Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Hoàn thiện cơ chế giám sát tài chính tập đoàn kinh tế nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.71 KB, 112 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 5
1.2.1.1 Giám sát tài chính nói chung: 23
1.2.2.2 Giám sát tài chính tập đoàn kinh tế nhà nước: 23
1.2.2.1 Xuất phát từ nhu cầu của chủ sở hữu: 24
1.2.2.2 Xuất phát từ đặc điểm của các TĐKTNN ở Việt Nam 25
1.2.5.1 Các nhân tố chủ quan: 30
1.2.5.2 Các nhân tố khách quan: 31
Bảng 2.1: Các tập đoàn kinh tế đã được thành lập @nh đến năm 2010 39
2.1.2.1 Định nghĩa về tập đoàn kinh tế nhà nước Việt nam hiện nay: 49
2.1.2.2 Thành phần của tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam hiện nay: 49
2.1.2.3 Đặc điểm về tư cách pháp nhân: 49
2.1.2.4 Phương thức thành lập 50
2.1.2.5 Nguyên tắc quản lý, điều hành của tập đoàn kinh tế nhà nước: 50
2.1.5.2 Tình hình công nợ và chất lượng nợ 61
2.2.1 Cơ chế phân cấp quản lý, thực hiện quyền và nghĩa vụ giám sát tài chính của
chủ sở hữu Nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế : 63
2.2.1.1 Cơ sở pháp lý: 63
2.2.1.2 Đánh giá về thực trạng cơ chế phân cấp quản lý, thực hiện quyền và nghĩa vụ giám sát
tài chính của chủ sở hữu Nhà nước ở Việt Nam: 69
2.2.2.1 Cơ sở pháp lý 72
a.Đối tượng giám sát 72
b.Chỉ Yêu giám sát 74
2.2.2.2 Đánh giá về cơ chế giám sát việc tạo lập và huy động vốn 76
a.Những điểm đạt được: 76
2.2.4. Cơ chế giám sát phân phối lợi nhuận 86
2.2.4.1. Cở sở pháp lý: 86
2.2.4.2. Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước về
phân phối lợi nhuận tại các tập đoàn kinh tế Nhà nước: 88
2.2.5 Cơ chế giám sát hoạt động tài chính, kế toán trong TĐKTNN: 89
2.2.5.1. Cơ sở pháp lý: 89


2.2.5.2. Đánh giá thực trạng cơ chế giám sát hoạt động kế toán trong tập đoàn kinh tế Nhà
nước: 91
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN 107
PHỤ LỤC
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết
tắt
Ý nghĩa
Tiếng Anh Tiếng Việt
1 BTC Bộ Tài chính
2 CIC
China Investment Corporation
(China)
3 DNNN Doanh nghiệp nhà nước
4 EVN Vietnam Electricity Tập đoàn điện lực Việt Nam
5 G &I Governance and Investment
2
Directorate ( singapore)
6 GIC
Government Invesment Corporate
( singapore)
7 HĐQT hội đồng quản trị
8 SASAC
State-owned Assets Supervision
and Administration Commission
(China)
9 SCIC
State Capital Investment

Corporation
10 TCT Tổng công ty
11 TCTD tổ chức tín dụng
12 TĐ Tập đoàn
13 TĐKT Tập đoàn kinh tế
14 TĐKTNN Tập đoàn kinh tế nhà nước
15 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
16 UBND ủy Ban Nhân Dân
17 VHKD Văn hóa kinh doanh
18 VNPT
Vietnam Posts and
Telecommunications Group
Tập đoàn bưu chính viễn
thông
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Các tập đoàn kinh tế đã được thành lập tính đến năm 2010……
……….44
Bảng 2.2: So sánh về mối quan hệ giữa vốn, doanh thu và sử dụng lao động của 3
loại hình doanh nghiệp (nhà nước, dân doanh và FDI)
………………………………….63
Biểu đồ 2.3: Vốn đầu tư vào hoạt động tài chính…………………………
……….65
3
4
LỜI MỞ ĐẦU
Trong khoảng vài năm trở lại đây, các nhà kinh tế, tài chính khắp nơi trên thế
giới đều phải thừa nhận rằng các diễn biến kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên khó
dự báo và kiểm soát. Sự kiện to lớn và gần đây nhất khiến cho hầu hết tất cả các nhà
kinh tế, nhà hoạch định chính sách, nhà phân tích… phải ngỡ ngàng chính là cuộc
khủng hoảng tài chính – kinh tế bắt nguồn từ Mỹ đầu năm 2008. Nền kinh tế lớn

nhất thế giới đã phải chứng kiến sự suy yếu, sụp đổ của hàng triệu doanh nghiệp lớn
nhỏ mà đặc biệt là thảm cảnh của tập đoàn Lehman Brother, một trong những định
chế tài chính lớn nhất và lâu đời nhất tại nước này, cũng như việc các “người khổng
lồ” khác như AIG, Bank of America, GM… cho dù đã được chính phủ Mỹ cứu trợ
nhưng vẫn phải đối mặt với nguy cơ phá sản rất lớn. Sự kiện này đã làm thay đổi
hoàn toàn suy nghĩ của rất nhiều người trước đó về các tập đoàn rằng chúng “quá
lớn để có thể đổ vỡ” và thu hút được sự quan tâm nghiên cứu đặc biệt của các nhà
kinh tế trên toàn thế giới.
Cho tới nay, nguyên nhân được cho là lớn nhất góp phần gây ra cuộc khủng
hoảng trên là sự thả lỏng trong quản lý tài chính và kiểm soát rủi ro tín dụng trong
các hợp đồng tín dụng mua nhà đất của người dân Mỹ. Sự thả lỏng này đã được duy
trì trong một khoảng thời gian đủ lâu, trong khi giá nhà đất tiếp tục bị đẩy lên quá
cao so với giá thực, khiến cho gần như toàn bộ hệ thống các ngân hàng, các quỹ đầu
tư, công ty tài chính Mỹ trở nên yếu ớt và không còn đủ sức kháng cự khi những
hợp đồng tín dụng kể trên bắt đầu bị phá vỡ.
Ngoài rủi ro tín dụng, các cuộc điều tra sau cuộc khủng hoảng cũng đã cho
thấy nhiều điểm bất hợp lý khác tại các tập đoàn lớn này, ví dụ như chính sách
lương thưởng, chính sách đầu tư sang các ngành, lĩnh vực khác…
Phải nhìn nhận thực tế rằng những nguyên nhân trên không chỉ xuất phát trong
hoạt động quản lý từ phía các tập đoàn Mỹ mà còn từ hoạt động giám sát thiếu chặt
chẽ, kịp thời của các cơ quan giám sát tài chính tại nước này. Chính cuộc khủng
hoảng đã là minh chứng vô cùng rõ ràng cho tầm quan trọng của một cơ chế giám
sát tài chính đối với các tập đoàn.
Tại Việt Nam, nhận thấy những lợi ích to lớn của mô hình tập đoàn kinh tế, rất
nhiều các tập đoàn đã xuất hiện trong thời gian gần đây, bao gồm các tập đoàn tư
nhân và các tập đoàn nhà nước với những đặc điểm, nhiệm vụ, mục tiêu và vai trò
5
tương đối khác nhau.
Lý do chọn đề tài:
Quá trình triển khai thí điểm thành lập các TĐKTNN tính tới nay là một

khoảng thời gian tuy không dài (4 năm) nhưng cũng đủ để chúng ta làm quen với
hình thức tổ chức kinh doanh mới này. Việc tìm hiểu kinh nghiệm trong hoạt động
tập đoàn của các nước cũng như rút kinh nghiệm từ những năm vừa qua là một điều
hết sức cần thiết. Những bài học kinh nghiệm sẽ giúp chúng ta tránh được các mất
mát, thất bại một cách dễ dàng hơn.
Hoạt động quản lý tài chính là một trong những hoạt động quan trọng nhất đối
với bất kỳ doanh nghiệp nào. Do vậy, rất cần có sự giám sát đối với hoạt động quản
lý tài chính để ngăn ngừa những sai phạm có thể xảy ra, dẫn đến mất mát tài sản
hoặc ảnh hưởng tiêu cực tới các thành viên khác trong nền kinh tế. Hiện nay, chúng
ta vẫn đang tiếp tục xây dựng hệ thống lý luận về giám sát tài chính trong nước.
Hoạt động giám sát trong các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng đã được triển khai
nhưng trong lĩnh vực kinh tế nhà nước thì vẫn còn bỏ ngỏ mặc dù các TĐKTNN
đang nắm giữ phần lớn sức mạnh kinh tế của cả nước.
Hơn nữa, vấn đề quản lý và giám sát các TĐKTNN, đặc biệt là giám sát tài
chính đã được nhắc đến rất nhiều trong thời gian gần đây khi kết quả giám sát các
TĐKTNN của đoàn giám sát của Quốc Hội năm 2009 đã chỉ ra những tồn tại đáng
kể trong công tác quản lý và về hiệu quả hoạt động của các TĐKTNN.
Cũng bởi thời gian tiến hành mô hình tập đoàn chưa lâu, các quy định về quản
lý tài chính trong tập đoàn của chúng ta thậm chí còn chưa được đầy đủ nên thời
gian qua chúng ta chưa có nhiều nghiên cứu về hoạt động giám sát tài chính các
TĐKTNN, ví dụ như nghiên cứu về tính khả thi trong việc xây dựng cơ quan giám
sát chuyên trách, nghiên cứu về chuẩn mực và tiêu chí giám sát tài chính…
Qua những đánh giá sơ bộ về tầm quan trọng và những lợi ích của hoạt động
giám sát tài chính đối với các TĐKTNN mang lại cho đất nước, chúng tôi quyết
định thực hiện đề tài này.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
Đề tài là công trình tìm hiểu về giám sát tài chính, đặc biệt chú trọng tới giám
sát tài chính đối với các TĐKTNN trong khi chưa có nhiều công trình nghiên cứu đi
sâu vào lĩnh vực này. Đề tài sẽ tập hợp các luận giải, quan điểm về giám sát tài
chính đối với các TĐKT và các TĐKTNN.

6
Kết quả nghiên cứu mà đề tài đạt được có thể là một hướng tham khảo trong
việc xây dựng cơ chế giám sát tài chính đối với các TĐKTNN.
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu với mong muốn có thể đưa ra các phương hướng để
xây dựng, hoàn thiện cơ chế giám sát tài chính đối với các TĐKTNN ở nước ta, bắt
kịp nhu cầu của thực tế.
Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:
- Tập hợp các cơ sở lý luận về TĐKTNN và cơ chế giám sát tài chính đối với
các TĐKTNN trong nước ta cũng như một số nước khác trên thế giới.
- Chỉ ra và đánh giá thực trạng của cơ chế giám sát tài chính (trên phương diện
các quy chế và thực tiễn triển khai) đối với các TĐKTNN trong thời gian vừa qua.
- Đưa ra các giải pháp để có thể hoàn thiện, khắc phục những thiếu sót của mô
hình giám sát tài chính hiện tại.
Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu có đối tượng là cơ chế giám sát tài chính và việc triển khai cơ chế
đối với 8 TĐKTNN bao gồm: TĐ Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam,
Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn bưu chính viễn
thông Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, Tập đoàn Dệt – May
Việt Nam, Tập đoàn Cao su Việt Nam và Tập đoàn Bảo Việt.
Phạm vi nghiên cứu:
- Thực trạng giám sát tài chính đối với 8 TĐKTNN được Nhà nước thí điểm
thành lập đầu tiên trong các năm từ 2006 đến 2008.
- Các cơ chế giám sát, đặc biệt chú ý vào giám sát tài chính của các nước trên
thế giới có các mô hình tập đoàn tương tự mô hình TĐKTNN của Việt Nam là
Singapore và Trung Quốc để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Cơ chế giám sát tài chính trong đề tài sẽ bao gồm các nội dung:
o Cơ chế phân cấp thực hiện nhiệm vụ giám sát tài chính
o Cơ chế giám sát tạo lập và huy động vốn

o Cơ chế giám sát sử dụng vốn và tài sản
o Cơ chế giám sát phân phối lợi nhuận
o Cơ chế giám sát hoạt động tài chính, kế toán
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, quy trình nghiên
cứu gồm 2 bước.
7
Bước 1, thu thập số liệu về các TĐKTNN trong đó quan trọng nhất là báo cáo
về tình hình sử dụng vốn và tài sản, tình hình đầu tư ra ngoài ngành trong 3 năm
2006-2008 của 8 TĐKTNN gửi Bộ Tài chính, Báo cáo năm 2009 của Bộ Tài chính
gửi cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Báo cáo năm 2009 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý,sử dụng vốn, tài sản nhà
nước; các tài liệu liên quan đến mô hình tổ chức kinh doanh tập đoàn; các tài liệu về
chỉ tiêu đánh giá tài chính doanh nghiệp; các văn bản pháp luật trong và ngoài nước
liên quan đến quản lý và giám sát tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước; thực
hiện phỏng vấn một số chuyên gia trong lĩnh vực giám sát tài chính. Từ đó xây
dựng cơ sở về lý thuyết dành cho nghiên cứu.
Bước 2, sử dụng các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp để đánh
giá tình hình tài chính các tập đoàn nhà nước hiện nay; dựa vào mục đích và các yêu
cầu đối với giám sát tài chính để đánh giá hiệu quả của cơ chế giám sát hiện tại;
phân tích sự phù hợp của điều kiện kinh tế- xã hội với cơ chế giám sát tài chính tập
đoàn của các nước để rút ra điểm mạnh, yếu của cơ chế tại mỗi nước, từ đó rút ra
bài học dành cho Việt Nam; so sánh với bối cảnh tại Việt Nam và rút ra bài học
kinh nghiệm. Các ý kiến nhằm hoàn thiện cơ chế được đưa ra trên cơ sở hoàn thiện
các tồn tại trong cơ chế giám sát tài chính đã được tìm ra, đảm bảo phù hợp với định
hướng của Chính phủ để phát triển tập đoàn trong thời gian tới và với xu hướng hội
nhập quốc tế.
Kết cấu của đề tài:
Đề tài “ Hoàn thiện cơ chế giám sát tài chính tập đoàn kinh tế nhà nước” bao
gồm 3 phần chính:

- Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn về giám sát tài chính các
tập đoàn kinh tế.
- Chương 2: Thực trạng cơ chế giám sát tài chính TĐKTNN ở
Việt Nam.
- Chương 3: Đề xuất hoàn thiện cơ chế giám sát tài chính
TĐKTNN ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT TÀI
CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ
8
1.1 Tổng quan về tập đoàn kinh tế
1.1.1 Tập đoàn kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm về tập đoàn kinh tế
Khái niệm tập đoàn kinh tế hiện vẫn còn rất mới đối với sự phát triển của nền
kinh tế Việt Nam.Vậy “ Tập đoàn kinh tế” là gì?
Tập đoàn kinh tế có thể hiểu là một tổ hợp các công ty độc lập về mặt pháp lý,
hoạt động đa ngành (thường không liên quan trực tiếp với nhau), được kết nối với
nhau bởi những mối liên kết pháp lý chính thức (ví dụ như quan hệ vốn sở hữu) hay
không chính thức (ví dụ như quan hệ gia đình).
Khi xét đến các khái niệm,thuật ngữ được sử dụng cho tập đoàn kinh tế, ta
thấy rằng hiện có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tập đoàn kinh tế nhưng hiện tại
chưa có 1 định nghĩa nào là chuẩn mực.Để có cái nhìn tổng thể về tập đoàn kinh tế,
cần xem xét một cách khái quát các khái niệm này ở các nước:
Tại các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, khi nói đến “Tập đoàn kinh tế” người ta
thường sử dụng các từ: “Consortium”, “Conglomerate”, “Cartel”, “Trust”,
“Alliance”, “Syndicate” hay “Group”.
Ở châu Á, trong khi người Nhật gọi TĐKT là “Keiretsu” hoặc “Zaibatsu” thì
người Hàn Quốc lại gọi là “Cheabol”; còn ở Trung Quốc, cụm từ “Jituan Gongsi”
được sử dụng để chỉ khái niệm này (chính xác hơn là Tổng công ty).
Mặc dù về mặt ngôn ngữ, tùy theo từng nước, người ta có thể dùng nhiều từ

khác nhau để nói về khái niệm TĐKT, song trên thực tế, việc sử dụng từ ngữ lại phụ
thuộc vào nguồn gốc xuất xứ và tính chất đặc trưng của từng loại TĐKT:
Ví dụ, “Consortium”, là một từ gốc Latin có nghĩa là “đối tác, hiệp hội hoặc
hội”, được sử dụng để chỉ sự tập hợp của 2 hay nhiều thực thể nhằm mục đích tham
gia vào một hoạt động chung hoặc đóng góp nguồn lực để đạt được mục tiêu chung.
Khi tham gia vào một Consortium, các công ty vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân
độc lập của mình.
Thông thường, vai trò kiểm soát của Consortium đối với các công ty thành
viên chủ yếu giới hạn trong các hoạt động chung của cả tập đoàn, đặc biệt là việc
phân phối lợi nhuận. Sự ra đời của một Consortium được xác lập trên cơ sở hợp
đồng, trong đó quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của từng công ty thành viên tham
gia Consortium;
9
Trong tiếng Anh, từ “Cartel” cũng rất hay được sử dụng để chỉ khái niệm “Tập
đoàn kinh tế”. Cartel là một nhóm các nhà sản xuất độc lập có cùng mục đích là
tăng lợi nhuận chung bằng cách kiểm soát giá cả, hạn chế cung ứng hàng hoá, hoặc
các biện pháp hạn chế khác.
Đặc trưng tiêu biểu trong hoạt động của Cartel là việc kiểm soát giá bán hàng
hoá, dịch vụ nhưng cũng có một số Cartel được tổ chức nhằm kiểm soát giá mua
nguyên vật liệu đầu vào.
Tại nhiều nước, mặc dù bị cấm bởi luật chống phá giá (Antitrust law); tuy
nhiên, nhiều Cartel vẫn tiếp tục tồn tại trên phạm vi quốc gia và quốc tế, dưới hình
thức ngầm hoặc công khai, chính thức hoặc không chính thức.
Cũng cần lưu ý rằng theo khái niệm này thì một tổ chức đơn lẻ nắm giữ thế
độc quyền không phải là một Cartel, dù rằng có thể nó lạm dụng sự độc quyền bằng
cách khác.
Cartel thường có mặt tại những thị trường bị chi phối mạnh bởi một số loại
hàng hoá nhất định, nơi có ít người bán và thường đòi hỏi những sản phẩm có tính
đồng nhất cao;
Trong khi đó, các từ/cụm từ như “Group”, “Business group”, “Corporate

group”, hay “Alliance” thường ám chỉ hình thức TĐKT được tổ chức trên cơ sở kết
hợp tính đặc thù của tổ chức kinh tế với cơ chế thị trường: về đặc trưng, đó là một
nhóm công ty có tư cách pháp nhân riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ liên kết về
phương diện quản lý. Mối quan hệ giữa các công ty trong một TĐKT có thể là
chính thức hoặc không chính thức.
Có một điều đáng lưu ý là khi tồn tại như là một thực thể có tư cách pháp
nhân, thì TĐKT lại được gọi là Conglomerate và/hoặc Holding company.
Các nhà kinh tế học cũng đã đưa ra nhiều định nghĩa về TĐKT; ví dụ:
“TĐKT là một tập hợp các công ty hoạt động kinh doanh trên các thị trường
khác nhau dưới sự kiểm soát về tài chính hoặc quản trị chung, trong đó các thành
viên của chúng ràng buộc với nhau bằng các mối quan hệ tin cậy lẫn nhau trên cơ
sở sắc tộc hoặc bối cảnh thương mại” (Leff, 1978);
“TĐKT là một hệ thống công ty hợp tác thường xuyên với nhau trong một thời
gian dài” (Powell & Smith- Doesrr, 1934);
“TĐKT dựa trên hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ thông qua mối ràng
buộc trung gian, một mặt ngăn ngừa sự liên minh ngắn hạn ràng buộc đơn thuần
giữa các công ty, mặt khác ngăn ngừa một nhóm công ty sát nhập với nhau thành
một tổ chức duy nhất” (Granovette, 1994).
10
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu cũng đã chỉ ra một cách rõ ràng rằng
các TĐKT có thể dựa trên các kiểu liên minh khác nhau như: quan hệ ngân hàng
(Frank & Myer, 1994; Kojima, 1998); sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban giám đốc
(Mizruchi & Galaskiewicz, 1993); các liên minh chủ sở hữu (Kim, 1991); chia sẻ
thông tin (Japelli & Pagano, 1993); các liên doanh (Bergluwf & Perotti, 1994); và
các liên minh kiểu Cartel (Green & Porter, 1984).
Do có nhiều khái niệm khác nhau về tập đoàn,và hình thức tập đoàn kinh tế tại
Việt Nam cũng đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển nên chúng ta cũng chưa thể
đưa ra 1 khái niệm chuẩn cho tập đoàn, tuy nhiên, trong đề tài này, chúng ta sẽ thấy
khái niệm “ tập đoàn kinh tế” được hiểu dựa trên các quy định của luật pháp việt
nam: : “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định,

hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế”.
Tập đoàn kinh tế bao gồm nhóm các công ty có tư cách pháp nhân độc lập,
được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua
lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh
tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh
có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên dưới hình thức công ty mẹ - công ty con.
Và cụm từ "tập đoàn" có thể sử dụng như một thành tố phụ trợ cấu thành tên
riêng của công ty mẹ.
( Theo điều 149 luật doanh nghiệp 2005 và điều 26 nghị định 139/2009)
1.1.1.2 Tất yếu hình thành
Mục tiêu của kinh doanh đó là tối đa hóa lợi nhuận.Khi một doanh nghiệp phát
triển,lợi nhuận thu được tạo ra nhiều vốn tích lũy, doanh nghiệp có mong muốn tiếp
tục tái đầu tư để thu được lợi nhuận nhiều hơn nữa.Nhưng nếu lại vẫn tiếp tục đầu
tư vào chính bản thân doanh nghiệp thì sẽ có các nguy cơ có thể xảy ra:
- Thứ nhất, quy mô kinh doanh “quá tải” và quan liêu trong quản trị doanh
nghiệp do lớn hơn khả năng quản lý của nhà quản trị doanh nghiệp, chuỗi quản trị
trực tuyến sẽ bị kéo dài, cuối cùng, hậu quả là lợi nhuận ít, thậm chí thua lỗ.
- Thứ hai, cung hàng hóa của doanh nghiệp sẽ vượt quá cầu của xã hội, dẫn
đến giảm sút lợi nhuận hay thua lỗ.
- Thứ ba, rủi ro kinh doanh cao cho chủ đầu tư, do “ tất cả trứng đều được bỏ
vào một giỏ”.
Do đó, để khắc phục, hạn chế ba nguy cơ trên, doanh nghiệp này sẽ sử dụng
vốn tích lũy của mình để đầu tư sang các ngành hàng khác, ở các vùng lãnh thổ
khác, do các doanh nghiệp khác kinh doanh bằng nhiều cách, như lập doanh nghiệp
11
mới, mua lại doanh nghiệp đã có, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần đại chúng
đang niêm yết đến mức có quyền chi phối nó Đó là một quá trình dài của sự tích
lũy tư bản.
Cuối cùng, doanh nghiệp ban đầu sẽ trở thành chủ sở hữu vốn hay nắm tỷ lệ
vốn chi phối trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp khác. Rồi thì nó cũng thoát ly

khỏi hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực sản xuất hàng hóa cụ thể, mà chỉ hoạt
động đầu tư, trở thành công ty tài chính hay ngân hàng thương mại với tư cách là
chủ sở hữu vốn chi phối trong vốn điều lệ của nhiều doanh nghiệp khác.
Khi đó, tập đoàn kinh tế hình thành và phát triển theo hướng vừa đa lĩnh vực ngành
hàng kinh doanh, vươn ra thị trường quốc gia và thế giới, vừa đa sở hữu. Trong đó,
công ty mẹ thường cũng là một công ty cổ phần, hoạt động đầu tư vốn vào các
doanh nghiệp con trên quy mô lớn. doanh nghiệp con có thể tồn tại dưới loại hình
công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty TNHH hay công ty TNHH một thành
viên là công ty mẹ.
Từ đó, động cơ dễ thấy đầu tiên nằm đằng sau sự ra đời của các tập đoàn kinh
tế là sự mở rộng về quy mô. Quy mô - được đo lường bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau
như tài sản hay lao động – là một dấu hiệu về sức mạnh. Như vậy, không chỉ có quy
mô công ty trung bình lớn hơn , mà tập đoàn – như là một tập hợp của các công ty
thành viên – cũng sẽ có quy mô vượt trội so với các loại hình tổ chức doanh nghiệp
khác. Chính quy mô vượt trội này cho phép chúng thực hiện được những việc mà
những doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn không làm được, chẳng hạn như thực hiện
những công trình đầu tư đòi hỏi một lượng vốn lớn trong một thời gian dài, hay
chuyển nguồn lực sang một lĩnh vực kinh doanh mới để chớp cơ hội.
Quy mô lớn còn cho phép các tập đoàn đa dạng hóa hoạt động của mình. Trên
thực tế, đa dạng hóa vừa là khả năng, đồng thời là yêu cầu quan trọng đối với các tập
đoàn kinh tế. Việc đa dạng hóa hoạt động kinh doanh có thể một mặt giúp tập đoàn
phân tán rủi ro, mặt khác cho phép tập đoàn sử dụng các năng lực sẵn có của nó như
vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý vào những hoạt động kinh doanh sinh lợi khác.
1.1.1.3 Những đặc điểm cơ bản của tập đoàn kinh tế
Một điểm dễ nhận thấy là các đặc điểm của các tập đoàn kinh doanh cũng luôn
luôn biến đổi do tác động của các điều kiện cụ thể về kinh tế,chính tri, xã hội.Dựa vào
các nghiên cứu đã có về các tập đoàn kinh tế ở các quốc gia như Nhật Bản,Hoa Kỳ,Thụy
Điển, Đức,Hàn Quốc,Thái Lan,… Mặc dù các tập đoàn kinh tế hết sức đa dạng và có
12
nhiều sắc thái khác nhau tùy điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia và trong từng thời kỳ lịch

sử nhưng vẫn có thể rút ra một số đặc điểm chung nhất của chúng như sau:
•Cấu trúc và liên kết tài chính
Hầu hết các tập đoàn kinh doanh là một tổ hợp của nhiều công ty thành
viên.Các công ty thành viên chịu sự chi phối của một công ty lớn nhất, đó là công ty
mẹ.Công ty mẹ nắm cổ phần của các công ty thành viên và tạo thành một cấu trúc
giống như các vệ tinh xoay quanh hạt nhân dựa trên sự kiểm soát.
Ở các thị trường tài chính phát triển, quan hệ sở hữu giữa các công ty thành
viên trong tập đoàn rất phức tạp,đan xen chằng chịt,tạo ra sự phụ thuộc rất chặt chẽ,
các công ty con bị công ty mẹ kiểm soát một lượng lớn cổ phiếu- thường đạt tới tỷ
lệ đủ để chi phối,nhưng ngay giữa các công ty con cũng nắm giữ cổ phiếu lẫn nhau
và chi phối nhau
Ngoài ra còn có một mô hình ít phổ biển hơn khi trong tập đoàn kinh tế, các
doanh nghiệp thành viên có vị thế bình đẳng, Các DN tự ký kết hợp đồng để hình
thành sự chỉ đạo thống nhất.Họ cùng nhau hình thành một cơ quan lãnh đạo tập
đoàn (dưới hình thức một hội đồng tham vấn hoặc tương tự).
•Quy mô lớn và phát huy sức cạnh tranh dựa trên quy mô
Hầu hết các tập đoàn đều có quy mô lớn và phạm vi hoạt động rất rộng.Trong
thập kỷ 80,90, quy mô của các tập đoàn kinh tế đã tiếp tục được mở rộng để tăng
cường sức cạnh tranh.Nhiều tập đoàn lớn có các công ty chi nhánh và văn phòng đại
diện tại hàng trăm nước trên thế giới.Hiện nay,dù ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính,xu hướng sát nhập để mở rộng quy mô của các tập đoàn hiện đang vẫn
diễn ra.
Quy mô của tập đoàn thể hiện ở một số chỉ tiêu như: Tổng số vốn,tổng tài sản
hay doanh thu; Số nước có chi nhánh hoặc văn phòng đại diện;Thị phần đối với một
loại hoặc một nhóm sản phẩm chủ yếu.
•Ngành và lĩnh vực kinh doanh:
Mặc dù đặc điểm nổi bật của tập đoàn kinh doanh là hoạt động đa ngành,
nhưng vẫn có một số tập đoàn kinh doanh trong một lĩnh vực tương đối hẹp.Điều đó
minh họa cho cả 2 xu hướng phát triển tập đoàn kinh doanh.Xu hướng thứ nhất là
phát triển đa dạng hóa, đa ngành nhằm phân tán rủi ro và tăng khả năng chi phối thị

trường.Xu hướng thứ hai là phát triển chuyên môn hóa sâu để khai thác thế mạnh về
chuyên môn, bí quyết công nghệ, uy tín đặc biệt trong ngành.Các xu hướng này thể
13
hiện khác nhau tùy theo ngành kinh doanh, lĩnh vực hoạt động.Tuy nhiên,thường xu
hứng đa dạng hóa thể hiện rõ nét hơn.
Hiện nay,do sức ép ngày càng tăng của cạnh tranh toàn cầu,hầu hết các tập
đoàn đều không ngừng mở rộng cả quy mô và phạm vy hoạt động.Tính chất đa
ngành,đa lĩnh vực đang có chiều hướng vượt trội hơn so với tính chất chuyên
ngành.Một số tập đoàn không chỉ mở rộng lĩnh vựa hoạt động mà còn tìm cách đa
dạng hóa danh mục đầu tư của họ để phân tán rủi ro,thông qua việc nắm giữ cổ
phiếu và các loại tài sản tài chính trong một số ngành khác.
1.1.2 Tập đoàn kinh tế nhà nước :
1.1.2.1 Khái niệm:
Tập đoàn kinh tế nhà nước là các tập đoàn kinh tế mà thuộc sở hữu của nhà
nước (quốc hữu) hoặc phần vốn nhà nước chiếm tỷ trọng lớn đảm bảo quyền chi
phối đối với tập đoàn kinh tế đó.
1.1.2.2 Đặc điểm
Đầu tiên chúng ta thấy rằng các tập đoàn kinh tế nhà nước được hình thành
dựa trên các quyết định hành chính, hình thành từ các tổng công ty nhằm thực hiện
các mục tiêu do nhà nước đề ra.Điều này khác với quá trình hình thành thông
thường của các tập đoàn kinh tế .Trong khi tập đoàn kinh tế thường đi từ việc tập
hợp các doanh nghiệp nhỏ,manh mún thành những doanh nghiệp lớn thông quá quá
trình tích tụ và tập trung vốn.Tập đoàn kinh tế nhà nước lại thường được thành lập
thông qua việc cơ cấu, sắp xếp,gộp chung các doanh nghiệp nhà nước lại với nhau.
Từ khác biệt về nguồn gốc hình thành dẫn đến mục tiêu hoạt động của các tập
đoàn kinh tế nhà nước cũng sẽ có sự khác biệt: bên cạnh mục tiêu lợi nhuận của
hoạt động kinh doanh, các tập đoàn kinh tế nhà nước phải ưu tiên cho các mục tiêu
của nhà nước: ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển toàn diện nền kinh tế,…
Do đây là một mô hình tập đoàn kinh tế đặc biệt, có mặt tại số ít nước trên thế
giới, đồng thời các nghiên cứu,đề tài về vấn đề này trên thế giới không nhiều.Nên

việc phân tích các đặc điểm cơ cấu tổ chức và quản lý hoạt động của tập đoàn kinh
tế nhà nước cũng như các đặc điểm khác cũng sẽ được nói rõ hơn trong phần tổng
kết về quá trình hình thành và kết quả đạt được của mô hình tập đoàn kinh tế nhà
nước tại Việt Nam.
1.1.3 Mô hình tổ chức và hoạt động của tập đoàn kinh tế
Phạm vi của nghiên cứu trong đề tài này không đi sâu vào nghiên cứu các mô
14
hình tập đoàn mà chỉ đưa ra các nội dung cơ bản nhằm làm căn cứ để nghiên cứu
sâu vào tập đoàn kinh tế nhà nước
Về mô hình tổ chức của tập đoàn, dựa trên sự phát triển về mô hình theo hướng
càng ngày sự liên kết càng chặt chẽ, có một số mô hình tổ chức chủ yếu như sau:
Mức độ 1:
Quan hệ liên kết giữa các thành viên tương đối lỏng lẻo thông qua các thỏa
thuận hoặc cam kết hợp tác.Trong hình thức này, các công ty thành viên tham gia
tập đoàn chỉ chịu sự ràng buộc tương đối lỏng lẻo, các thành viên có tính độc lập
cao.Thông thường, cơ sở tồn tại của loại hình tập đoàn này là các thỏa thuận hoặc
hợp đồng tạo ra sự liên kết “mềm” giữa các thành viên để tăng thêm lợi thế cho
nhóm các thành viên đó.Về mặt lịch sử, hình thức liên kết này có từ rất rất sớm,
Cartel thuộc hình thức này.
Cartel là hình thức liên kết giữa các công ty hoạt động trong cùng một lĩnh
vực , một ngành thậm chí có cùng sản phẩm giống nhau.Thực ra, mối liên kết giữa
các công ty trong Cartel chỉ thuần túy là sự cam kết đối với một số điều khoản nhất
định nhằm tránh cạnh tranh trực tiếp với nhau.Các công ty tham gia Cartel vẫn giữa
nguyên tư cách pháp nhân và tính độc lập của chúng.Thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư
bản độc quyền, rất nhiều tập đoàn Cartel được hình thành.Tuy nhiên, để đảm bảo
tính cạnh tranh trên thị trường,hầu hết các nước có luật chống độc quyền, chống
những liên minh Cartel ngăn cản cạnh tranh.
Nguyên nhân thúc đẩy sự liên kết và liên minh giữa các công ty là do những
thay đổi của nền kinh tế trong nước và trên thế giới, môi trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt, các hoạt động kinh doanh không ngừng mở rộng đòi hỏi quy mô vốn

lớn và trình độ cao hơn nữa.SỰ liên kết trên có thể tạo ra ưu thế kinh tế của hợp tác
và lợi dụng được tính kinh thế nhờ quy mô.Do đó, thúc đẩy các công ty phải tìm
kiếm những sự liên kết có lợi cho từng công ty và cả nhóm các công ty để có thể tồn
tại và phát triển.
Hình thức của liên kết rất đa dạng,các công ty có thể thỏa thuận về một số mặt
hợp tác trong một số lĩnh vực như:
- Chính sách giá cả
- Khối lượng sản phẩm cung cấp
- Tiêu chuẩn kỹ thuật
- Hợp tác về công nghệ
15
- Thị trường tiêu thụ
Mức độ 2:
Mối liên kết của các công ty thành viên rất chặt chẽ,mức độ phụ thuộc lẫn
nhau rất cao,các đơn vị thành viên bị hạn chế tính độc lập.Nói chung với hình thức
này,cơ sở kinh tế của sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ tập đoàn là quyền sở hữu,
giữa các công ty thành viên có sự nắm giữ cổ phiếu của nhau hoặc có 1 công ty
mạnh nhất chi phối cả tập đoàn.Về mặt cấu trúc, dạng này lại có thể chia ra:
a- Các công ty thành viên có sự liên kết dọc về công nghệ và sử dụng sản
phẩm ( đầu ra ) của nhau.Chẳng hạn:
b- Các công ty thành viên có liên kết theo chiều ngang, các công ty có quan
hệ với nhau về sản phẩm hay dịch vụ bổ trợ cho nhau hoặc các sản phẩm và cho
cùng một nhóm khách hàng hoặc cùng một nhóm mục tiêu sử dụng.
c- Các công ty thành viên liên kết theo kiểu hạt nhân, giữa chúng có sự liên kết
về công nghệ hoặc thị trường… nhưng xoay quanh một nhóm sản phẩm mũi nhọn
Đương nhiên chúng ta có thể thấy là các mối liên kết và hình thức nói trên là
tương đối,luôn biến đổi do tác động của môi trường kinh tế,xã hội và tiến bộ khoa
học kỹ thuật.
Mức độ 3:
Do sự phát triển cao của thị trường tài chính,hình thành kiểu tập đoàn có hạt

nhân liên kết là công ty tài chính.Công ty mẹ là công ty tài chính nắm giữ cổ phần
chi phối các công ty con.Sự phát triển cao của thị trường tài chính và công nghệ
thông tin cho phép một công ty chi phối một hoặc nhiều công ty khác thông qua
quyền sở hữu cổ phiếu.Các công ty trong tập đoàn vì vậy không cần phải có mối
liên hệ về sản phẩm,công nghệ hay kỹ thuật.
Hình thức công ty mẹ- công ty con thuộc loại này đang trở nên phổ biến.Khái
niệm công ty mẹ được đưa ra như sau:” Là một công ty kiểm soát một hoặc nhiều công
ty khác,thông thường bằng cách nắm giữ đa số cổ phiếu của các công ty chi nhánh.Đối
với một công ty mẹ, có thể có trường hợ nó kiểm soát một lượng lớn các công ty với số
vốn tập hợp lại lớn hơn rất nhiều vốn của chính nó vì công ty mẹ chỉ cần nắm giữ một
nửa hay ít hơn một nửa số cổ phiếu của các công ty con trong tập đoàn”
Conglomerate là hình thức liên kết giữa các công ty không cùng ngành.Có
định nghĩa về nó như sau:” Một tổ chức kinh doanh, nói chung, bao gồm một công
ty mẹ và một nhóm các công ty con liên kết với nhau trong những hoạt động kinh
doanh không giống nhau”.Dới hình thức này, tập đoàn có đặc điểm đa ngành,đa lĩnh
16
vực.Các công ty thành viên chịu sự chi phối và kiểm soát của công ty mẹ, những
giữa chúng có thể có sự khác nhau lớn về kỹ thuật và công nghệ.Các công ty mẹ có
thể thay đổi hệ thống của tập đoàn thông qua việc mua bán quyền sở hữu hoặc sát
nhập,thôn tính các công ty con.
Với sự phát triển của thị trường chứng khoán, trong Conglomerate, thông
thường công ty mẹ là một công ty tài chính hoặc gắn với công ty mẹ là các công ty
tài chính hoặc ngân hàng thương mại, do vậy thế lực của loại tập đoàn này rất
lớn.Tên của tập đoàn thường lấy theo tên của công ty mẹ.
Ngoài ra, theo một hướng tiếp cận khác, tập đoàn kinh tế còn có thể chia thành
các dạng sau:
Tập đoàn công nghệ
- Đây là một tổ chức kinh tế hội tụ các doanh nghiệp có quan hệ mật thiết
xung quanh một dây chuyền công nghệ khép kín, từ khai thác, cung ứng nguyên vật
liệu, sản xuất và bán sản phẩm, đến nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới v.v Các

doanh nghiệp ở nhóm này thường tập trung trên một vùng lãnh thổ nhất định và
điều này càng có ý nghĩa chiến lược trong việc phát triển kinh tế khu vực. Thế mạnh
của mô hình tập đoàn công nghệ là mức độ tập trung nội lực cao, thu hút được đầu
tư trọng điểm vào công nghệ, cơ cấu tổ chức quản lý rành mạch. Doanh nghiệp nào
đóng vai trò chủ chốt trong mắt xích công nghệ sẽ được chọn làm hạt nhân. Mối
quan hệ với các doanh nghiệp thành viên khác phải được thiết lập theo cơ chế thị
trường, phù hợp với 6 nguyên tắc cơ bản đã nêu trên.
Tập đoàn tài chính
- Đây là mô hình phổ biến, được ứng dụng rộng rãi ở rất nhiều nước trên thế giới.
Chính vì thế đã có nhiều bài viết chi tiết về cấu trúc của mô hình này, ở đây chúng tôi
chỉ xin lưu ý thêm một điểm: nếu như mô hình tập đoàn công nghệ lấy phân hệ sản
xuất làm hạt nhân, thì ở đây phân hệ tài chính sẽ là trọng điểm. Do vậy, để bảo đảm
việc quản lý hiệu quả dòng chảy tài chính của tổ chức kinh tế mới này cần phải huy
động được nguồn vốn tư bản hùng hậu và một thể chế tài chính phù hợp.
Mạng kinh tế
- Đây là một mô hình liên kết doanh nghiệp tương đối mới và có nhiều ưu
điểm phù hợp với kinh tế nước ta hiện nay. Có thể hiểu nôm na mạng kinh tế là một
tổ chức trong đó nối kết các chủ thể kinh tế độc lập vào một mạng thống nhất với
mục đích tăng hiệu quả hoạt động kinh tế của từng thành viên và của toàn hệ thống.
Hiệu quả của mạng đạt được thông qua việc các thành viên cùng sử dụng những
nguồn lực chung, thu nhỏ đến mức tối thiểu các chi phí phát sinh, đặc biệt là chi phí
17
hợp đồng. Quan hệ giữa các doanh nghiệp trong mạng là quan hệ tối tác, trên cơ sở
hợp đồng ký kết. Chính vì vậy mạng kinh tế đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của
tổ chức kinh tế hiện đại: mềm dẻo trong cấu trúc, năng động trong quản lý và bền
vững trong phát triển. Nhưng bên cạnh đó, với bản tính nối kết các đơn vị kinh tế
độc lập (chứ không phải là hợp nhất), mạng kinh tế cho phép các thành viên với
những trình độ phát triển rất khác nhau cùng hoạt động hiệu quả. Và điều này có ý
nghĩa đặc biệt với nền kinh tế đang chạy đua cùng thời gian của chúng ta.
Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng theo sự phát triển của nền kinh tế, các mô

hình tập đoàn mới sẽ được hình thành với mối quan hệ ngày càng gắn bó chặt chẽ,
phức tạp.
1.1.4 Cơ chế quản lý tài chính đối với các tập đoàn kinh tế
1.1.4.1 Khái niệm cơ chế quản lý tài chính:
Cơ chế quản lý tài chính là một khái niệm khá phức tạp và còn nhiều ý kiến
khác nhau do sự khác nhau về góc nhìn và quan niệm về nội hàm- bản chất bên
trong của khái niệm này. Nguyên nhân cụ thể về sự không thống nhất về khái niệm:
- Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp là một phạm trù tương đối trừu tượng,
không hoàn toàn định hình rõ ràng và tương đối khó lượng hóa
- Bản thân cơ chế quản lý tài chính là một phạm trù có tính lịch sử, luôn gắn
liền với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử khác
nhau.Cơ chế quản lý tài chính không đứng yên,trái lại luôn luôn thay đổi,thậm chí
thay đổi rất lớn.Do vậy các khái niệm về cơ chế quản lý tài chính cũng thường
xuyên thay đổi và đổi mới theo thực tiễn kinh tế- xã hội.Các tập đoàn kinh tế nhà
nước đang trong giai đoạn mới hình thành,chắc chắn đang trong quá trình đổi mới,
hoàn thiện.Sự đổi mới đó không thể tách rời quá trình điều chỉnh và thay đổi cơ chế
quản lý tài chính đối với các tập đoàn.Thậm chí, nhiều vấn đề ngày hôm nay có sự
thay đổi hoàn toàn,khác hoàn toàn so với thời kỳ trước đó.
- Hiện tại của nước ta, hầu hết các đều chưa có nhiều kinh nghiệp trong cơ chế
thị trường nên vấn đề cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp đặc biệt là ở các tập
đoàn kinh tế nhà nước chưa có nhiều tài liệu,kinh nghiệm.Có ít sách báo, tư liệu
nghiên cứu chuyên biệt và sâu về mảng này, vừa thiếu về số lượng cũng như tản
mạn và chưa sâu về nội dung.
( Bên cạnh đó cũng thấy,ở trong một số tài liệu,nghiên cứu khái niệm “ cơ chế
quản lý tài chính” và khái niệm “ cơ chế tài chính” cũng được dùng với cùm hàm ý
nói về cơ chế quản lý tài chính.)
18
Với những nguyên nhân được nêu trên, khái niệm “ cơ chế quản lý tài chính”
hiện tại vẫn chưa có sự thống nhất.Khi đề cập đến vấn đề quản lý tài chính hoặc có
liên quan đến quản lý tài chính, hầu hết các tác giả ngầm định rằng không cần phải

giải thích về thuật ngữ “ cơ chế quản lý tài chính” và coi như đã thống nhất cách
hiểu về nó.
Chúng ta có thể lấy một khái niệm đã được đưa ra trong cuốn “ Mô hình công
ty mẹ- công ty con và tái cơ cấu tài chính các tổng công ty lớn” của PGS-TS Phạm
Quang Trung:
“ Cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp là một hệ thống tổng thể các
phương pháp, các hình thức,và công cụ được vận dụng để quản lý các hoạt động tài
chính của doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhẳm đạt dược những mục
tiêu nhất định.”
Các hoạt động tài chính của các doanh nghiệp- hiểu theo nghĩa rộng,bao hàm
các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế trong đó có sự vân động hoặc sự biểu
hiện của tiền tệ thông qua các quan hệ tiền tệ.Cốt lõi của các mối quan hệ đó là
những quan hệ về giá trị được biểu hiện dưới các sắc thái khác nhau.Hình thức biểu
hiện của các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp nói chung và các tập đoàn kinh
tế nói riêng là hết sức đa dạng và linh động phụ thuộc nhiều yếu tố.
Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp có nhiều nhóm,chẳng hạn:
- Hoạt động huy động vốn: các hoạt động vay vốn của ngân hàng thương mại,
vay của các công ty và cá nhân, phát hành cổ phiếu,trái phiếu,v.v…
- Hoạt động sử dụng vốn và tài sản: các hoạt động sử dụng vốn: đầu tư…, xác
lập cơ cấu vốn, phân bổ tài sản,quản lý tài sản cố định,tài sản lưu động,đầu tư,khai
thác,đổi mới tài sản, v.v…
- Hòa động phân phối lợi nhuận,hình thành và sử dụng các quỹ của tổng công
ty và của các doanh nghiệp thành viên
- Hoạt động kiểm soát tài chính với những nghiệp vụ về kế toán,kiểm
toán,cung cấp và phân tích thông tin tài chính, phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp để phục vụ quá trình quản lý doanh nghiệp.”
1.1.4.2 Cơ chế quản lý tài chính đối với các tập đoàn kinh tế
Đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước, cơ chế quản lý tài chính đối với các tập
đoàn này có các nét chính sau:
Tiền thân là các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt

động theo Luật DNNN 1995 và các Nghị Định của Chính Phủ , sau đó do nhu cầu
19
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN
nói chung và tập đoàn kinh tế nói riêng, Luật DNNN 2003 của Quốc hội và NĐ
199/2004 của chính phủ đã được ban hành.
Trong giai đoạn này , việc quản lý vốn tài sản của nhà nước tại công ty nhà
nước được Chính phủ phân cấp cho Thủ tướng chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh làm đại diện chủ sở hữu,; Hội đồng quản trị hoặc giám đốc( nếu không có
HĐQT) làm đại diện trực tiếp vốn nhà nước tại công ty nhà nước,; Tổng công ty
đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn
nhà nước tại các công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên do nhà nước năm giữ
100% vốn điều lệ, các công ty cổ phần có vốn nhà nước góp được cổ phần hóa từ
các doanh nghiệp độc lập trực thuộc Bộ, ngành, địa phương.
Đồng thời, để thực hiện chức năng giám sát của chủ sở hữu vốn, nâng Cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, gắn trách nhiệm của Ban quản lý điều hành
doanh nghiệp với kết quả sản xuất kinh doanh , Bộ tài chính đã tham mưu trình thủ
tướng quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN ban hành kèm
quyết định 224/2006 ngày 6/10/2006.
Tuy nhiên sau 4 năm thực hiện NĐ số 199 /2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 quy
định quy chế quản lý tài chính công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư ở
doanh nghiệp khác, những bất cập liên tục nảy sinh, những điểm không phù hợp với
thực tiễn như 1 số TCT nhà nước đã huy động vốn để sản xuất kinh doanh trên 3 lần
vốn chủ sở hữu, đầu tư dàn trải vào những lĩnh vực ngành nghề không thuộc lĩnh
vực kinh doanh chính ( chủ yếu), người đại diện tại nhiều nơi chưa làm đúng, đủ
trách nhiệm… Vì vậy, sau khi lấy ý kiến tham gia từ các Bộ ngành địa phương; thảo
luận và lấy ý kiến đóng góp tại chính các tập đoàn, TCT nhà nước, BTC đã trình
chính phủ ban hành NĐ số 09/2009/NĐ-CP ngày 5/2/2009 thay thế Nghị định số
199/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 quy định quy chế quản lý tài chính tại công ty
nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư ở doanh nghiệp khác
*/ Theo cơ chế hiện hành, việc quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp

cơ bản được thực hiện như sau:
•Về vốn điều lệ:
Khi thành lập doanh nghiệp mới hoặc điều chỉnh lại mức vốn điều lệ cho phù
hợp với quy mô, cơ cấu của DN, đại diện chủ sở hữu thống nhất với BTC về mức
vốn và nguồn vốn thực hiện.Công ty nhà nước có thể được cấp vốn điều lệ từ nguồn
20
ngân sách.Tuy nhiên việc sử dụng nguồn vốn ngân sách để tăng vốn điều lệ do CP
và QH quyết định.
Riêng việc sử dụng Quỹ sắp xếp doanh nghiệp của tập đoàn,TCT,CTy mẹ để
tăng vốn điều lệ phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
•Về đại diện chủ sở hữu:
- Theo phân công, phân cấp của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ trực tiếp
thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với vác tập đoàn, tống công ty nhà
nước đặc biệt quan trọng
- Bộ, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước
tại các công ty nhà nước do Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập
- Bộ Tài chính thực hiện một số quyền và nghĩa vụ của đại diện của sở hữu
công ty nhà nước
- HDQT là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại công ty nhà nước có HDQT
do minh đầu tư toàn bộ vốn điều lệ theo các quy định tại Luật DNNN
- Đối với vốn nhà nước đầu tư tại các công ty cổ phần được quy định như sau:
+ Các công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp thành viện, công ty
con thuộc TDKT, TCT, CTy mẹ do các TDKT,TCT,CTy mẹ tiếp tục thực hiện chức
năng đại diện chủ sở hữu
+ Các công ty cổ phần được chuyển đổi từ công ty nhà nước độc lập trực
thuộc Bộ, Ngành,địa phương do TCT ĐT và KD vốn nhà nước thực hiện chức năng
đại diện vốn chủ sở hữu
Riêng đối với các tập đoàn, TCT nhà nước thực hiện cổ phần hóa, tùy từng
trường hợp cụ thể, thủ tướng chính phủ giao cho bộ quản lý ngành hoặc tổng côn ty
Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu

•Trao quyền và nghĩa vụ cho công ty nhà nước trong việc sử dụng vốn, huy
động vốn, đầu tư ra ngoài công ty nhà nước
- Công ty nhà nước được quyền chủ động sử dụng vốn nhà nước giao, các loại
vốn khác, các quỹ do công ty nhà nước quản lý và sử dụng vào hoạt động kinh
doanh. Chịu trách nhiệm về bảo toàn, phát triển vốn , hiệu quả sử dụng vốn.
- Công ty nhà nước được quyền quyết định hợp đồng vay vốn có giá trị lớn
bằng 3 lần vốn điều lệ.Đối với công ty nhà nước có nhu cầu vay vượt quá 3 lần vốn
điều lệ phải báo cáo đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định trên cơ sở các dự án
huy động vốn có hiệu quả.Sau khi quyết định, đại diện chủ sở hữu có trách nhiệm
thông báo với Bộ tài chính để phối hợp theo dõi và giám sát.
- Công ty nhà nước được quyền sử dụng vốn và tài sản thuộc quyền quản lý
của công ty nhà nước vào doanh nghiệp phải tuân thủ quy định của pháp luật, phù
21
hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công ty nhà nước,không làm ảnh
hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh được nhà nước giao;
đảm bảo nguyên tắc có hiệu quả,bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập
Tuy nhiên để quản lý việc sử dụng vốn đầu tư hiệu quả, tập trung vào các nhiệm
vụ chính, CP cũng quy định các công ty nhà nước phải sử dụng tối thiểu 70% tổng
nguồn vốn đầu tư vao doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực thuộc ngành nghề
kinh doanh chính của công ty.Tổng mức đầu tư ra ngoài công ty nhà nước( bao gồm
đầu tư ngắn hạn và dài hạn) không vượt quá mức vốn điều lệ của công ty nhà nước.
Riêng đối với hoạt động đầu tư góp vốn vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm,
chứng khoán, công ty nhà nước được đầu tư vào mỗi lĩnh vực một doanh nghiệp;
mức vốn đầu tư không được vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức nhận vốn góp,
mức vốn góp vủa công ty mẹ và các công ty con trong tổng công ty, tập đoàn không
được vượt quá mức 30% vốn điều lệ của tổ chức nhận vốn góp.TH đặc biệt do thủ
tướng chính phủ xem xét quyết định
•Cơ chế phân phối lợi nhuận của công ty nhà nước cũng được gắn với hiệu
quả sản xuất kinh doanh và kết quả xếp loại của doanh nghiệp.các doanh nghiệp có
đặc thù về cơ cấu vốn được điều chỉnh bổ sung cơ chế phân phối lợi nhuận.Riêng

đối với các doanh nghiệp không thực hiện đánh giá, xếp loại theo quy định thì
không được trích lập quỹ khen thưởng,phúc lợi.
•Quyền lợi và nghĩa vụ của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh
nghiệp khác được quy định rõ rang.Người đại diện chuyên trách ngoài việc hưởng
lương,phụ cấp trách nhiệm,tiền thưởng và các quyền lợi các quyền lợi khác theo
quy định tại điều lệ doanh nghiệp khác, còn được phụ cấp do đại diện chủ sở hơux
chi trả và nguồn được lấy từ lợi nhuận được chia từ vốn nhà nước góp vào doanh
nghiệp đó.Đối với người đại diện là thành viên kiêm nhiệm không tham gia chuyên
trách thì tiền lương,phụ cấp trách nhiệm( nếu có), tiền thưởng và các quyền lợi khác
theo quy định do chủ sở hữu vốn chi trả.Ngoài ra người đại diện còn được quyền
mua cổ phiếu phát hành thêm,trái phiếu chuyển đổi theo quyết định của chủ sở hữu
vốn nhà nước.
*/ Việc BTC đề nghị thủ tướng chính phủ thành lập TCT đầu tư và kinh doanh
vốn nhà nước để tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty
TNHH 1 thành viên,công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ,ngành,địa phương thực
hiện cổ phần hóa có ý nghĩa quan trọng trong việc đổi mới cơ chế đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nước.Tạo quyền chủ động và tự chủ cho các DNNN trong hoạt động
22
kinh doanh,hướng dẫn quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước và quản
lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp khác; tổng kết rút kinh nghiệm để hoàn thiện
chính sách về sắp xếp , chuyển đổi sở hữu DNNN.
Với tình hình nêu trên,cơ chế quản lý tài chính đối với DNNN về cơ bản đã
đồng bộ với các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước.Các doanh nghiệp trong và
ngoài khu vực nhà nước đang áp dụng chung chính sách thuế,đầu tư,tín dụng.Việc
hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh cũng được áp dụng chính sashc chung như các
doanh nghiệp được hưởng chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư về miễn giảm
thuế và các khoản nộp nhân sách nhà nước khác.Việc kiểm soát các giao dịch về
huy động vốn; về đầu tư tài sản cố định;đầu tư vốn vào doanh nghiệp khác;nhượng
bán thanh lý tài sản;quản lý doanh thu,chi phí cũng quy định tương tự như các DN
hoạt động theo Luật DN.

1.2 Cơ chế giám sát tài chính tập đoàn kinh tế
1.2.1. Khái niệm cơ chế giám sát tài chính các tập đoàn kinh tế Nhà nước
1.2.1.1 Giám sát tài chính nói chung:
Giám sát là hoạt động kiểm tra, theo dõi tất cả các khía cạnh liên quan tới kết
quả của một công việc hoặc quá trình thực hiện một công việc mà một người hay
một nhóm người nào đó đảm nhiệm để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu đã đề ra
một cách hiệu quả.
Giám sát tài chính là hoạt động kiểm tra, theo dõi các hoạt động tài chính của
đối tượng được giám sát (khách thể của hoạt động giám sát) nhằm giúp cho giám
sát viên nắm bắt được tình hình, thực trạng hoạt động của đối tượng giám sát và qua
đó kịp thời đưa ra các điều chỉnh, thay đổi nếu cần thiết để có thể đạt được các mục
tiêu đã đề ra. Các hoạt động tài chính bao gồm hoạt động tạo lập và huy động vốn,
hoạt động sử dụng vốn và tài sản, hoạt động phân phối lợi nhuận, hoạt động tài
chính, kế toán.
1.2.2.2 Giám sát tài chính tập đoàn kinh tế nhà nước:
Giám sát tài chính TĐKTNN là kiểm tra, theo dõi các hoạt động tài chính và
tình hình tuân theo các quy định, luật pháp về quản lý tài chính của các tập đoàn
kinh tế nhà nước. Cơ chế giám sát tài chính là cách thức tổ chức thực hiện hoạt
động giám sát tài chính. Nó bao gồm các yếu tố sau:
•Chủ thế giám sát là các nhà quản trị và người lao động trong tập đoàn, các
chủ sở hữu của tập đoàn, các cơ quan quản lý của nhà nước.
•Đối tượng giám sát là thực trạng các hoạt động tài chính của tập đoàn kinh tế
23
nhà nước, bao gồm hoạt động tạo lập và huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và
tài sản, hoạt động phân phối lợi nhuận, hoạt động tài chính, kế toán.
•Phương pháp giám sát có thể là điều tra, theo dõi, kiểm tra, phỏng vấn, quan
sát… và được chủ thể giám sát sử dụng một cách linh hoạt cả về thời gian và không gian.
•Mục đích của giám sát tài chính các tập đoàn kinh tế nhà nước là để đảm bảo
các hoạt động tài chính của tập đoàn được triển khai hiệu quả, mối quan hệ giữa các
công ty trong tập đoàn lành mạnh, phù hợp với mục tiêu hoạt động đề ra ban đầu,

hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước giao phó.
•Căn cứ để giám sát là các Quy chế về giám sát tài chính, các văn bản pháp
quy do các cơ quan chức năng của Nhà nước ban hành, các luật, điều ước quốc tế có
liên quan tới hoạt động của TĐ mà Việt Nam là thành viên và các quy định trong
Điều lệ của mỗi công ty trong TĐ.
1.2.2. Tất yếu khách quan của giám sát tài chính các TĐKTNN:
1.2.2.1 Xuất phát từ nhu cầu của chủ sở hữu:
Sự cạnh tranh ngày càng gia tăng trong môi trường kinh doanh yêu cầu phải
có sự tách biệt giữa người sở hữu doanh nghiệp và người trực tiếp quản lý, sử dụng
tài sản nói riêng, các nguồn lực nói chung để đạt được hiệu quả quản lý, kinh doanh
cao hơn, mang lại lợi nhuận nhiều hơn.
Chủ sở hữu khi đầu tư vốn luôn muốn có được hiệu quả hoạt động cao nhất cả
về kinh tế và xã hội trong khi tiêu tốn ít nguồn lực nhất. Ngoài ra, chủ sỡ hữu cũng
muốn duy trì sự phát triển của doanh nghiệp, đảm bảo hình ảnh và sự gia tăng giá trị
của doanh nghiệp trong dài hạn.
Các nhà quản lý được chủ sở hữu thuê để điều hành hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp do học có trình độ chuyên môn cao hơn trong các lĩnh vực của hoạt
động kinh doanh, quản lý. Nhà quản lý ngày nay hầu hết đều có thu nhập gắn liền
với thu nhập của doanh nghiệp nên có động cơ để thực hiện các hành vi nhằm tăng
lợi nhuận của doanh nghiệp trong ngắn hạn cho dù các hành vi này có thể gây tổn
hại về lâu dài tới nguồn vốn của chủ sở hữu.
Xung đột lợi ích trong dài hạn làm nảy sinh yêu cầu về giám sát của chủ sỡ
hữu đối với các nguồn lực của doanh nghiệp, bao gồm sức lao động của con người,
tiền bạc, máy móc, nguyên nhiên vật liệu, bằng phát minh sáng chế, v.v… Trong số
các nguồn lực này thì nguồn lực tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp, chỉ xếp sau nguồn nhân lực. Biểu hiện
hữu hình của nó chính là tài sản và vốn. Việc nguồn lực tài chính có được các nhà
24
quản lý sử dụng hiệu quả hay không sẽ quyết định sự thành công của doanh nghiệp.
Do vậy, giám sát tài chính là thật sự cần thiết trong bất cứ doanh nghiệp nào và lại

càng trở nên cần thiết hơn đối với các tập đoàn kinh tế Nhà nước bởi nguồn vốn của
nó không chỉ thuộc sở hữu của một nhóm các cá nhân mà là toàn thể nhân dân.
1.2.2.2 Xuất phát từ đặc điểm của các TĐKTNN ở Việt Nam
•Vị trí - vai trò quan trọng của các TĐKTNN (có thể tham khảo thêm các số
liệu ở mục 2.1.6 – Đánh giá tác động của các TĐKTNN đối với nền kinh tế)
Vị trí đầu tàu, dẫn dắt nền kinh tế của các TĐKTNN được thể hiện qua tỷ
trọng của các TĐKT so với khu vực DNNN và so với các khu vực khác của nền
kinh tế. Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ quốc hội trình lên Quốc
hội ngày 04 tháng 11 năm 2009 đã nêu lên một số thành tích đáng chú ý của các TĐ
như: tổng nguồn vốn của 8 tập đoàn đến 31/12/2008 là 1 triệu 92 nghìn tỷ đồng;
năm 2008, khối doanh nghiệp nhà nước mà nòng cốt là các tập đoàn, tổng công ty,
đã đóng góp gần 40% giá trị GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên
50% kim ngạch xuất khẩu và 28,8% tổng thu nội địa.
Các tập đoàn nhà nước còn là cánh tay đắc lực cho Chính phủ trong việc điều
tiết kinh tế vĩ mô, thực hiện các chính sách ổn định giá cả, giúp giảm thiểu các tác
động tiêu cực khi có biến động cung- cầu hàng hóa trên thị trường.
Các tập đoàn cùng với các tổng công ty nhà nước cũng đi đầu trong thực hiện
các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về giải quyết công ăn việc làm, giảm
nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và đền ơn, đáp nghĩa. Theo số liệu chưa đầy đủ của
95/99 tập đoàn, tổng công ty thì đến 31/12/2008, các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước đã giải quyết việc làm cho 1 triệu 179 nghìn lao động với mức thu nhập bình
quân trong năm 2008 là 3 triệu 8 trăm nghìn đồng, , chỉ riêng trong 2 năm 2007 và
2008 đã tham gia khoảng 420 tỷ đồng để thực hiện nhiệm vụ xã hội. Phạm vi hoạt
động của hầu hết các tập đoàn, tổng công ty được mở rộng đến các địa bàn nông
thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có hạ tầng cơ sở còn yếu kém
để thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội.
•Bản chất phức tạp của hoạt động quản lý tập đoàn, đặc biệt là TĐKTNN:
o Quan hệ sở hữu hỗn hợp:
Về bản chất, các tập đoàn kinh tế hình thành do quy mô sản xuất lớn đòi hỏi
một lượng vốn khổng lồ, cần phải huy động vốn từ nhiều cá nhân, tổ chức. Đó là

quá trình phát triển khách quan và thường thấy ở rất nhiều nước. Từ đó dẫn đến việc
tập đoàn có rất nhiều chủ sở hữu mà điều quan trọng là các chủ sở hữu này không
25

×