát hành các giấy tờ có giá: 18
2.2.3.3. Phân loại theo kỳ hạn: 18
2.2.3.4. Phân loại theo loại tiền: 19
Vốn huy động bằng VNĐ 19
Ngân hàng huy động vốn bằng VNĐ thông qua tất cả các hình thức huy
động vốn khác nhau với các mục đích sử dụng khác nhau. Trong nguồn
vốn ngân hàng huy động được thì nguồn vốn huy động bằng VNĐ chiếm
tỷ trọng cao, đáp ứng các nhu cầu về sử dụng vốn của ngân hàng 19
Vốn huy động bằng ngoại tệ 19
Ngoài huy động vốn bằng VNĐ, ngân hàng cũng tiến hành huy động vốn
bằng ngoại tệ. Số vốn huy động bằng ngoại tệ quy ra VNĐ cũng chiếm tỷ
lệ lớn trong hoạt động của ngân hàng. Mục đích huy động vốn bằng
ngoại tệ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế cũng
như các hoạt động kinh doanh ngoại tệ của khách hàng cũng như ngân
hàng 19
Vốn huy động bằng ngoại tệ của ngân hàng chủ yếu là USD hoặc EUR,
và được chia thành các hình thức huy động sau: 19
Như vậy, khi xem xét hiệu quả huy động vốn, chi phí cho một đồng vốn
phải hợp lý, đảm bảo các khoản thu nhập có thể bù đắp được chi phí này
và có lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu này càng thấp thì huy động vốn
càng có hiệu quả. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng để giảm chi phí huy

động vốn thì cần phải giảm lãi suất huy động và có các chi phí quản lý,
bảo quản, dự trữ vốn huy động một cách tối ưu nhất. Việc đưa ra một lãi
suất huy động hợp lý là rất quan trọng, lãi suất không quá cao - đảm bảo
lợi ích ngân hàng, cũng không quá thấp – thu hút được khách hàng gửi
tiền. Đồng thời giảm các chi phí phi trả lãi cũng sẽ làm cho hiệu quả của
hoạt động huy động vốn của ngân hàng hiệu quả hơn 23
4.1.1. Chính sách lãi suất của ngân hàng 27
4.1.2. Mạng lưới huy động vốn của ngân hàng 27
Mạng lưới hoạt động của ngân hàng và các hình thức huy động vốn càng
đa dạng, phóng phú thì kết quả huy động vốn càng nhiều về số lượng do
việc thực hiện được dịch vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ ngân hàng. Các
khoản tiền tiết kiệm của dân cư thường là các khoản tiền nhỏ. Vì vậy,
nếu việc tiếp cận với ngân hàng khó khăn sẽ tạo ra cho khách hàng tâm
lý ngại đến ngân hàng. Với một mạng lưới rộng khắp, tạo ra sự dễ dàng
trong việc tiếp cận ngân hàng của người dân thì Ngân hàng sẽ dễ dàng
thu hút được các khoản tiền gửi đó một cách có hiệu quả 27
4.1.3. Hoạt động marketing của Ngân hàng 28
4.1.4. Tổ chức nhân sự 28
4.2.2. Môi trường kinh tế: 29
4.2.3. Môi trường xã hội: 30
3
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Môi trường văn hoá như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt
của dân cư ảnh hưởng nhiều đến quyết định kinh tế về tiêu dùng và tiết
kiệm của người có thu nhập, mức độ chấp nhận rủi ro khi gửi tiền vào
các tổ chức tín dụng hay quyết định chi tiêu số tiền nhàn rỗi của mình
vào đầu tư bất động sản, động sản, chứng khoán 30
4.2.4. Môi trường pháp lý: 30
Ngân hàng Nhà nước nên tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng, nhất là giữa các ngân hàng

thương mại quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần 49
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
VIB Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc Tế
VIB HOÀNG THẠCH Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc Tế - VIB
Hoàng Thạch
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
Công ty TNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn
CBNV Cán bộ nhân viên
KKH Không kỳ hạn
4
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
LỜI GIỚI THIỆU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
ó thể thấy, trong suốt quá trình đổi mới và hiện đại hóa đất nước, hệ thống
ngân hàng thương mại luôn đóng vai trò quan trọng và là một trong những
trung tâm của nền kinh tế. Mọi sự tác động từ kinh tế thế giới, mọi dấu hiện của
khủng hoảng, lạm phát, suy thoái … đều có thể nhìn nhận qua hệ thống NHTM.
Người ta cũng dễ dàng nhận thấy vai trò số một của hệ thống NHTM trong viêc huy
động vốn cho nền kinh tế mà đặc biệt là tạo vốn phục vụ hoạt động đầu tư, hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vì vốn cũng chính là yếu tố sống
còn của doanh nghiệp.
C
Vai trò quan trọng của hệ thống NHTM thể hiện rõ nét trong suốt hơn 20 năm
tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nó góp phần làm thay đổi cơ bản nền kinh tế
với những chỉ số kinh tế ngày càng khả quan. Những đổi mới của hệ thống ngân
hàng Việt Nam được coi là khâu đột phá, có những đóng góp tích cực cho nền kinh
tế như:
5

Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát,
từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ
mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh;
Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh
và hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là kết quả tác động nhiều mặt của đổi mới
hoạt động ngân hàng, nhất là những cố gắng của ngành ngân hàng trong việc huy
động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển, trong việc đổi mới chính
sách cho vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào tính khả thi và
hiệu quả của từng dự án, từng lĩnh vực ngành nghề để quyết định cho vay. Dịch
vụ ngân hàng cũng phát triển cả về chất lượng và chủng loại, góp phần thúc đẩy
sản xuất kinh doanh;
Thứ ba, tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng
trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền
kinh tế chiếm khoảng 35-37% GDP, mỗi năm hệ thống ngân hàng đóng góp trên
10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước;
Thứ tư, đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động,
góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thông qua nguồn vốn tín
dụng cho các chương trình và dự án phát triển sản xuất kinh doanh, hàng năm hệ
thống ngân hàng đã góp phần tạo thêm được nhiều việc làm mới, nhất là tại các
vùng nông thôn. Việc sử dụng nguồn vốn ngân hàng cho mục đích này ngày càng
có tính chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả, nhất là từ khi tín dụng chính sách
được tách bạch với tín dụng thương mại và giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội
đảm nhiệm;
Thứ năm, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo
phát triển bền vững. Đóng góp này được thể hiện qua công tác thẩm định dự án,
quyết định cho vay vốn ngân hàng cho các dự án và giám sát thực hiện một cách
chặt chẽ sau khi cho vay, các TCTD luôn chú trọng yêu cầu các khách hàng đảm
bảo an toàn và hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay, tuân thủ các cam kết quốc tế và
các qui định về bảo vệ môi trường.

Góp phần vào những đóng góp tích cực cho nền kinh tế, hệ thống NHTMCP
6
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Quốc Tế nói chung và VIB Hoàng Thạch nói riêng đã huy động vốn và cho vay
hàng chục nghìn tỷ đồng cho các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng
đa dạng.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình, những khó khăn, thách thức
mà ngành Ngân hàng Việt Nam gặp phải cũng không là trường hợp ngoại lệ đối với
VIB Hoàng Thạch. Đó là khi mở cửa thị trường tài chính đã làm tăng số lượng các
ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý. Áp lực
cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài
chính nước ngoài, nhất là về mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt
động, hạn chế về đối tượng khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng
mở rộng dịch vụ ngân hàng, trong khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu
kém, trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt động và
sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém. Vì thế, các
NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống
kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn chế nêu trên và sự phân biệt
đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả năng tiếp cận
thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước ngoài
cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có
thể tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài
chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh;
một số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do
sức cạnh tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt
động ngân hàng quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính trong nước cũng làm tăng rủi ro do những tác
động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong
nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối
mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong

trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải
chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên.
Từ thực tế đó cho thấy rằng, để giữ vững vai trò quan trọng của mình, trong đó
7
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
có vai trò huy động và tạo vốn đối với nền kinh tế, các NHTM đã phải nỗ lực hết
sức mình để vượt khó. VIB Hoàng Thạch là một chi nhánh của NHTMCP Quốc tế,
được thành lập từ năm 2007, còn khá trẻ so với các NHTM trên địa bàn. Chính vì
vậy, những khó khăn, thách thức mà đơn vị gặp phải là không nhỏ. Đặc biệt là trong
năm 2010 và những năm tiếp theo, sự khan vốn của thị trường ngày càng trở nên
trầm trọng hơn. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để huy động vốn một cách có hiệu
quả, góp phần thúc đẩy họat động kinh doanh của VIB Hoàng Thạch nói riêng ngày
càng phát triển vững mạnh ?
Sau khi tìm hiểu hoạt động kinh doanh của VIB Hoàng Thạch, em thực sự
quan tâm đến những vấn đề liên quan đến công tác huy động vốn của đơn vị. Cho
rằng những phân tích ở một góc nhìn khác của mình có thể sẽ là một sự lựa chọn tốt
cho đơn vị, và đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP
Quốc tế - VIB Hoàng Thạch” sẽ được trình bày cụ thể trong luận văn này như sau.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN.
Luận văn này được thực hiện nhằm:
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về hiệu quả huy động vốn của NHTM.
Tổng hợp, phân tích và đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn tại VIB
Hoàng Thạch
Đề ra các giải pháp được xem là có tác dụng tốt đối với việc huy động vốn tại
VIB Hoàng Thạch.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN.
Đề tài nghiên cứu tập trung các vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn từ bên
ngoài của NHTM. Phân tích, đi sâu nghiên cứu hoạt động huy động vốn của NHTM
CP Quốc tế - VIB Hoàng Thạch trên các khía cạnh: Các loại hình huy động vốn; quy
mô, cơ cấu, chi phí vốn và tình hình sử dụng vốn trên cơ sở các số liệu của ngân hàng

này từ năm 2008 - 2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
8
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp thực nghiệm, khảo sát thực tế,
thống kê số liệu và thông tin liên quan để phân tích, đánh giá tổng hợp.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của luận văn gồm có 3 chương và mỗi
chương có các vấn đề nhỏ được đưa ra cụ thể để phân tích, đánh giá.
Chương I: Cơ sở lý luận về huy động vốn trong NHTM.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHTMCP Quốc Tế - VIB
Hoàng Thạch
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP Quốc
tế - VIB Hoàng Thạch.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. KHÁI NIỆM NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
heo tổ chức ngân hàng thế giới, ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi
chủ yếu ở dưới dạng không kỳ hạn hay gửi tiền ngắn hạn (tiền gửi không kì
hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm).
T
Tại Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: ”Ngân hàng Thương mại là
loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động khác có liên quan”.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. ”Ngân hàng là các tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính khác so với bất kì
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.

9
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Các nhà nghiên cứu phân loại NHTM theo nhiều dạng khác nhau, như:
Nếu dựa vào hình thức sở hữu thì NHTM được chia thành:
• Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn
của chính họ. Ở Việt Nam chưa có loại hình này.
• Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước
cấp.
• Ngân hàng Cổ phần: Là loại hình ngân hàng được thành lập dưới hình
thức công ty cổ phần, trong đó các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tín
dụng, tổ chức kinh tế xã hội và các cá nhân cùng góp vốn kinh doanh.
• Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của
hai hay nhiều bên. Ở Việt Nam, loại hình này thường được thực hiện giữa
ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng các ưu thế
của nhau.
Nếu dựa vào chiến lược kinh doanh thì NHTM được phân chia thành:
• Ngân hàng bán buôn: Là ngân hàng chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ cho
đối tượng khách hàng tập đoàn, công ty chứ không giao dịch với khách
hàng cá nhân.
• Ngân hàng bán lẻ: Là loại ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch vụ cho
đối tượng khách hàng cá nhân.
• Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ: Là loại ngân hàng giao dịch và cung
ứng dịch vụ cho cả khách hàng công ty và khách hàng cá nhân. Hầu hết
các ngân hàng thương mại Việt Nam đều thuộc loại hình ngân hàng này.
2. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
2.1. Những hoạt động cơ bản của NHTM.
ùng với sự phát triển của nền kinh tế, các tổ chức trung gian tài chính ngày
càng mở rộng phạm vi và loại hình nghiệp vụ khiến cho quan điểm về ngân
C
10

Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
hàng thương mại không còn thống nhất giữa các quốc gia như trước đây. Song, có
thể hình dung NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thực hiện đồng thời 3
nghiệp vụ chính: Hoạt động huy động vốn; hoạt động sử dụng vốn và hoạt động
khác.
2.1.1. Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn ngân hàng huy động được sử dụng để tiến hành cho vay phục vụ
cho nhu cầu phát triển sản xuất, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế của địa
phương và của cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng
và phát triển sẽ càng tạo uy tín và tiền đề cho ngân hàng trong mở rộng quan hệ tín
dụng với các thành phần kinh tế từ đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó,
ngân hàng phải căn cứ vào các chiến lược phát triển của địa phương cũng như của
cả nước để đưa ra các chính sách huy động vốn thích hợp nhất đáp ứng nhu cầu vốn
cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2.1.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Các nguồn vốn sau huy động sẽ được ngân hàng thương mại phân bổ sử
dụng vào các mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng là dự trữ
một phần dưới dạng tiền, phần còn lại được sử dụng vào các nghiệp vụ sinh lời
nhằm tạo ra thu nhập để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi. Các nghiệp vụ sử dụng
vốn rất phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia làm 3
nhóm chính sau:
• Nghiệp vụ chiết khấu:
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá
với mục đích hưởng một mức lợi tức – thường gọi là lợi tức chiết khấu – tương
xứng với chi phí vốn và rủi ro mà ngân hàng phải đảm nhận khi sở hữu các giấy tờ
có giá đó. Các giấy tờ thường được ngân hàng chiết khấu là thương phiếu, các giấy
nợ như trái khoán hay hối phiếu chấp nhận thanh toán. Sau khi chiết khấu, ngân
hàng có thể giữ tài sản này tới lúc mãn hạn hoặc tiến hành tái chiết khấu hay bán lại
trên thị trường tiền tệ.
11

Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
• Nghiệp vụ đầu tư
Nghiệp vụ trong đó ngân hàng tiến hành mua các chứng khoán với mục đích
thu lợi từ việc sở hữu các chứng khoán này. Lợi tức bao gồm lãi của chứng khoán
do nhà phát hành đưa ra và lợi nhuận mà ngân hàng thu được khi bán lại chứng
khoán với giá cao hơn giá mua vào. Nghiệp vụ đầu tư thường được chia thành hai
nhóm: Đầu tư với mục đích thanh khoản và đầu tư với mục đích lợi nhuận.
Với mục đích thanh khoản, ngân hàng nắm giữ chứng khoán là nhằm tối đa
hoá khả năng sinh lời của tài sản trong khi vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản cao.
Các chứng khoán ngắn hạn thường được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì
chúng có thể được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì nhu cầu thanh khoản
với chi phí thấp. Các chứng khoán này đợc xem như dự trữ thứ cấp của ngân hàng.
Ngược lại, với nhóm đầu tư với mục đích lợi nhuận, các chứng khoán trong
nhóm chủ yếu là chứng khoán dài hạn của Chính Phủ với mức lãi cao và ngân hàng
thường nắm giữ chúng cho tới ngày mãn hạn. Đây được xem là một nguồn thu nhập
quan trọng của ngân hàng.
• Nghiệp vụ cho vay
Cho vay là một chức năng, một nhiệm vụ cơ bản nhất của hệ thống ngân
hàng thương mại. Về bản chất, với nghiệp vụ này ngân hàng chuyển giao quyền sử
dụng đối với một lượng vốn nhất định của mình cho một bên thứ hai để đổi lấy thu
nhập về lãi. Đối với ngân hàng, cho vay là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu, là
nguồn thu nhập chính bù đắp các chi phí trong hoạt động của ngân hàng. Với một
ngân hàng trung bình, thu nhập từ cho vay chiếm 70 – 80% tổng số thu nhập. Tuy
nhiên do mối quan hệ logic giữa thu nhập và rủi ro, cho vay cũng là nghiệp vụ tiềm
ẩn nhiều mối lo ngại nhất cho các ngân hàng, trong đó rủi ro lớn nhất mà ngân hàng
thường xuyên phải đối mặt là rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn. Do
vậy trong hoạt động của mình, các cán bộ tín dụng của ngân hàng phải luôn đề cao
tinh thần trách nhiệm, cánh giác không ngừng học hỏi để tránh cho ngân hàng
những tổn thất lớn.
12

Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Nghiệp vụ cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức kỳ hạn gồm 3 nhóm
là cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn; hoặc phân chia theo lĩnh
vực cho vay thành cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng,
Các ngân hàng hiện nay đang rất chú trọng phát triển các dịch vụ cho vay tiêu dùng.
Tuy nhiên, năm 2011 đang bị hạn chế do chính sách của Nhà nước.
2.1.3. Hoạt động khác
Ngân hàng thương mại là hệ thống trung gian tài chính cơ bản trong nền
kinh tế, chủ yếu là hoạt động trong nghiệp vụ trung gian trong thanh toán. Ngân
hàng đóng vai trò là tổ chức đứng giữa bên phải thanh toán và bên hưởng thụ giúp
cho quá trình thanh toán được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả. Trong nền kinh tế
ngày càng phát triển, các mối quan hệ không chỉ diễn ra trong nước mà còn trên
phạm vi toàn thế giới. Nếu không có một hệ thống thanh toán nhanh chóng thuận
tiện thì việc thực hiện các giao dịch, quan hệ kinh tế sẽ gặp phải rất nhiều khó
khăn. Do vậy việc ngân hàng đứng ra đảm nhận chức năng này có một ý nghĩa rất
lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Việc ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh
toán thông qua tài khoản không chỉ tạo cho ngân hàng những nguồn vốn mới mà
còn mang lại cho ngân hàng một nguồn thu nhập thông qua thu phí đối với các
dịch vụ thanh toán.
• Chứng khoán hoá tài sản
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện phát hành chứng khoán đối với
những nhóm tài sản nhất định – bao gồm phần lớn là các khoản nợ. Nghiệp vụ này
mang lại cho ngân hàng các khoản thu về phí dịch vụ như dịch vụ quản lý, giám sát,
thu nợ, đồng thời nó cũng cho phép ngân hàng có thể đẩy nhanh tốc độ quay vòng
tín dụng.
• Bán nợ
Là nghiệp vụ ngân hàng tiến hành bán quyền sở hữu về thu nhập hoặc bán
quyền sở hữu hoàn toàn đối với các khoản vay của mình. Nghiệp vụ này là một
13
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương

phương pháp phổ biến của các ngân hàng trong việc giải quyết các khoản nợ khó
đòi, cho phép ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi một phần trị giá khoản cho vay
khó đòi.
• Bảo lãnh
Với nghiệp vụ này, ngân hàng đứng ra bảo lãnh về một khả năng nào đó -
khả năng thanh toán - của bên được bảo lãnh và cam kết tiến hành thực hiện hoặc
bồi thường nếu bên bảo lãnh không thực hiện được khả năng nêu ra. Nghiệp vụ này
tạo điều kiện cho ngân hàng có thể tận dụng một cách triệt để khả năng đánh giá,
phân tích tài chính của mình trong nỗ lực tối đa hoá lợi nhuận thu về.
2.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại.
2.2.1. Khái niệm về huy động vốn.
gân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ chủ yếu dưới hình thức huy động,
cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy dộng vốn là hoạt động
tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại, nó đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng
tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
N
Vốn huy động là vốn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng mua quyền sử dụng các khoản vốn của ngân hàng trong một thời gian
nhất định và có trách nhiệm hoàn trả số vốn đó theo đúng kế hoạch.
2.2.2. Các loại nguồn vốn trong NHTM.
Nguồn vốn của một ngân hàng thương mại nằm bên phải bảng cân đối kế
toán bao gồm các khoản mục sau:
• Vốn chủ sở hữu:
Đây là loại vốn ngân hàng mà ngân hàng cần phải có để có thể hoạt động ban
đầu và được pháp luật cho phép. Vốn này có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên
trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà
nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau.Tuy nhiên trong quá trình hoạt động,
14
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
ngân hàng cũng gia tăng vốn của chủ thêo nhiều phương thức khác nhau, tuỳ thuộc

vào điều kiện cụ thể. Đó là nguồn từ lợi nhuận và nguồn bổ sung từ phát hành thêm
cổ phần, góp thêm vốn,
• Vốn huy động:
Vốn huy động có vai trò đáng kể trong khoản mục nguồn vốn của bảng cân
đối kế toán của ngân hàng. Vốn huy động là vốn mà ngân hàng cần phải dự trữ bắt
buộc theo tỷ lệ quy định của nhà nước, tuy nhiên lại đóng vai trò rất quan trọng
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động được chuyển đến ngân
hàng thông qua các kênh khác nhau dưới nhiều hình thức khác nhau. Lãi suất của
vốn huy động phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường cũng như các quyết định về lãi
suất huy động của từng ngân hàng.
• Vốn vay:
Trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, nguồn vốn vay nợ là khoản mục
lớn thứ hai bên tài sản nợ sau nguồn vốn huy động. Đối với nguồn vốn này, ngân
hàng không bị đòi hỏi về dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên một trở ngại lớn đối với nguồn
vốn này là chi phí vốn - lãi suất - của các khoản vay này thường cao và thường dao
động với biên độ lớn phụ thuộc vào tình trạng tài chính của ngân hàng xin vay.
Chính vì vậy, ngân hàng chỉ dung tới nguồn vốn vay nợ trong trường hợp
có những nhu cầu thanh khoản đột xuất với quy mô lớn xuất hiện mà các nguồn
vốn huy động hay nguồn tiền từ việc bán các dự trữ thứ cấp là không thể đáp ứng
được. Nguồn vay chính đối với các ngân hàng là từ các khoản tiền gửi của ngân
hàng Trung ương, từ nguồn chiết khấu của ngân hàng Trung ương hoặc từ các
công ty lớn.
2.2.3. Các hình thức huy động vốn và quy trình nghiệp vụ.
Vốn huy động có ý nghĩa quyết định khả năng hoạt động của mỗi ngân hàng
nên nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng thương mại.
Các hình thức huy động vốn ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng vốn huy động được
15
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
vì vậy việc đưa ra các hình thức huy động phù hợp, linh hoạt là điều hết sức cần
thiết đối với ngân hàng bởi như vậy họ mới khai thác được hết các nguồn vốn từ các

doanh nghiệp và cá nhân trong mọi thành phần kinh tế.
Nguồn tiền được truyền tải đến ngân hàng theo nhiều kênh khác nhau, với
các hình thức phân loại khác nhau:
2.2.3.1. Phân loại theo đối tượng khách hàng
Khách hàng là nhân tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên
lại bao gồm nhiều đối tượng khách nhau, rất đa dạng. Chính vì vậy trong hoạt động
của ngân hàng sẽ được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo đối thượng
sử dụng. Đối với hoạt động huy động vốn, dựa theo đối tượng khách hàng thì hoạt
động huy động vốn của ngân hàng được chia thành các hình thức sau: Tiền gửi của
cá nhân; Tiền gửi của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
• Tiền gửi của cá nhân
Khách hàng cá nhân chiếm phần lớn đa số trong đối tượng hoạt động của
ngân hàng. Chính vì vậy, các hoạt động dịch vụ của ngân hàng vói đối tượng khách
hàng này cũng rất đa dạng, đặc biệt đối với hoạt động huy động vốn. Với mục đích
gửi tiền chủ yếu là tiết kiệm, bảo quản, đem lại khả năng sinh lời cho mình thì
khách hàng cá nhân đã đếm lại một lượng vốn huy động đáng kể cho ngân hàng với
số tiền nhãn rỗi của mình. Đồng thời lượng vốn huy động được thì rất ổn định góp
phần làm cho ngân hàng có thể dễ dàng sử dụng lượng vốn này để thực hiện các
hoạt động đầu tư của rmình một cách hiệu quả nhất.
• Tiền gửi của doanh nghiệp:
Không chỉ khách hàng cá nhân mới đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
của ngân hàng mà các doanh nghiệp cũng như các tố chức kinh tế khác cũng góp
phần tạo nên sự đa dạng trong hoạt động của ngân hàng.
Trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng, lượng vốn huy động từ khách
hàng là doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác cũng chiếm phần lớn.
16
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Tuy nhiên mục đích gửi tiền của đối tượng khách hàng này là khác so với
khách hàng cá nhân nên ngân hàng chỉ dử dụng được một phần nhỏ trong lượng
vốn huy động được đó là số dư trên tài khoản của các doanh nghiệp cũng như của

các tổ chức kinh tế. Bởi vì mục đích gửi tiền của đối tượng khách hàng này là
dùng để thanh toán cũng như tiến hàng các giao dịch khác nên lượng vốn huy
động sẽ không có thời gian cố định gây khó khăn cho ngân hàng trong việc đem
vốn đi đầu tư sinh lời. Tuy nhiên không phải lúc nào các doanh nghiệp gửi tiền với
mục đích thanh toán,bởi với số tiền nhãn rỗi sẽ được hưởng lãi nếu doanh nghiệp
gửi tiền gửi có kỳ hạn.
• Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác:
Trên thực tế tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác là vốn vay của ngân hàng
thương mại đối với các tổ chức đó nhằm tạo khả năng thanh toán cho ngân hàng.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, với những ngân hàng có một lượng vốn huy
động lớn có thể đem gửi tại các ngân hàng khác nhằm mục đích hưởng một phần lãi
hoặc được hưởng lãi điều hoà từ hội sở chính của các ngân hàng đó. Điều này giúp
ngân hàng thương mại giảm bớt được một phần chi phí, đem lại lợi nhuận cao hơn
cho ngân hàng.
2.2.3.2. Phân loại theo mục đích huy động.
Nếu phân loại theo mục đích huy động thì bao gồm các hình thức sau:
• Tiền gửi thanh toán:
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, ngân hàng sẽ đáp ứng
nhu cầu thanh toán cho khách hàng khi họ có yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của loại
tiền gửi này rất thấp nhưng thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng những
dịch vụ ngân hàng với mức chi phí thấp.
• Tiền gửi có kỳ hạn:
17
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Nguồn vốn này thường có kỳ hạn xác định trước với một lãi suất cao hơn so
với lãi suất của tiền gửi thanh toán. Có thể nói đây là nguồn vốn có chi phí cao nhất
của ngân hàng. Đồng thời do tính ổn định cao trong kỳ hạn bởi mục đích gửi tiền
của doanh nghiệp hay các cá nhân là để hưởng lãi, các khoản cho vay của ngân
hàng chủ yếu được tài trợ bằng nguồn vốn này.

• Tiền gửi tiết kiệm:
Các tầng lớp dân cư đều có khoản tiền nhàn rỗi, khoản thu nhập chưa sử
dụng đến. Trong điều kiện có thể tiếp cận ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm
nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời. Do lượng tiền nhàn rỗi này của
dân cư được gửi với thời gian cố định nên đây là lượng vốn chủ yếu cho ngân hàng
sử dụng trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, nhằm thu hút ngày
càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi
thói quen giữ tiền tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình
thức huy động vốn đa dang với lãi suất hấp dẫn. Đây cũng là một dạng của tiền gửi
có kỳ hạn nhưng tuy nhiên cũng có một số điểm khác biệt theo quy định của văn
bản pháp luật mà ngân hàng Nhà nước quy định.
• Phát hành các giấy tờ có giá:
Các giấy tờ có giá là công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn
trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho một mục đích nào
đó. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn nên
thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường.
Các giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hàng bao gồm kỳ phiếu,
trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá.
2.2.3.3. Phân loại theo kỳ hạn:
• Tiền gửi ngắn hạn:
Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động trong khoảng thời gian ngắn hạn và
thường xác định là từ 0 cho đến 12 tháng.
18
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
• Tiền gửi trung và dài hạn:
Là vốn mà ngân hàng huy động nguồn vốn trung và dài hạn với thời gian từ
12 tháng trở lên. Đây là nguồn vốn ổn định được ngân hàng sử dụng với mục đích
đầu tư mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
2.2.3.4. Phân loại theo loại tiền:
• Vốn huy động bằng VNĐ

Ngân hàng huy động vốn bằng VNĐ thông qua tất cả các hình thức huy động
vốn khác nhau với các mục đích sử dụng khác nhau. Trong nguồn vốn ngân hàng
huy động được thì nguồn vốn huy động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng cao, đáp ứng các
nhu cầu về sử dụng vốn của ngân hàng.
• Vốn huy động bằng ngoại tệ.
Ngoài huy động vốn bằng VNĐ, ngân hàng cũng tiến hành huy động vốn
bằng ngoại tệ. Số vốn huy động bằng ngoại tệ quy ra VNĐ cũng chiếm tỷ lệ lớn
trong hoạt động của ngân hàng. Mục đích huy động vốn bằng ngoại tệ của ngân
hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế cũng như các hoạt động kinh doanh
ngoại tệ của khách hàng cũng như ngân hàng.
Vốn huy động bằng ngoại tệ của ngân hàng chủ yếu là USD hoặc EUR, và
được chia thành các hình thức huy động sau:
Tiền gửi bằng ngoại tệ cuả các tầng lớp dân cư: Tiền gửi bằng ngoại tệ
của các tầng lớp dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc huy động vốn bằng ngoại tệ
luôn bị tác động mạnh bởi lãi suất ngoại tệ trên thị trường quốc tế và tính
trạng khan hiếm tiền đồng VND.
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCKT - XH: Chủ yếu là các khoản tiền
gửi trong thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn ngắn thường từ 1-3 tháng.
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD khác: Nguồn tiền này chiếm tỷ trọng
cao nhất trong tổng số vốn huy động bằng ngoại tệ. Tại Việt Nam đối tượng cho
vay chủ yếu là các NHTM nhà nước.
19
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Tiền vay bằng ngoại tệ: Cũng giống như tiền vay bằng nội tệ, chỉ khi thật sự
cần thiết NHTM mới đi vay nhất là bằng ngoại tệ với lãi suất cao vàđầy biến động.
Do vậy lượng vay này thường nhỏ.
3. HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
3.1. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng Thương mại.
rong phạm vi bài viết này, tác giả chủ yếu đề cập đến việc nâng cao hiệu quả
huy động vốn từ nguồn vốn bên ngoài.T

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, Ngân hàng cũng như các tổ chức tín
dụng khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ biến động
nào dù nhỏ hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động huy
động vốn không chỉ đánh giá chính xác đúng đắn hoạt động huy động vốn nói riêng
mà còn phản ánh khả năng thích nghi và khẳng định sự phát triển trên thị trường
của Ngân hàng.
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh
giữa kết quả và chi phí thì cần phải so sánh dưới dạng thương số, hoặc kết quả/chi
phí hoặc chi phí/kết quả. Mỗi cách so sánh đó đều cung cấp các thông tin có ý nghĩa
khác nhau. Đặc biệt không thể tính kết quả bằng cách lấy kết quả - chi phí vì như
vậy chỉ cho ra một chỉ tiêu kết quả chứ không phải chỉ tiêu kết quả.
Khái niệm hiệu quả như trên cho thấy rằng chỉ khi nào đạt được kết quả cao
nhất trong điều kiện chi phí thấp nhất mới được coi là có hiệu quả. Tuy nhiên trên
thực tế, việc xác định kết quả nào là cao nhất với chi phí thấp nhất là rất khó.
Vì vậy, hoạt động huy động vốn của một ngân hàng được đánh giá là có
hiệu quả khi đáp ứng được một số những chỉ tiêu cơ bản sau:
• Quy mô, cơ cấu nguồn huy động đủ lớn để tài trợ cho các danh mục
tài sản và không ngừng tăng trưởng ổn định.
• Nguồn vốn có chi phí hợp lý.
20
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
• Huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn về mặt kỳ hạn.
• Quản lý tốt các loại rủi ro liên quan đến hoạt động huy động vốn
3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn.
3.2.1 Quy mô và cơ cấu nguồn vốn từ bên ngoài.
guồn vốn từ bên ngoài của ngân hàng bao gồm nhiều bộ phận khác nhau:
Nguồn tiền gửi, nguồn tiền vay và các nguồn khác. Mỗi thành phần này có
đặc tính khác nhau về qui mô, cơ cấu, tính ổn định, thời gian tồn tại, chi phí phải trả,
khả năng thanh toán và rủi ro lãi suất.

N
Trong đó:
• Qui mô là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng. Qui mô
nguồn huy động gia tăng đáp ứng cho hoạt động tài trợ không ngừng tăng
trưởng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng hoạt động, nâng cao tính
thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn.
• Cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của
ngân hàng. Cơ cấu huy động phải phù hợp với cơ cấu sử dụng. Nếu cơ cấu
nguồn huy động không phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu sử dụng thì
sẽ không tối đa được dư nợ tín dụng vàđầu tư, ngược lại cơ cáu huy động
nhiều mà sử dụng không hết thì hoạt động không hiệu quả, ngân hàng vẫn
phải chịu lãi suất trên phần huy động thừa.
Trong điều kiện cụ thể, các nguồn có thể có tốc độ và quy mô thay đổi khác
nhau. Các ngân hàng lớn có quy mô nguồn lớn thì tốc độ tăng trưởng nguồn có thể
không cao như các ngân hàng nhỏ. Những ngân hàng ở trung tâm tiền tệ có cơ cấu
nguồn khác với các ngân hàng ở xa.
Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng có thể rất khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm
khách hàng, chiến lược kinh doanh và hoạt động Marketing của Ngân hàng.
Nhìn chung cơ cấu nguồn vốn của một ngân hàng được xem là hợp lý
nếu các thành phần của nó đáp ứng được kế hoạch sử dụng vốn, đồng thời với
21
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
chi phí biến động thấp nhất.
Khi huy động với qui mô, cơ cấu như đã trình bày ở trên, ngân hàng sẽ tạo lập
được nguồn vốn tăng trưởng ổn định kết hợp với chi phí vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả: ngân hàng có thể cơ cấu lại được nguồn vốn, mở
rộng qui mô hoạt động, chủ động trong việc chuyển dịch cơ cấu dư nợ, kết quả kinh
doanh khả quan hơn, từ đó nâng cao sức cạnh tranh và uy tín.
3.2.2. Chí phí vốn.
Chi phí huy động vốn của ngân hàng bao gồm chi phí trả lãi và chi phí phi

trả lãi. Trong tổng số chi phí vốn huy động thì chi phí trả lãi là chủ yếu. Ngoài ra
còn có các chi phí khác như: Chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý, dự trữ bắt
buộc, dự trữ thanh toán, chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo để thu hút
khách hàng gửi tiền, chi phí để mở các quỹ tiết kiệm, chi phí mua máy móc thiết
bị, và các chi phí khác liên quan đến hoạt động huy động vốn.
Chi phí trả lãi mà ngân hàng trả cho khách hàng là chi phí trả lãi dựa trên lãi
suất danh nghĩa, lãi suất ngân hàng công bố cho khách hàng. Chi phí này phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như kỳ hạn, loại tiền gửi, mục tiêu gửi tiền của khách hàng,
chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ, tiện ích kèm theo, Tuy
nhiên, lãi suất thực tế của từng nguồn vốn huy động đối với ngân hàng là cao hơn
bởi vì ngoài chi phí trả lãi, Ngân hàng còn phải bỏ ra nhiều loại chi phí khác nữa,
chi phí phi trả lãi. Vì vậy chỉ tiêu Chi phí huy động vốn/tổng vốn huy động được
chia nhỏ ra lam hai chỉ tiêu khác. Đó là:
• Chi phí trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy để huy động được một đồng
vốn thì ngân hàng cần phải trả bao nhiêu tiền dựa trên lãi suất công bố
cho khách hàng.
• Chi phí phi trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy một đồng vốn huy động
được ngân hàng bỏ ra chi phí là bao nhiêu cho việc quản lý, cất giữ, bảo
quản,
Tóm lại chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được dùng để đánh giá
22
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
xem một đồng vốn ngân hàng huy động được cần phải bỏ ra bao nhiêu chi phí.
Như vậy, khi xem xét hiệu quả huy động vốn, chi phí cho một đồng vốn phải
hợp lý, đảm bảo các khoản thu nhập có thể bù đắp được chi phí này và có lợi nhuận
cho ngân hàng. Chỉ tiêu này càng thấp thì huy động vốn càng có hiệu quả. Tuy
nhiên cũng phải thấy rằng để giảm chi phí huy động vốn thì cần phải giảm lãi suất
huy động và có các chi phí quản lý, bảo quản, dự trữ vốn huy động một cách tối ưu
nhất. Việc đưa ra một lãi suất huy động hợp lý là rất quan trọng, lãi suất không quá
cao - đảm bảo lợi ích ngân hàng, cũng không quá thấp – thu hút được khách hàng

gửi tiền. Đồng thời giảm các chi phí phi trả lãi cũng sẽ làm cho hiệu quả của hoạt
động huy động vốn của ngân hàng hiệu quả hơn.
3.2.3. Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn về kỳ hạn.
Sau khi được huy động, vốn được phân chia vào tài sản của Ngân hàng.
Các danh mục tài sản của ngân hàng cũng cần được xem xét dưới giác độ cơ
cấu thời hạn để xác định sự phù hợp với nguồn vốn.
• Trước hết là kỳ hạn danh nghĩa của nguồn:
Nguồn huy động thường gắn với kỳ hạn nhất định, được Ngân hàng tuyên bố,
đó là kỳ hạn danh nghĩa của nguồn. Các kỳ hạn danh nghĩa thường gắn với một mức
lãi suất nhất định, theo xu hướng nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài, lãi suất càng
cao. Kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn. Kỳ hạn
danh nghĩa cóý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Kỳ hạn liên quan
đến tính ổn định và vì vậy liên quan tới kỳ hạn sử dụng. Mặt khác, kỳ hạn liên quan tới
chi phí các nguồn có tính ổn định cao thường phải có chi phí duy trì cao. Vì vậy, kỳ
hạn là một chỉ tiêu đánh giá nội dung đảm bảo an toàn và sinh lời cho ngân hàng.
• Kỳ hạn thực của nguồn:
Từ kỳ hạn danh nghĩa, ngân hàng sẽ đưa ra kỳ hạn huy động phù hợp với thị
trường. Ngân hàng rất quan tâm tới kỳ hạn thực tế của nguồn tiền bởi kỳ hạn thực tế
liên quan chặt chẽ đến kỳ hạn các khoản cho vay và đầu tư.
23
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
Kỳ hạn thực tế của nguồn vốn là thời gian mà khoản vốn đó tồn tại liên tục tại
một đơn vị ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng tới kỳ hạn danh nghĩa đều tác động
đến kỳ hạn thực tế. Bên cạnh đó, lãi suất cạnh tranh giữa các ngân hàng, giữa các
nguồn vốn, nhu cầu chi tiêu đột xuất cũng ảnh hưởng tới kỳ hạn này.
Một nguồn vốn nào đó trong Ngân hàng được tạo ra bởi sự liên tục tiếp nối
của các nguồn tiền gửi và đi vay. Do đó, một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa là ngắn
hạn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là thành nguồn có kỳ hạn thực tế là
trung và dài hạn. Phân tích và đo lường kỳ hạn thực tế là cơ sở để ngân hàng quản
lý thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kỳ hạn ngắn

để cho vay với kỳ hạn dài hơn.
• Phải có khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Thông thường các ngân hàng vẫn sử dụng một phần nguồn vốn có thời hạn
ngắn để đầu tư vào các tài sản có thời hạn dài hơn nhưng chỉ ở một tỷ lệ nhất
định vì nếu lớn hơn nữa tức là sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn thì các
ngân hàng đến một thời điểm nào đó phải chịu sức ép về khả năng thanh toán vì
dư nợ cho vay là một tài sản kém lỏng mà cho vay dài hạn là một loại tài sản
kém lỏng nhất .
Ngược lại, nếu ngân hàng sử dụng nguồn vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn
thì sẽ khó đảm bảo chênh lệch lãi suất và không hiệu quả vì nguồn vốn dài hạn
có chi phí huy động cao hơn trong khi cho vay ngắn hạn thường thấp hơn lãi
suất cho vay trung và dài hạn.
Mô hình cấu trúc kỳ hạn giúp chúng ta phân tích sự phù hợp giữa nguồn
vốn và sử dụng vốn. Dựa vào đó ngân hàng điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn và
danh mục tài sản để vừa nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tăng doanh lợi, đồng
thời duy trì khả năng thanh toán (trường hợp thiếu hụt dự trữ), đầu tư thêm tài
sản sinh lời (trường hợp thừa vốn), hoặc chuẩn bị tái đầu tư cho một tài sản
sắp đến hạn.
Danh mục tài sản và cấu trúc thời hạn của tài sản thường được xây dựng
24
Luận văn tốt nghiệp 2011 Phạm Việt Phương
dựa trên cơ sở qui mô, cơ cấu nguồn vốn. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp
các ngân hàng phải điều chỉnh lại cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp với sử dụng
vốn cho kế hoạch mở rộng kinh doanh hoặc theo chỉ định của Chính phủ để đầu
tư trong giai đoạn đó.
Sự phù hợp còn thể hiện giữa lãi suất và từng nhóm tài sản với lãi suất
phải trả cho từng nguồn vốn. Về nguyên tắc lãi suất trên tài sản phải cao hơn
lãi suất trên nguồn có cùng kỳ hạn và các tài sản có thời hạn dài hơn phải có
lãi suất cao hơn để bù đắp chi phí trả lãi cao hơn của bên nguồn vốn.
3.2.4. Quản lý tốt các loại rủi ro liên quan đến huy động vốn.

• Quản lý rủi ro lãi suất:
Rủi ro lãi suất phụ thuộc vào sự tương quan giữa độ nhạy cảm lãi suất của việc
sử dụng vốn với độ nhạy cảm lãi suất của huy động vốn. Rủi ro này làm thu nhập từ
lãi ròng của ngân hàng giảm xuống (chi phí trả lãi > chi phí thu từ lãi).
Lãi suất luôn biến động. Các nhà quản lý ngân hàng khi đầu cơ trên những biến
động này, cách thức họ làm là sử dụng nguồn ngắn hạn để cho vay hay mua chứng
khoán có thời hạn dài hơn với kỳ vọng lãi suất hạ. Nếu đúng như dựđoán, ngân hàng
có thể bán các chứng khoán có giá trị cao hơn hay giữ các khoản cho vay chứng
khoán để hưởng các khoản thu nhập cao hơn thị trường. Đương nhiên là tình trạng
ngược lại khi lãi suất tăng đến chừng mực nào đó thu nhập lãi không đủ bù đắp chi
phí vốn.
Những thay đổi khó đoán trước của lãi suất có thể làm tăng khả năng sinh lợi của
ngân hàng. Tuỳ thuộc đặc điểm của nguồn vốn và danh mục tài sản thay đổi về lãi suất
có thể làm tăng hay giảm thu nhập ròng từ lãi. Vì vậy, song song với việc quản lý rủi
ro lãi suất các ngân hàng rất quan tâm đến các cơ hội đầu tư nếu lãi suất biến động theo
hướng có lợi.
Để phân tích rủi ro lãi suất có rất nhiều mô hình được áp dụng, trong đó mô
25

×