Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Hợp tác ASEAN + 3 và tác động của nó đến sự phát triển thương mại của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP CUỐI KHÓA
ĐỀ TÀI:
HỢP TÁC ASEAN + 3 VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN
SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn : TS. NGÔ THỊ TUYẾT MAI
CN.NGUYỄN BÍCH NGỌC
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN CAO CƯỜNG
Mã sinh viên : CQ490343
Lớp : KINH TẾ QUỐC TẾ B
Khoá : 49


HÀ NỘI - 5/2011
Chuyên đề thực tập cuối khoá
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Ngô Thị Tuyết
Mai và cô giáo Nguyễn Bích Ngọc là những người đã trực tiếp hướng dẫn hết
sức nhiệt tình, góp phần to lớn cho sự thành công của chuyên đề thực tập này.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các anh, chị cùng các
cô, các chú trong Viện Chiến lược phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi và tận
tình giúp đỡ em trong thười gian thực tập tại Viện.
Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo cùng
các bạn - những người đã trang bị cho em kiến thức và đóng góp những ý
kiến quý báu giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập cuối khoá này.
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
Chuyên đề thực tập cuối khoá
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


Hà nội, ngày 14 tháng 05 năm
2011
BẢN CAM KẾT
Tên tôi là: Nguyễn Cao Cường
Sinh viên lớp: Kinh tế quốc tế 49B
Khoa: Thương Mại & Kinh Tế Quốc Tế
Trường: ĐH KINH TẾ QUỐC DÂN
Tôi xin cam kết những điều sau đây:
1. Không sao chép tài liệu luận văn của các khóa trước. Những luận văn
này chỉ mang tính tham khảo.
2. Chấp hành nghiêm túc nghiêm chỉnh kế hoạch thực tập, kỷ luật lao động.
3. Tiếp thu ý kiến giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn và cán bộ cơ
sở thực tập.
Nếu tôi vi phạm những điều kể trên thì sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm và
chịu sự kỷ luật của nhà trường.
Người cam kết
(ký)


Nguyễn Cao Cường
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
Chuyên đề thực tập cuối khoá
MỤC LỤC
1
1
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP CUỐI KHÓA 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỢP TÁC ASEAN + 3 8
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
Chuyên đề thực tập cuối khoá
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

1
1
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP CUỐI KHÓA 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỢP TÁC ASEAN + 3 8
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
Chuyên đề thực tập cuối khoá
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
ASEAN+3 là một cơ chế hợp tác giữa ASEAN và ba quốc gia Đông Bắc
Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, được ra đời từ tháng 12/1997,
sau hội nghị cấp cao lần thứ nhất diễn ra ở Kuala Lumpur. Sau đó, đến năm
2000, tại hội nghị cấp cao lần thứ tư tổ chức tại Singapore, ASEAN+3 chính
thức được thể chế hóa.
Trong thời gian qua, hợp tác ASEAN + 3 ngày càng phát triển mạnh mẽ
và trở thành khuôn khổ hợp tác có ý nghĩa quan trọng đối với khu vực Đông
Á. Hợp tác ASEAN + 3 được triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị và xã hội; là một khu vực hợp tác năng động trên cơ sở tôn trọng chủ
quyền và bản sắc dân tộc của các nước thành viên, hướng tới một Cộng đồng
Đông Á đoàn kết, vững mạnh.
Tham gia hợp tác ASEAN + 3 ngay từ đầu, Việt Nam đã có những đóng
góp to lớn trong việc hưởng ứng, triển khai các chương trình hợp tác cũng
như một số đề xuất quan trọng thúc đẩy phát triển hợp tác ASEAN + 3. Đồng
thời chúng ta cũng thu được những lợi ích to lớn từ hợp tác ASEAN + 3, đặc
biệt là vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế được nâng
lên đáng kể, từ đó sẽ củng cố vững chắc hơn cho chúng ta về quân sự cũng
như về kinh tế. Song, thực tế cho thấy chúng ta cũng đang phải đối mặt với
những tác động tiêu cực từ hợp tác ASEAN + 3 mang lại, như sự thâm hụt
thương mại ngày càng gia tăng, sự ảnh hưởng ngày càng nhiều từ các nước
lớn như Trung Quốc hay Nhật Bản, sự phân bổ FDI không đồng đều ….
Trong tương lai xu thế hợp tác ASEAN + 3 sẽ tiếp tục phát triển cả về

chất và lượng, do đó vấn đề rất được quan tâm hiện nay đó là sự tác động của
hợp tác này đến phát triển kinh tế của Việt Nam như thế nào? Xuất phát từ
thực tiễn khách quan trên em chọn nghiên cứu đề tài “Hợp tác ASEAN + 3 và
tác động của nó đến sự phát triển thương mại của Việt Nam” cho chuyên đề
thực tập cuối khóa cho mình.
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
6
Chuyên đề thực tập cuối khoá
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung phân tích, đánh giá thực trạng, triển vọng hợp tác của
ASEAN + 3 và những tác động của nó đến lĩnh vực thương mại của nước ta.
Thông qua đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác
thương mại của Việt Nam trong ASEAN + 3.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hợp tác ASEAN + 3
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu tập trung đi sâu phân
tích sự hợp tác về lĩnh vực thương mại giữa Việt Nam với các nước thành
viên của ASEAN + 3 và tác động của nó đến sự phát triển thương mại của
Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu của đề tài: từ năm 2000 đến năm 2010 và đề xuất
giải pháp cho đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến như:
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê trên cơ sở thu thập và sử dụng các tài liệu, số liệu, chính thức
làm căn cứ để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu kham khảo đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về hợp tác ASEAN + 3
Chương 2: Thực trạng hợp tác thương mại trong ASEAN + 3 và những

tác động của nó đến sự phát triển thương mại của Việt Nam.
Chương 3: Triển vọng ASEAN + 3 và một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hợp tác thương mại của Việt Nam trong ASEAN + 3.
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
7
Chuyên đề thực tập cuối khoá
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỢP TÁC ASEAN + 3
I.1 Quá trình hình thành Hợp tác ASEAN +3
Ý tưởng hình thành một thể chế hợp tác đa phương ở khu vực Đông Á đã
xuất hiện từ rất sớm (năm 1965) tuy nhiên ý tưởng rõ ràng nhất được thủ
tướng Mahathia Mohamat của Malaysia đưa vào năm 1990. Ý tưởng này sau
đó đã được triển khai và được một số nước hưởng ứng, song đã không bao
giờ được hiện thực hoá bởi lúc đó tại Đông Á đang tồn tại khái niệm chủ
nghĩa khu vực có tính chất cạnh tranh nhau.
Tuy nhiên cho tới cuối năm 1997, vấn đề thể chế hóa Đông Á nổi lên
mạnh mẽ trong bối cảnh khu vực phải đối mặt với khủng hoảng tài chính, do
đó đặt ra nhu cầu hợp tác khu vực lớn hơn và các nước thành viên APEC ở
Đông Á cũng đang thất vọng về những tiến bộ chậm chạp của tiến trình liên
kết kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương do Hoa Kỳ lãnh đạo. Vì vậy, Đông Á
quyết tâm hơn trong việc thành lập một tổ chức hợp tác khu vực riêng cho
mình và vì mình. Không chỉ ASEAN mà cả 3 nước lớn Đông Bắc Á bao gồm
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã không thể do dự hơn nữa trong việc
thiết lập một cơ chế hợp tác khu vực ở Đông Á.
Ngày 15/12/1997, tại Kuala Lumpar, các nhà lãnh đạo Đông Á đã gặp
nhau tại Hội nghị thượng đỉnh không chính thức lần 2. Ngay sau đó, ngày
16/12/1997, lãnh đạo các nước ASEAN đã họp riêng với từng nhà lãnh đạo
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Như vậy, với Hội nghị thượng đỉnh giữa
nguyên thủ các nước ASEAN và các nhà lãnh đạo cấp cao 3 quốc gia Đông
Bắc Á, tiến trình hợp tác ASEAN + 3 (ASEAN Plus Three Framework –
APT) đã được thành lập.

Đến nay, ASEAN + 3 đã trải qua hơn 10 năm hợp tác, phát triển với các
dấu mốc quan trọng sau:
I.1.1 Hợp tác ASEAN +3 từ năm 1997 đến năm 2002
Trong giai đoạn này, Hợp tác ASEAN + 3 đã được thông qua 6 hội nghị
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
8
Chuyên đề thực tập cuối khoá
Thượng đỉnh. Tại hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên vào tháng 12 năm 1997, các
nhà lãnh đạo chưa thể đưa ra định hướng phát triển chung cho tiến trình
ASEAN + 3. Điều này có thể hiểu được bởi sự chưa sẵn sàng hợp tác của các
đối tác, nhất là Nhật Bản vì sự lo ngại về phản ứng của Mỹ. Tuy nhiên, chỉ
một năm sau đó, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN + 3 lần thứ hai họp tại Hà
Nội, lãnh đạo các nước thành viên quyết định Hợp tác này phải được thường
niên hóa qua các hội nghị và nhất trí rằng ASEAN + 3 là một tiến trình phi
chính thức hóa nên được theo đuổi ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào
mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia thành viên.
Năm 1999, tiến trình ASEAN+3 đã được thể chế hoá khi các nhà lãnh
đạo đưa ra tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN + 3 lần thứ 3 tại Manila. Các nhà lãnh đạo ASEAN+3 đã thể hiện
niềm tin và sự quyết tâm vào việc tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa hợp
tác Đông Á ở mọi cấp độ và mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, chính trị, xã
hội và các lĩnh vực khác. Trong hội nghị lần này, Nhóm tầm nhìn Đông Á
(EAVG) được thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu để xây dựng
một tầm nhìn chung về Hợp tác Đông Á. Ngoài ra, một cơ chế hợp tác mới
cũng đã được thành lập; đó là tiến trình thượng đỉnh Cộng 3 giữa Nhật
Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Sự ra đời của tiến trình này vừa là kết quả
sớm của Hợp tác Asean + 3 vừa cung cấp thêm động lực cho sự phát triển
của nó. Như vậy, chỉ sau 2 năm hoạt động, Hợp tác Asean + 3 đã cơ bản
xây dựng xong khuôn khổ thể chế của nó. Khuôn khổ đó bao gồm 3 cơ chế:
Asean + 3, Asean + 1 và Cộng 3.

Tiếp đó, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 tổ chức tại Singapore
ngày 24 tháng 11 năm 2000, các nhà lãnh đạo quyết định thành lập nhóm
Nghiên Cứu Đông Á (EASG). Nhiệm vụ của EASG được xác định là: đánh
giá những khuyến nghị của EAVG; đề xuất một số biện pháp cụ thể, có khả
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
9
Chuyên đề thực tập cuối khoá
năng trở thành những ưu tiên và dễ thực hiện để triển khai Hợp tác Đông Á;
khai thác các ý tưởng và ảnh hưởng của một Hội nghị cấp cao Đông Á.
Sau 2 năm hoạt động, EAVG đã trình báo nghiên cứu của họ cho Hội
nghị Thượng đỉnh ASEAN + 3 lần thứ 5 tổ chức tại Bruney tháng 11 năm
2001. Trong báo cáo đó, EASG đã đề xuất 26 biện pháp cụ thể, bao gồm 17
biện pháp ngắn hạn và 9 biện pháp trung và dài hạn nhằm thực hiện hóa mục
tiêu xây dựng Cộng đồng Đông Á. Các đề xuất trên của EASG đã được Hội
nghị Thượng đỉnh Phnôm Pênh năm 2002 thông qua và trở thành chương
trình nghị sự của Hợp tác Đông Á từ năm 2002 đến nay.
Như vậy, với 6 hội nghị Thượng đỉnh ASEAN + 3 hàng năm từ 1997 đến
2002, các nhà lãnh đạo ASEAN + 3 đã hoạch định được tầm nhìn của Hợp tác
Đông Á và một số các biện pháp nhằm thực hiện hóa Tầm nhìn trên.
I.1.2 Hợp tác ASEAN +3 từ năm 2003 – 2005
Nội dung hợp tác trong giai đoạn này được xác định là: “thực hiện 17
biện pháp ngắn hạn do EASG đề xuất trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN +
3 lần thứ 5. ASEAN quyết tâm hoàn thành việc thực hiện những biện pháp
trên vào năm 2006. Việc thực hiện thành công các biện pháp đó sẽ đưa tới
thời kì thực hiện 9 biện pháp trung và dài hạn, thông qua đó sẽ giúp ASEAN
+ 3 vận động sang giai đoạn tiếp theo của Hợp tác Đông Á”.
Thực hiện nhiệm vụ trên, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN + 3 lần thứ
7 tổ chức ở Bali ngày 7/10/2003, các nhà lãnh đạo đã tán thành việc thực hiện
Chiến lược về các biện pháp ngắn hạn của Báo cáo hoàn thiện của EASG và
thăm dò một vài ý tưởng mới như nghiên cứu về tính khả thi của EAFTA.

Hợp tác ASEAN + 3 đã có bước tiến đột phá tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN + 3 lần thứ 8 tổ chức tại Viêng – Chăn ngày 29/11/2004. Điều này
thể hiện ở mấy điểm sau:
- Các kết quả của Hội nghị đã được nêu ra trong một tuyên bố riêng
được gọi là Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN + 3 lần thứ
8. Điều này có nghĩa là Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN + 3 đã trở thành mội
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
10
Chuyên đề thực tập cuối khoá
hội nghị riêng, độc lập chứ không phải là một cuôc họp chung giữa các nhà
lãnh đạo ASEAN và 3 nhà lãnh đạo đến từ Đông Á như trước.
- Các nội dung được thảo luận trong hội nghị này có ý nghĩa rất quan
trọng. Ngoài việc thảo luận các vấn đề khu vực và quốc tế như các hội nghị
trước, hội nghị đã thảo luận việc triển khai xây dựng Khu vực mậu dịch tự do
Đông Á (EAFTA) và triệu tạo Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, theo đề nghị
của các nước ASEAN.
1.1.3 Hợp tác ASEAN + 3 từ cuối năm 2005 đến nay
Ở giai đoạn này, vị thế của ASEAN + 3 trong Hợp tác Đông Á đã ít
nhiều giảm xuống. Hợp tác ASEAN + 3 chỉ còn là một trong các cơ chế của
Hợp tác Đông Á, mặc dù nó thừa nhận là cơ chế chính. Tại Hội nghị Thượng
đỉnh ASEAN + 3 lần thứ 10 họp tại Xê- Bu ngày 14/12/2007, vị thế của
ASEAN + 3 với tư cách là cơ chế chính để đạt được mục tiêu thành lập cộng
đồng Đông Á đã được khẳng định lại. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo còn thảo
luận về những điểm chính trong bản Tuyên bố Hợp tác Đông Á lần thứ hai dự
kiến công bố nhân kỷ niệm 10 năm thành lập Hợp tác ASEAN + 3 vào cuối
năm 2007 và triển khai xây dựng EAFTA.
Trong những kỳ họp cấp cao kể từ năm 2005 đến nay, ASEAN + 3 tiếp
tục đưa ra các sáng kiến mới mở rộng hợp tác và thúc đẩy tiến trình xây dựng
Cộng đồng Đông Á. Theo đó, nghiên cứu xây dựng EAFTA; thúc đẩy hợp tác
tài chính (với việc năm 2008, nhất trí thành lập một quỹ ngoại tệ trị giá ít nhất

80 tỷ USD để sử dụng trong trường hợp xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính
khu vực); thúc đẩy và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực nông nghiệp, thông
tin, giáo dục, đối phó các vấn đề, thách thức đặt ra trong khu vực…
1.1.4 Một số nhận xét về quá trình phát triển của Hợp tác ASEAN + 3
Nhìn lại quá trình phát triển của Hợp tác ASEAN + 3 trong thời gian qua
có thể rút ra 1 số nhận xét sau:
Thứ nhất, tiến trình này đã phát triển từ một Hội nghị không chính thức
giữa các nhà lãnh đạo ASEAN và 3 nhà lãnh đạo Đông Bắc Á trở thành
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
11
Chuyên đề thực tập cuối khoá
khuôn khổ hợp tác giữa 13 nước Đông Á.
Thứ hai, phạm vi hợp tác trong ASEAN + 3 ngày càng được mở rộng:
nếu như trước “sự kiện 11 tháng 9”, ASEAN + 3 chỉ hợp tác về lĩnh vực tài
chính – tiền tệ thì sau “sự kiện 11 tháng 9”, Hợp tác ASEAN + 3 đã được mở
rộng sang lĩnh vực an ninh. Hiện nay, các hợp tác trong ASEAN + 3 đã mở
rộng tới hầu hết các lĩnh vực, như kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, …
Thứ ba, cùng với quá trình phát triển, Hợp tác ASEAN + 3 cũng đã có
bản sắc riêng và ngày càng được củng cố. Bản sắc này có nhiều điểm tương tự
như bản sắc của ASEAN. Tuy nhiên, Hợp tác ASEAN + 3 cũng có những nét
riêng của nó. Đó là, trong ASEAN + 3, ASEAN đóng vai trò cầm lái và hầu
hết các hoạt động hợp tác của Hợp tác ASEAN + 3 được triển khai trong cơ
chế ASEAN + 1, còn cơ chế ASEAN + 3 chỉ đóng vai trò như một khuôn
khổ hợp tác. Từ thực tế này, một số nhà nghiên cứu cho rằng không nên gọi
cơ chế hợp tác hiện nay giữa ASEAN và 3 nước Trung – Nhật - Hàn là
ASEAN + 3 mà nên gọi là ASEAN + 1 +1 +1. Tuy nhiên chúng ta cần thấy
rằng, dù đa số các biện pháp hợp tác đang được thực hiện trong khuôn khổ
ASEAN + 1, nhưng những biện pháp quan trọng nhất (tổ chức EAS hay xây
dựng mục tiêu, cơ chế và các biện pháp hợp tác của ASEAN + 3 nói chung,
từng lĩnh vực hợp tác của tiến trình nói riêng) lại được thực hiện và chỉ có thể

thực hiện thành công trong khuôn khổ ASEAN + 3. Công thức ASEAN + 3
còn có hàm ý rằng, trong tiến trình này các nước ASEAN sẽ là một bên, còn
ba nước Đông Bắc Á sẽ tạo thành bên kia. Từ đó, ASEAN có thể đạt được
mục đích kiềm chế tham vọng của các nước lớn như Trung Quốc và Nhật Bản
đối với khu vực mình. Mặt khác, thông qua tiến trình “cộng 3”, chính sách
của Nhật Bản và Trung Quốc đối với ASEAN cũng sẽ được điều chỉnh sao
cho phù hợp với lợi ích của Đông Bắc Á nói riêng và Hợp tác ASEAN + 3
nói chung.
1.2 Mục tiêu và vai trò của các bên trong ASEAN +3
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
12
Chuyên đề thực tập cuối khoá
1.2.1 Mục tiêu hợp tác và vai trò của ASEAN
1.2.1.1 Mục tiêu hợp tác của ASEAN
ASEAN đã đóng vai trò quan trọng trong việc khởi xướng và duy trì
hợp tác ASEAN + 3 trong bối cảnh cơn bão khủng hoảng tài chính gây hậu
quả nghiêm trọng trong khu vực vào những năm cuối thể kỷ XX. Mục đích
chính của ASEAN khi thành lập tiến trình này không chỉ nhằm tìm kiếm
sự ủng hộ của các nước Đông Bắc Á để phục hội kinh tế, mà quan trọng
hơn là thực hiện một chiến lược đối ngoại mà ASEAN theo đuổi ở thời kỳ
hậu chiến tranh lạnh.
Để đảm bảo an ninh cũng như độc lập về phát triển kinh tế của Đông
Nam Á trong bối cảnh tồn tại khoảng trống quyền lực ở khu vực này, lãnh đạo
các nước ASEAN nhận thấy cần thiết phải ngăn chặn khả năng Nhật Bản hay
Trung Quốc nhảy vào thay vị trí trước đây của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Mục
tiêu này chỉ đạt được khi ASEAN tạo lập được một sự cân bằng về lợi ích và
ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực. Sau khi xem xét lại quan hệ của
mình với tất cả các nước lớn, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhận thấy mối
quan hệ của Hiệp hội đang nghiêng về phía các nước phương Tây. Trung
Quốc gần sát với ASEAN về vị trí địa lý, một cường quốc đang phát triển

mạnh mẽ trong khu vực, lại chưa hề có quan hệ chính thức nào với ASEAN.
Việc duy trì tình trạng thiếu vắng Trung Quốc trong mối quan hệ không chỉ
khiến ASEAN không thể kiềm chế họ ở Đông Nam Á, mà còn bỏ lỡ các cơ
hội do sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc tạo ra. Nhận thức
được điều đó, ASEAN đã quyết định thiết lập quan hệ với Trung Quốc vào
tháng 7/1991.
Tuy nhiên sau khi đã thiết lập quan hệ với Trung Quốc, các nước
ASEAN vẫn chưa thể yên tâm, bởi vì cho tới đầu những năm 90, thế kỷ 20,
Trung Quốc chưa hề tham gia vào một tổ chức đa phương nào ở Châu Á –
Thái Bình Dương, mà chủ yếu Trung Quốc chủ trương thúc đẩy hợp tác song
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
13
Chuyên đề thực tập cuối khoá
phương. Việc người khổng lồ này đứng ngoài các tổ chức hợp tác đa phương
sẽ tạo điều kiện cho họ được tự do hành động, trong khi đó nó sẽ gây bất lợi
cho an ninh của Đông Nam Á, nhất là khi ASEAN đã không thể trông cậy
nhiều vào cam kết an ninh của Mỹ đối với khu vực.
Sau một quá trình cố gắng, khuôn khổ khu vực đầu tiên được ASEAN
xây dựng là diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) được thành lập tại Bangkok
tháng 7/1993. Như vậy, với việc thành lập AFR, ASEAN đã thiết lập được
một cơ chế đa phương để đưa Trung Quốc vào khuôn khổ khu vực. Tuy nhiên
AFR chỉ là một cơ chế hợp tác an ninh đa phương với cơ cấu tổ chức rất lỏng
lẻo. Do vậy, ASEAN hướng tới mục tiêu đó là xây dựng một cơ chế hợp tác
đa phương với cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn AFR để thu hút sự tham gia tích
cực hơn của Trung Quốc. Vì thế, khi Nhật Bản đề nghị họp thượng đỉnh với
ASEAN, các nhà lãnh đạo đã nhận thấy đây là cơ hội rất tốt để thực hiện ý
tưởng trên của Hiệp hội. Việc họp thượng đỉnh cả với Nhật Bản, Trung Quốc,
Hàn Quốc sẽ đưa lại cho ASEAN lợi ích rất quan trọng sau:
Một là, ASEAN sẽ có cơ hội để chứng tỏ với Trung Quốc rằng họ coi
trọng quan hệ với Trung Quốc như quan hệ đối với Hàn Quốc và Nhật Bản,

mặc dù hai nước này là đối tác truyền thống của ASEAN.
Hai là, khi thiết lập một cơ chế hợp tác đa phương với cả ba nước Đông
Bắc Á, ASEAN hy vọng khuôn khổ khu vực này sẽ giúp họ khai thác hơn nữa
tiềm năng kinh tế của ba nước trên để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh
tế của mình, trước hết là khắc phục hậu quả của khủng hoảng tài chính tiền tệ
và sau đó đạt được định hướng phát triển đến năm 2020 mà Hiệp hội đã thông
qua tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN không chính thức lần hai, năm 1997.
Ba là, một cơ chế hợp tác đa phương với sự tham gia của cả ba nước
Đông Bắc Á sẽ hoạt động như một khuôn khổ khu vực, kiềm chế không chỉ
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
14
Chuyên đề thực tập cuối khoá
tham vọng của Trung Quốc mà cả của Nhật Bản với Đông Nam Á.
Bốn là, khuôn khổ hợp tác ASEAN +3 sẽ khuyến khích Hàn Quốc đẩy
mạnh quan hệ hợp tác với ASEAN và đóng góp nhiều hơn vào các vấn đề của
khu vực.
Cuối cùng, với việc thành lập AFR vào năm 1993 và sau đó là tiến trình
ASEAN +3 và các tiến trình ASEAN + 1, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
sẽ tạo được một cấu trúc khu vực của riêng mình. Cấu trúc này bao gồm nhiều
lớp được thiết kế theo các vòng đồng tâm, trong đó ASEAN là hạt nhân.
Trong cấu trúc này, các nước lớn chỉ là nhân tố vận động theo sự điều hành
của một trung tâm duy nhất là ASEAN. Như vậy, khi tham gia vào tổ chức
khu vực của ASEAN, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU hay bất kỳ
nước lớn nào, không còn là người định luật chơi nữa, mà sẽ phải chấp nhận
luật chơi do ASEAN đề ra.
Như vậy, bằng việc đề xuất họp thượng đỉnh với cả 3 nước Đông Bắc Á,
ASEAN không chỉ nhằm mục đích để thu hút các nguồn lực từ Trung Quốc,
Nhật Bản và Hàn Quốc để phát triển kinh tế mà quan trọng hơn là tạo lập
thêm những cấu thành mới cho cấu trúc khu vực mà Hiệp hội này đang theo
đuổi kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc cho tới lúc đó. Với cơ cấu khu vực

này, vị thế của ASEAN ở Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương sẽ được
nâng lên đáng kể.
1.2.1.2 Vai trò của ASEAN
Ngay từ đầu ASEAN đã chứng tỏ được khả năng cầm lái của mình đối
với tiến trình Hợp tác ASEAN + 3. Trong vai trò này, ASEAN là người tổ
chức, lập chương trình nghị sự của các hội nghị ASEAN + 3 ở các mức độ
khác nhau. Hơn 10 năm qua, ASEAN đã thực hiện được 3 hoạt động quan
trọng đóng góp vào sự phát triển của Hợp tác ASEAN + 3 đó là thể chế hóa
tiến trình này; tổ chức các Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á và xây dựng Cộng
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
15
Chuyên đề thực tập cuối khoá
đồng chung ASEAN. Theo đó, ASEAN cũng đã thiết lập một văn phòng
ASEAN + 3 trong Ban thư ký ASEAN để quản lý, định hướng các hoạt động
của cơ chế hợp tác này.
Tháng 12/2005, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á đầu tiên do ASEAN tổ
chức tại Kuala lumpur đã thành lập ra tiến trình EAS. Với sự ra đời của tiến
trình mới này, ASEAN đã tạo ra được một cấu thành mới cho cấu trúc khu
vực mà các nước này đang nỗ lực xây dựng. Thông qua cấu trúc khu vực này,
ASEAN sẽ thu hút được các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển về kinh tế,
chính trị và xã hội. Mặt khác, cấu trúc trên đã tăng cường thêm sự an toàn cho
ASEAN trước các mối đe dọa từ bên ngoài. Đây chính là mục tiêu mà
ASEAN theo đuổi khi sáng lập cấu trúc khu vực riêng của Hiệp hội.
Bên cạnh đó, Cộng đồng ASEAN được xây dựng cũng là một gợi ý về
mô hình liên kết khu vực ở Đông Á. Với vai trò là lực lượng cầm lái của Hợp
tác ASEAN + 3 và Hợp tác Đông Á, tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9 tổ
chức ở Bali đầu tháng 10 năm 2003, các nước ASEAN tuyên bố thành lập
Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 điểm chính: Cộng đồng kinh tế; Cộng đồng
chính trị, an ninh; Cộng đồng văn hóa – xã hội. Tại các hội nghị thượng đỉnh
sau đó, đặc biệt là Hội nghị cấp cao ASEAN 17 tại Hà Nội tháng 10 năm

2010, các nước ASEAN đã thống nhất lộ trình và triển khai các chương trình
hành động cụ thể để xây dựng cộng đồng chung vào năm 2015. Các cộng
đồng nêu trên sẽ “hòa quyện vào nhau, tăng cường cho nhau vì mục đích đảm
bảo hòa bình lâu dài, ổn định và tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế trong khu
vực”. Việc xây dựng Cộng đồng ASEAN không chỉ nhằm mục đích đưa liên
kết khu vực của ASEAN lên một tầm cao mới nhằm giúp Hiệp hội này duy trì
được vai trò chủ đạo của mình trong các tiến trình hợp tác khu vực do nó sáng
lập mà còn nhằm đưa ra mục tiêu thiết lập một mô hình về Cộng đồng Đông
Á tương lai.
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
16
Chuyên đề thực tập cuối khoá
1.2.2 Mục tiêu hợp tác và vai trò của Trung Quốc
1.2.2.1 Mục tiêu hợp tác của Trung Quốc
Trung Quốc đã sớm nhận ra rằng, việc tăng cường hợp tác với các nước
Đông Á sẽ tạo được điều kiện thuận lợi phục vụ cho công cuộc cải cách mở
cửa của mình, đồng thời việc tăng cường các mối quan hệ này không chỉ giúp
duy trì hòa bình, an ninh Đông Á mà còn giúp Trung Quốc mở rộng thị
trường sang các nước láng giềng để góp phần đẩy mạnh phát triển nền kinh tế
trong nước.
Tham gia hợp tác ASEAN+3, Trung Quốc sẽ có điều kiện thuận lợi hơn
để tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam Á, kiềm chế Nhật Bản, dần dần có thể
thay thế vai trò của Mỹ ở khu vực này. ASEAN có vai trò rất quan trọng xét
cả từ góc độ chiến lược lẫn kinh tế đối với Trung Quốc. Khu vực này vừa là
vành đai an ninh, vừa là hướng mở trong chiến lược vươn ra thế giới của
Trung Quốc, đồng thời cũng là thị trường rộng lớn với khoảng 600 triệu dân.
Hợp tác ASEAN+3 cũng là một hợp tác quan trọng cả về chiến lược lẫn
kinh tế mà Trung Quốc đang theo đuổi. Về phương diện chiến lược, Trung
Quốc có cơ hội tham gia trực tiếp và tích cực vào việc giải quyết các vấn đề
của Đông Bắc Á, trước mắt là vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, ngoài

ra lợi ích mà Trung Quốc còn thu được đó là giảm bớt và tiến tới đẩy lùi ảnh
hưởng của Mỹ ở Đông Bắc Á. Về phương diện kinh tế, Hợp tác ASEAN+3 có
thể giúp Trung Quốc thu hút được nhiều nguồn lực hơn từ các nước Đông Á.
Nếu ASEAN có thể đem tới cho kinh tế Trung Quốc nguồn nguyên liệu thô,
các sản phẩm sơ chế, thị trường tiêu thụ hàng hóa, thì Nhật Bản và Hàn Quốc
lại có thể cung cấp cho Trung Quốc nguồn FDI dồi dào, công nghệ nguồn và
ODA.
1.2.2.2 Vai trò của Trung Quốc trong hợp tác ASEAN + 3
a. Đề xuất các sáng kiến hợp tác
Mặc dù không phải là lực lượng cầm lái trong tiến trình hợp tác
ASEAN+3, nhưng Trung Quốc đã và đang đóng vai trò quan trọng trong quá
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
17
Chuyên đề thực tập cuối khoá
trình hoạch định mục tiêu, phương hướng và các biện pháp triển khai Hợp tác
ASEAN+3 có hiệu quả. Ngay từ đầu Trung Quốc đã tham gia tích cực vào
EAVG, Nhóm Kinh tế Đông Á (EASG) và trong quá trình tham gia vào hoạt
động của nhóm, Trung Quốc đã đề xuất hàng loạt các sáng kiến quan trọng
như đề nghị xúc tiến hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống, thành
lập Quỹ tín dụng 15 tỉ USD và Quỹ Đầu tư ASEAN - Trung Quốc giúp
ASEAN phát triển xây dựng, củng cố thêm cơ sở hạ tầng còn yếu kém Tất
cả những sáng kiến trên đã được EAVG và EASG chấp nhận và trở thành các
biện pháp ngắn, trung và dài hạn để xây dựng EAC. Tháng 11/2004 tại Hội
nghị Thượng đỉnh ASEAN+3 lần thứ 8 tại Viêng Chăn - Lào, Thủ tướng
Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã đưa ra đề nghị 7 điểm, bao gồm triển khai đối
thoại hợp tác an ninh, chính trị; nhất là những vấn đề an ninh phi truyền
thống, hợp tác an ninh trên biển; thúc đẩy xây dựng Khu mậu dịch tự do Đông
Á; thúc đẩy hợp tác văn hóa, xã hội, khoa học kĩ thuật; hợp tác sâu hơn nữa
trong lĩnh vực tiền tệ và đầu tư; ủng hộ tiểu ban 10 +3 trong ban thư ký
ASEAN thành lập năm 2003; quy hoạch khoa học tương lai Hợp tác Đông Á;

phát huy hợp tác về tài nguyên trí lực cho cơ chế 10 + 3.
Trong quan hệ với ASEAN, Trung Quốc cũng đề xuất nhiều sáng kiến
hợp tác có ý nghĩa quan trọng với cả 2 bên. Tại hội nghị thượng đỉnh Trung
Quốc - ASEAN lần thứ 12 diễn ra tại Hua Hin - Thái Lan, ngày 24/10/2009
thủ tướng Trung Quốc - Ôn Gia Bảo tiếp tục đưa ra đề xuất 6 điểm nhằm thúc
đẩy hợp tác ASEAN và Trung Quốc lên tầm cao mới, trong đó thủ tướng Ôn
nhấn mạnh 1 số khía cạnh chủ yếu như: đẩy mạnh việc hợp tác xây dựng, phát
triển cơ sở hạ tầng; tăng cường hợp tác nông nghiệp và nông thôn; thúc đẩy
phát triển bền vững; đẩy mạnh hơn nữa hợp tác khu vực ở các cấp; tăng
cường trao đổi xã hội và văn hóa 2 bên; thúc đẩy hợp tác song phương trong
khuôn khổ Khu vực Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) …
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
18
Chuyên đề thực tập cuối khoá
b. Thúc đẩy hợp tác ASEAN + 3
Cùng với việc đề xuất các sáng kiến và sẵn sàng đóng góp tài chính cho
việc triển khai các sáng kiến đó, Bắc Kinh còn chủ động, tích cực tham gia
vào việc thực hiện các sáng kiến do EASG đề xuất thông qua tất cả các cơ chế
trong khuôn khổ APT.
Trong cơ chế ASEAN + 3, vai trò của Trung Quốc được thể hiện rõ
nét nhất trong việc nước này đã tích cực góp phần thực hiện sáng kiến
Chiềng – Mai. Cho tới cuối năm 2009, Trung Quốc đã ký 8 hiệp định hoán
đổi tiền tệ với các đối tác ASEAN + 3, tổng giá trị các hiệp định lên đến
trên 15,5 tỷ USD.
Trong cơ chế ASEAN + 1, Trung Quốc đã đóng góp vai trò hết sức nổi
trội. Ở tiến trình này, ngoài những hoạt động nhằm tăng cường quan hệ hai
bên, Trung Quốc đã cùng với ASEAN triển khai 1 số biện pháp nhằm thực
hiện 2 biện pháp trung và dài hạn do EASG đề ra. Đó là xúc tiến xây dựng
EAFTA và tổ chức hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Nhằm hiện thực hóa ý
tưởng EAFTA, Trung Quốc đã quyết định xây dựng Khu vực mậu dịch tự do

Trung Quốc – ASEAN (ACFTA) trước. Để ASEAN vốn không mặn mà với
ACFTA, chấp nhận ý tưởng của mình, Trung Quốc đã đề xuất một cơ chế
giảm thuế thông qua chương trình “thu hoạch sớm” dành một số ưu đãi về
thuế cho các nước ASEAN.
Trong cơ chế cộng 3, vai trò của Trung Quốc cũng ngày càng được
khẳng định. Đáng chú ý là tại hội nghị Thượng đỉnh ASEAN + 3 họp tại
Phnôm-Pênh năm 2002, Trung Quốc đã đưa ra sáng kiến thành lập Khu vực
mậu dịch tự do Đông Bắc Á, bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Để xây dựng FTA Đông Bắc Á trong bối cảnh các nước trong khu vực chưa
có thói quen hợp tác đa phương, Trung Quốc đã đề nghị thành lập Khu vực
mậu dịch tự do Nhật Bản - Trung Quốc trước tiên, trên cơ sở FTA song
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
19
Chuyên đề thực tập cuối khoá
phương này thiết lập thành công sẽ mở rộng thêm sự tham gia của Hàn Quốc.
Tuy nhiên Nhật Bản đã né tránh ý tưởng trên.
1.2.3 Mục tiêu hợp tác và vai trò của Nhật Bản
1.2.3.1 Mục tiêu hợp tác của Nhật Bản
Cho tới trước khi ASEAN + 3 ra đời, Nhật Bản luôn không ủng hộ
khuôn khổ hợp tác này bởi người Nhật không muốn gợi nhắc với các nước
Châu Á về “khối thịnh vượng chung Đại Đông Á” mà phát xít Nhật từng gây
ra; điều này còn có lý do đó là chịu ảnh hưởng, chi phối của Hoa Kỳ đối với
chính sách đối ngoại của Nhật.
Tuy nhiên vào năm 1997, khi ASEAN đưa ra ý tưởng gặp các nhà lãnh
đạo Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc tại hội nghị thượng đỉnh không chính
thức lần thứ hai của ASEAN, Nhật Bản đã đồng ý tham gia cuộc gặp này.
Sở dĩ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998, Nhật Bản tham gia
hợp tác ASEAN + 3 là bởi họ nhận thấy rõ hơn vận mệnh chung của mình với
các nước Đông Á – nơi rất gần về vị trí địa lý cũng như có nhiều điểm tương
đồng về văn hóa, xã hội. Nhật nhận thấy sự cần thiết của việc thiết lập một thể

chế riêng Đông Á để giải quyết các vấn đề chung trong khu vực. Hơn nữa,
thái độ của Hoa Kỳ với cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á đã cho thấy họ
không thật sự coi trọng Đông Nam Á như trong chính sách Châu Á – Thái
Bình Dương đã đưa ra. Do đó, Nhật Bản xem đây chính là cơ hội để tăng
cường ảnh hưởng của mình trong khu vực.
Đông Á còn có vai trò kỳ quan trọng cả về an ninh, chính trị và kinh tế
đối với Nhật Bản. Về an ninh quốc gia, Nhật Bản phụ thuộc rất nhiều vào sự
an toàn trên các tuyến đường biển quốc tế chạy qua vùng biển Đông Nam Á.
Cũng thông qua con đường này, Nhật Bản dễ dàng xuất khẩu hàng hóa ra
nước ngoài và nhập khẩu hàng hóa cần thiết phục vụ sản xuất và đời sống. Về
chính trị, Đông Nam Á là nơi thuận lợi nhất cho Nhật Bản thử nghiệm vai trò
chính trị mà Tô- Ky – ô đang muốn thực hiện trong quá trình vươn lên thành
một cường quốc chính trị - mục tiêu mà họ theo đuổi ngay từ cuối những năm
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
20
Chuyên đề thực tập cuối khoá
80 của thế kỷ 20. Về kinh tế, Đông Nam Á là nơi Nhật Bản thu được rất nhiều
lợi ích to lớn, khu vực này không chỉ là thị trường hàng hóa, thị trường đầu
tư, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, đặc biệt là dầu mỏ cho nền kinh tế Nhật
Bản, mà còn là nơi các doanh nghiệp trẻ Nhật Bản được tập dược trước khi
bước vào kinh doanh ở những thị trường lớn và khó tính hơn như Mỹ, EU…
Ngoài ra, trong quá trình tham gia vào hợp tác ASEAN + 3, Nhật Bản đã
nhanh chóng nhận ra rằng khuôn khổ này mang lại những cơ hội thuận lợi cho
họ để cải thiện quan hệ với Hàn Quốc, Trung Quốc và cùng với các nước này
giải quyết một số vấn đề trong khu vực, trước hết là vấn đề hạt nhân trên bán
đảo Triều Tiên hay căng thẳng giữa Đài Loan và Trung Quốc.
Cuối cùng trong cơ chế “cộng 3”, Nhật Bản sẽ có cơ hội đề xuất các sáng
kiến hợp tác khu vực, qua đó nâng cao vị thế của Tô-ky-ô ở Đông Bắc Á cũng
như trên trường quốc tế.
Bởi những lợi ích mà Tô-ky-ô thu được từ Đông Á là không nhỏ nên họ

đã xem việc phát triển quan hệ với các nước này là ưu tiên số một trong chính
sách đối ngoại của mình.
1.2.3.2 Vai trò hợp tác của Nhật Bản trong ASEAN + 3
Sự thay đổi lập trường của người Nhật đối với hợp tác Đông Á đã đóng
góp vai trò quan trọng dẫn tới sự hình thành hợp tác ASEAN + 3 vào tháng
12/1997. Tuy vậy, trong hai năm đầu tham gia vào tiến trình hợp tác này, vai
trò của Nhật Bản trong hợp tác ASEAN + 3 chưa thực sự nổi trội, bởi ưu tiên
hợp tác của Nhật Bản là dành cho tiến trình ASEAN + 1 giữa họ và ASEAN.
Điều này do Tô-ky-ô vẫn lo ngại phản ứng của Hoa Kỳ. Từ sau 1999, khi Hoa
Kỳ không phản đối sự tham gia của Nhật Bản vào ASEAN + 3, họ đã trở nên
năng động hơn và đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn đối với sự phát triển
chung của hợp tác ASEAN + 3.
Trong những năm đầu thế kỷ 21, Nhật Bản đã điều chỉnh chính sách của
mình để tạo ra những thay đổi lớn góp phần tìm vị thế cao hơn về chính trị
trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, khát khao lãnh đạo Đông Á của
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
21
Chuyên đề thực tập cuối khoá
Trung Quốc ngày càng được biểu hiện rõ hơn, do đó Nhật Bản cần phải thay
đổi chính sách của mình đối với Đông Á để cạnh tranh vai trò lãnh đạo với
Trung Quốc. Chính sách Đông Á mới của Nhật Bản đã được Thủ tướng
Koizumi phản ảnh trong bài diễn văn có nhan đề “ Nhật Bản và ASEAN –
một quan hệ đối tác chân thành và cởi mở” đọc tại Singapore ngày 14/2/2002,
nhân kết thúc chuyến thăm các nước ASEAN. Mục tiêu của những thay đổi
này là xây dựng một “cộng đồng hành động cùng nhau và tiến lên cùng
nhau”, mở cửa hợp tác chặt chẽ hơn với các nước ngoài khu vực. Để đạt được
mục tiêu đó, Tô-ky-ô cho rằng cần mở rộng hợp tác Đông Á dựa trên nền tảng
đó là phát triển quan hệ Nhật Bản – ASEAN”. Theo đó, Nhật Bản đề xuất
thúc đẩy hợp tác với các giải pháp chủ yếu sau:
- Phát huy nguồn lực một cách tốt nhất trong khuôn khổ hợp tác ASEAN

+ 3, làm sâu sắc hơn mối quan hệ của Nhật Bản với Trung Quốc và Hàn
Quốc, xem đó là một lực lượng quan trọng để xây dựng cộng đồng Đông Á
cùng phát triển.
- Tăng cường quan hệ đối tác kinh tế khu vực, ngoài ACFTA cần thúc
đẩy FTA giữa ASEAN với Úc, Niu-di-lân.
- Thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quan hệ song phương giữa các thành viên
ASEAN + 3.
Bên cạnh việc tích cực tham gia vào việc hoạch định đường lối phát triển
của hợp tác ASEAN + 3, Nhật Bản còn đề xuất nhiều sáng kiến quan trọng và
có ý nghĩa quyết định trong việc thành lập quỹ tiền tệ Châu Á; sáng kiến
“ASEAN điện tử”; sáng kiến tổ chức “Hội thảo chung giữa các quan chức
chính phủ, các học giả xuất chúng và các lãnh đạo kinh doanh về hợp tác công
nghệ thông tin (IT) ở Đông Á” … Nhật Bản thực sự coi trọng cơ chế ASEAN
+ 1, bởi với Nhật Bản, quan hệ Nhật Bản - ASEAN chính là quan hệ chính
yếu thúc đẩy hợp tác Đông Á. Trong cơ chế này Nhật Bản đã cùng với
ASEAN triển khai nhiều biện pháp hợp tác do EASG đưa ra, đặc biệt là hai
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
22
Chuyên đề thực tập cuối khoá
biện pháp xây dựng EAFTA và tổ chức EAS – 1.
1.2.4 Mục tiêu hợp tác và vai trò của Hàn Quốc
1.2.4.1 Mục tiêu hợp tác của Hàn Quốc
Cũng như Trung Quốc và Nhật Bản, Hàn Quốc đã nhiệt tình ủng hộ sáng
kiến họp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 ở Malaixia tháng 12/1997 do
ASEAN đề xuất ý tưởng. Trong bối cảnh an ninh chính trị ở khu vực có nhiều
biến động và các quan hệ thương mại, đầu tư nội khối đang diễn ra mạnh mẽ,
Hàn Quốc tích cực tham gia hợp tác ASEAN + 3 trước hết là muốn điều chỉnh
kịp thời chính sách đối ngoại của mình để phù hợp hơn với xu hướng đối
ngoại hòa bình, thúc đẩy hợp tác cùng phát triển trong khu vực Đông Á.
Ngoài thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, Hàn Quốc còn chủ

động thúc đẩy hợp tác giữa các nước ASEAN và các nước Đông Bắc Á thông
qua các cơ chế khác nhau như ASEM, ARF …. Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng
mong muốn hàn gắn được những mâu thuẫn giữa Nhật Bản với Trung Quốc
và giữa Nhật Bản với Hàn Quốc do lịch sử để lại.
Tham gia hợp tác ASEAN + 3, Hàn Quốc còn vì mục tiêu kinh tế, bởi
quá trình phát triển mạnh mẽ của các nước Đông Á từ những năm 90 đến nay
đã làm thay đổi căn bản bức tranh kinh tế của khu vực này. Nhật Bản là đối
tác thương mại lớn nhất và là nước đầu tư chủ yếu vào Hàn Quốc, do đó quan
hệ kinh tế Nhật – Hàn có ý nghĩa cũng như tầm quan trọng đặc biệt với Hàn
Quốc. Tuy nhiên Nhật Bản đã bước vào thời kì suy thoái. Trong khi đó Trung
Quốc với những phát triển vượt bậc đã vươn lên thành nước có nền kinh tế
lớn thứ 2 thế giới và giá trị cán cân thương mại Trung - Hàn tăng nhanh
chóng trong những năm qua. Ngoài ra, quan hệ thương mại và đầu tư của Hàn
Quốc với ASEAN cũng có những bước tiến đáng kể từ những năm 90 trở lại
đây, với tổng thương mại song phương vẫn tăng mạnh và đạt 90,2 tỷ USD
trong năm 2008, đã đưa Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 5 của
ASEAN và ngược lại ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Hàn Quốc
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
23
Chuyên đề thực tập cuối khoá
trong năm 2009. Những biến đổi nhanh chóng của quan hệ thương mại và đầu
tư giữa các nước trong nội bộ khu vực Đông Bắc Á, giữa các nước Đông Bắc
Á và giữa các nước Đông Nam Á nêu trên chính là những yếu tố quan trọng
có ý nghĩa quyết định đến chiến lược của Hàn Quốc đối với hợp tác Đông Á.
Chính bởi hợp tác kinh tế với các đối tác trong khu vực phát triển mạnh
mẽ và mang lại nhiều lợi ích như trên nên Hàn Quốc càng nỗ lực tham gia quá
trình đối thoại, hợp tác và liên kết trong khu vực ASEAN + 3 để tạo ra môi
trường hòa bình, thúc đẩy phát triển hợp tác kinh tế hơn nữa giữa các nước
trong khu vực Đông Á, biến Đông Á thành một khối kinh tế - mậu dịch lớn
mạnh hơn nữa đủ sức cân bằng với EU của Châu Âu và NAFTA của Bắc Mỹ.

Một điều quan trọng khác đó là Hàn Quốc hi vọng tiến trình liên kết khu
vực sẽ tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy quá trình phát triển và mở cửa kinh
tế của Bắc Triều Tiên; thúc đẩy hợp tác liên Triều, tạo điều kiện cho quá trình
thống nhất đất nước, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.2.4.2 Vai trò hợp tác của Hàn Quốc trong ASEAN + 3
Ngay từ đầu Hàn Quốc đã chứng tỏ được sự quan trọng của mình trong
hợp tác ASEAN + 3, Hàn Quốc đã đề xuất nhiều sáng kiến quan trọng như
sáng kiến thành lập nhóm nghiên cứu Đông Á, nhóm tầm nhìn Đông Á
(EAVG), thành lập diễn đàn Đông Á, sáng kiến họp thượng đỉnh Đông Á và
đã có những đóng góp to lớn vào việc hiện thực hóa những sáng kiến này.
Ủng hộ và thực hiện hiệu quả sáng kiến Chiềng – Mai, cho đến năm
2003 Hàn Quốc đã chủ động thỏa thuận và đi đến kí kết hoán đổi tiền tệ với
Thái Lan, Philipines, Indonexia và Malaixia, với tổng số tiền hơn 8 tỷ USD.
Để góp phần xây dựng EAFTA, Hàn Quốc đã đề xuất việc thành lập khu
mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) và đã được ký kết vào năm
2009. Trong thời gian gần đây, tại các kỳ họp thượng đỉnh ASEAN – Hàn
Quốc, Sê-un còn đề xuất hàng loạt sáng kiến quan trọng, tiêu biểu như: Sáng
kiến tăng trưởng Xanh ít cacbon bằng việc xây dựng quan hệ đối tác khí hậu
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
24
Chuyên đề thực tập cuối khoá
Đông Á nhằm hỗ trợ các nước thành viên ASEAN ứng phó với sự biến đổi
khí hậu và duy trì sự phát triển bền vững; sáng kiến thành lập tổ chức Hợp tác
rừng Châu Á (AfoCO), nhằm tăng cường hợp tác lâm nghiệp và nâng cao
năng lực để ứng phó với biến đổi khí hậu trong khu vực; đề xuất thiết lập cơ
chế Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc – Mê Kông với mục đích tăng
cường hợp tác kinh tế và phát triển với các nhóm nước khu vực sông Mê
Kông ….
Đối với các cơ chế “cộng 3” trong khuôn khổ APT, Hàn Quốc luôn
tham gia tích cực và đã có những đóng góp đáng ghi nhận. Theo quan điểm

của Hàn Quốc, hợp tác “cộng 3” này là nhân tố quan trọng có tính quyết định
đối với phát triển kinh tế của nước này. Do vậy, Hàn Quốc đã tham gia vào
tiến trình “cộng 3” ngay từ đầu và đã cùng Trung Quốc, Nhật Bản tích cực
tham gia vào việc soạn thảo để ký kết “Tuyên bố chung về thúc đẩy hợp tác
ba bên” vào tháng 10/2003. Bộ trưởng ngoại giao ba bên đã thường xuyên tổ
chức các cuộc họp bàn về các biện pháp thúc đẩy trong lĩnh vực hợp tác
thương mại, đầu tư và bảo vệ môi trường. Trong cơ chế “cộng 3”, đóng góp
quan trọng nhất của Hàn Quốc là nỗ lực phối hợp với Nhật Bản, Trung Quốc
trong các vòng đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên.
Trong bối cảnh căng thẳng của quan hệ Nhật - Trung, các nhà lãnh đạo
Hàn Quốc cũng đã sớm nhận ra họ đang ở vị thế thuận lợi để phát huy vai trò
cầu nối giữa hai cường quốc phát triển thứ 2, thứ 3 thế giới này. Để hiện thực
hóa ý tưởng trên, Hàn Quốc đã ủng hộ đề xuất của Nhật Bản và Trung Quốc
về thỏa thuận mậu dịch tự do giữa Nhật Bản – Hàn Quốc, Trung Quốc – Hàn
Quốc. Hiện nay Sê-un đang đàm phán với Tô-ky-ô và Bắc Kinh về các thỏa
thuận FTA như vậy.
SV: Nguyễn Cao Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 49B
25

×