Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Những tác động của xuất khẩu đến sự phát triển kinh tế ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.1 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
------------------------------
TIỂU LUẬN
KINH TẾ PHÁT TRIỂN
NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ VIỆT NAM
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
Hà Nội, 2011
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triền mạnh mẽ kéo theo sự đi lên tất
yếu của các hoạt động trao đổi buôn bán thương mại giữa các nhóm, các khu vực
kinh tế hay giữa các quốc gia trên Thế giới. Ngày nay, trong mạch chảy không
ngừng nghỉ đó, Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Từ những thập niên gần
đây và đặc biệt là từ năm 2008 đến nay, các hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta đã
diễn ra sôi nổi trên tất cả các quy mô lớn, vừa và nhỏ với tốc độ phát triển nhanh
chóng. Điều này góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế, tận dụng được
những lợi thế so sánh của nước ta, đồng thời nâng cao vị thí của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Chính vì tầm quan trọng như vậy của Xuất nhập khẩu đến sự phát triển kinh
tế, bài tiểu luận đã đi sâu vào nghiên cứu nhằm rút ra mối quan hệ biện chứng của
hoạt động này và nền kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, bài tiểu luận này tập trung tìm
hiểu về một mặt của vấn đề trên: đó chính là Những tác động của xuất khẩu đến
sự phát triền kinh tế ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
Nội dung đầu tiên mà bài tiểu luận đề cập đến là đưa ra một bức tranh toàn
cành về thực trạng xuất khẩu ở Việt Nam những năm từ 2008 đến nay, kết hợp vận
dụng với những lý thuyết kinh tế vĩ mô để nêu lên mối quan hệ giữa chúng. Nội
dung tiếp theo là nghiên cứu cụ thể hơn những tác động của xuất khẩu đến phát
triển kinh tế Việt Nam, trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Điều quan
trọng cuối cùng chính là từ tất cả những con số, dữ liệu thu thập được từ lý thuyết
và thực tế nền kinh tế, bài tiểu luận xin đưa ra một số đề xuất nhằm khắc phục


những tác động tiêu cực, tăng cường những tác động tích cực của xuất khẩu đối với
phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Bài tiểu luận của chúng em chắc chắn sẽ không thể đi sâu đến tất cả các khía
cạnh của vấn đề và gặp phải những thiếu sót. Chúng em rất mong được sự góp ý,
sửa đổi, giúp đỡ của cô giáo cùng các bạn để có thể rút ra những kinh nghiệm quý
báu cho bài tiểu luận này và những bài tập sau được hoàn thiện và thành công hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Danh sách nhóm thuyết trình Kinh tế phát triển
STT Họ và tên MSV
1 Nguyễn Hồng Ngọc
2 Đỗ Thu Hà
3 Vương Minh Hằng
4 Nguyễn Thiều Thảo Linh
5 Thảo Trần
6 Ninh Phương Hồng
7 Nguyễn Nguyệt Ánh
8 Trần Hương Thảo
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY
Tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2008 đến nay sẽ được đánh giá
dựa trên 2 tiêu chí là chất và lượng, mặt lượng sẽ được đánh giá dựa trên giá trị
xuất khẩu, mặt chất sẽ được đánh giá dựa trên vị thế của Việt Nam so với khu vực
và thế giới cùng với đó là những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những
năm gần đây, từ đó chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quát hơn về tình hình xuất khẩu
của Việt Nam.
1. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2008 đến 8 tháng đầu năm
2011
Năm 2008 2009 2010
2011

(dự đoán)
2011
(8 tháng đầu năm)
Giá trị(tỷ
USD)
62,69 57,1 72,19 84,7 60,8
Nguồn: Tổng cục thống kê />tabid=393&idmid=3&ItemID=10376
Tổng cục hải quan
/>a. Đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam dựa theo giá trị xuất
khẩu
Biểu đồ giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2008-2011
Trong 3 năm 2008-2011 giá trị xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng
lên.Theo dự đoán đến hết năm 2011 xuất khẩu Việt Nam có thể đạt 84,7 tỷ USD
tăng 22,01 tỷ USD tương đương 35,1 % so với năm 2008.
Tuy nhiên, năm 2009 do ảnh hưởng của khủng cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới đã làm gía trị xuất khẩu của Việt Nam giảm xuống 5,59 tỷ USD tương đương
8,9% so với năm 2008.
Năm 2010, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng rất nhanh,tăng 15.09 tỷ
USD tương đương 26,4% so với năm 2009, đứng thứ 39 trên thế giới tăng 2 bậc so
với năm 2009 tuy nhiên theo thống kê mức độ tăng trưởng này của Việt Nam cao
hơn so với Campuchia, ngang bằng với mức tăng của Malaysia và thấp hơn tốc độ
tăng của tất cả các nước ASEAN khác.
Dựa theo tình hình xuất khẩu năm 2010 và tình hình kinh tế thế giới một số
nhà kinh tế đã dự đoán vào cuối năm 2011 giá trị xuất khẩu của Viêt Nam có thể
đạt tới 84,7 triệu USD,tăng 12,51 tỷ USD tương đương 17,3% so với năm 2010.
Theo số liệu thống kê mới nhất trong 8 tháng đầu năm 2011 giá trị xuất khẩu
của Việt Nam đặt 60,8 tỷ USD tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Từ số liệu giá trị xuất khẩu các năm 2008-2010 cho thấy mặc dù giá trị xuất
khẩu nước ta có xu hướng tăng lên nhưng tốc độ tăng giảm dần qua các năm.
b. Đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam thông qua tỷ trọng so

với thế giới
Chỉ tiêu/năm 2008 2009 2010
Tỷ trọng trên thế giới(%) 0,4 0,45 0,47
Tỷ trọng trong Asean(%) 6,33 6,95 6,86
Trong 3 năm 2008 đến 2010 tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam so với thế giới
tăng 0,07% từ 0,4% năm 2008 lên 0,47% năm 2010. Trong đó từ năm 2008 đến
năm 2009 tăng 0,05% nhiều hơn mức tăng từ năm 2009 đến năm 2010 (0,02%)
Nếu so với thế giới tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng nhẹ
đều đặn và liên tục trong 3 năm
Trong khu vực ASEAN tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam trong 3 năm tăng
0,53% từ 6,33% năm 2008 lên 6,86% năm 2010
Tuy nhiên xét trong khu vực ASEAN tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam có xu
hướng tăng giảm không liên tục,năm 2009 tăng 0,62% so với năm 2008 nhưng đến
ngay sau đó năm 2010 thì lại giảm 0,09% so với năm 2009
2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam từ năm 2008 đến
2011
Biểu đồ các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2008 đến 8 tháng đầu năm 2011
Nhận xét
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là các mặt hàng thuộc nhóm
ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
Qua 3 năm từ 2008-2010 và 8 tháng đầu năm 2011 cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam có sự chuyện biến rõ rệt
Trong 3 năm từ 2008-2010 tỷ trọng xuất khẩu ngành công nghiệp nặng và
khoáng sản giảm liên tục trong các năm từ 37% năm 2008 xuống còn 27,2% năm
2010 giảm 9,8%. Tính đến 8 tháng đầu năm 2011 tỷ trọng xuất khẩu của nhóm
hàng này chỉ còn 26.6% nghĩa là giảm tiếp 0,6% so với năm 2010
Trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hướng giảm
liên tục thì ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có xu hướng tăng đều
qua các năm 2008-2010,trong vòng 3 năm tỷ trọng nhóm nghành này tăng 6,2%,tuy
nhiên trong 8 tháng đầu năm 2011 tỷ trọng nhóm ngành này có biểu hiện sụt giảm

khi chỉ còn 43,4% giảm 2,6% so với năm 2010.Năm 2010 là năm chứng kiến sự
phát triển vượt bậc của xuất khẩu ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
khi ngành hàng dệt may vươn lên đứng thứ 10 trên thế giới với giá trị xuất khẩu đạt
11 tỷ USD.
So với năm 2008 tỷ trọng nhóm ngành nông lâm thuỷ sản cũng có sự tăng
nhẹ khi tăng 0,2% trong năm 2010, nhưng nếu so với năm 2009 thì tỷ trọng của
nhóm ngành này giảm 0,4%, đây là nhóm ngành sự tăng giảm tỷ trọng không đáng
kể trong 3 năm từ 2008-2010, tuy nhiên, tính đến 8 tháng đầu năm 2011, ta thấy
nhóm ngành nông lâm thuỷ sản có sự tăng trưởng vượt bậc, khi chiếm tỷ trọng
28,05% trong kim ngạch xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2011 tăng 5,25% so với năm
2010. Đây cũng là nhóm ngành mà Việt Nam đang giữ vị trí khá cao trên bản đồ
xuất khẩu trên thế giới với các mặt hàng truyền thống như gạo, cà phê, cao su hạt
điều.
Trong tất cả các mặt hàng thì mặt hàng vàng phi tiền tệ có sự thay đổi rõ rệt
nhất khi tăng lên gấp 6,67 lần trong vòng 3 năm, tỷ trọng xuất khẩu ngành này có
sự tăng giảm không đồng đều qua các năm
Từ năm 2008-2009 ta thấy sự nhảy vọt của xuất khẩu trong lĩnh vực vàng phi
tiền tệ khi tăng từ 0,6% năm 2008 lên 4,6% trong năm 2009, tăng gấp 7,6 lần tuy
nhiên đến năm 2010 mặt hàng này có sự giảm nhẹ về tỷ trọng khi giảm xuống còn
4%, tính đến 8 tháng đầu năm 2011 ta lại thấy sự giảm sút tỷ trọng của mặt hàng
này xuống chỉ còn 1,95% chỉ còn bằng 0,49 lần so với năm 2010
3. Nhận xét chung
Trong vòng 3 năm từ 2008 đến 2010 giá trị xuất khẩu Việt Nam có sự tăng
trưởng rõ ràng,tỷ trọng xuất khẩu trên thị trường thế giới cũng tăng,trong đó có sự
thay đổi về cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu,tăng tỷ trọng mặt hàng công nghiệp nhẹ
và thủ công nghiệp giảm tỷ trọng mặt hàng công nghiệp nặng và khoáng sản,mặt
hàng nông lâm thuỷ sản cũng có sự biến đổi nhưng không đáng kể,các mặt hàng
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp cũng đã đạt được những thành tích đáng
kể,đang dần dần khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường thế giới,mặt khác Việt
Nam vẫn duy trì được thế mạnh ở các mặt hàng truyển thống như gạo,cà phê…..,sự

thay đổi tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu cũng đã góp phần cho sự đi lên phát triển
đất nước
CHƯƠNG 2
Những tác động của xuất khẩu đến phát triển kinh tế của Việt Nam từ
năm 2008 đến nay
1. Những tác động tích cực của xuất khẩu đến phát triển kinh tế của Việt
Nam
a. Kích thích tăng trưởng kinh tế
Sau nhiều năm đổi mới kể từ đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam từ một
nước trì trệ, tăng trưởng thấp, tích lũy chủ yếu nhờ vào vay mượn bên ngoài, đến
nay đã trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Đóng góp vào
tăng trưởng của kinh tế Việt Nam là một phần không nhỏ của xuất khẩu. Sự tăng
trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu đã tác động rất tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn vừa qua. Đây là vấn đề rất ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia theo bảng cân đối tổng sản phẩm quốc
dân là do tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu của chính phủ, xuất khẩu và nhập khẩu (tức cán
cân thương mại quốc tế) đóng góp. Tác động của xuất khẩu tới tăng trưởng kinh tế
ở đây là tác động trực tiếp và đây chính là một trong những động lực khiến tăng
trưởng kinh tế duy trì được ở mức cao như vậy.
Chúng ta hãy cùng xem xét tác động của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam thông qua các khía cạnh như: đóng góp của xuất khẩu trong tỉ
trọng GDP, mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu.
• Đóng góp của xuất khẩu trong tỉ trọng GDP
Bảng: Xuất khẩu bình quân đầu người và tỉ trọng chiếm trong GDP
Năm
Kim ngạch XK
(tỉ USD)
XK bình quân

đầu người (USD)
Tỉ trọng xuất
khẩu trong GDP
(%)
2008 62,69 727,60 67,99
2009 57,10 665,58 58,81
2010 72,19 830,53 69,68
2011 84,70 935,39 77,14
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong giai đoạn vừa qua, xuất khẩu đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng
kinh tế Việt Nam.Từ năm 2008 đến nay, tỉ trọng của xuất khẩu trong GDP cao và
có xu hướng tăng. Trong giai đoạn 2008 – 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm nhưng vẫn chiếm tỉ
trọng cao trong GDP: năm 2008 chiếm 67,99%; năm 2009 chiếm 58,81% và góp
phần không nhỏ duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu.
Những năm gần đây, tỉ trọng xuất khẩu trong GDP luôn được duy trì ở mức
cao và có xu hướng tăng càng thể hiện vai trò của xuất khẩu tới tăng trưởng kinh tế.
Năm 2008, con số này ở khoảng 67,99%, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 2009 giảm xuống 58,81% và hồi phục trở lại vào năm 2010 với
69,68%. Đến năm 2011, trong 8 tháng đầu năm, mức đóng góp của xuất khẩu vào
GDP đạt 77,14%, cao nhất từ trước đến nay.
Điều này cho thấy xuất khẩu là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua.
• Mối quan hệ chặt chẽ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu.
Rõ ràng xuất khẩu là một bộ phận của GDP, mỗi sự thay đổi của xuất khẩu sẽ
kéo theo sự thay đổi của GDP. Theo tính toán của một nhà nghiên cứu hiện nay,
GDP cứ tăng 2% là có đóng góp 1% của xuất khẩu. Để đánh giá sâu hơn đóng góp
của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chúng ta xem xét mối quan hệ

giữa tốc độ tăng trưởng xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng GDP.
Đồ thị tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu và tốc độ tăng trưởng GDP
Nguồn: Tính toán dựa trên nguốn của Tổng cục Thống kê
Từ đồ thị trên có thể thấy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng
kinh tế dường như có mối quan hệ với nhau. Trong giai đoạn 2008 – 2009, tăng
trưởng xuất khẩu có xu hướng đi xuống và nền kinh tế cũng tăng trưởng chậm
lại.Sang năm 2010, xuất khẩu lại tăng và thúc đẩy nền kinh tế tiếp tục phục hồi và
tăng trưởng kinh tế đạt với tốc độ 55%/năm. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu kể từ
năm 2010 trở lại đây tuy có giảm nhưng vẫn duy trì ở tốc độ cao 33% đẩy tăng
trưởng GDP đạt tốc độ 40%.
Có thể thấy trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng của xuất
khẩu, nền kinh tế Việt Nam đã đạt những thành tựu quan trọng trong tăng trưởng
kinh tế: GDP (tính theo giá trị so sánh) năm 2010 gấp 2 lần so với năm 2000; (tính
theo giá trị thực tế tính bằng đồng đô la Mỹ) ước đạt trên 101 tỉ USD, gấp hơn 3,2
lần năm 2000 (31,2 tỉ USD); (theo giá thực tế bình quân đầu người) ước khoảng
1.160 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt qua ngưỡng
nước đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước có mức thu nhập trung
bình.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thấy rõ một điều rằng tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu trong thời gian qua giao động khá mạnh. Điều này cho thấy nguy cơ tăng
trưởng xuất khẩu kém bền vững của Việt Nam – một đất nước chủ yếu vẫn còn xuất
khẩu sản phẩm sơ chế. Do đó, cần phải có biện pháp quản lí tốt xuất khẩu mới bảo
đảm được sự tăng trưởng bền vững.
b. Tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Tuy xuất phát
điểm kinh tế rất thấp đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam nhưng trong điều
kiện nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ cùng với các cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật, Việt Nam cũng có thuận lợi đó là cơ hội rút ngắn quá trình CNH –

HĐH của mình bằng cách nhập khẩu các thiết bị máy móc kĩ thuật, công nghệ tiên
tiến và kinh nghiệm quản lí từ các nước phát triển mà không cần phải bắt đầu từ
đầu.
Quá trình CNH – HĐH ở nước ta những năm gần đây đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ trong đó xuất khẩu đóng một vai trò không nhỏ.Mục tiêu quan
trọng nhất của xuất khẩu chính là có được ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế trong đó có một nhiệm vụ rất quan trọng đó là phục vụ cho công nghiệp hóa
đất nước.
Đối với một nước có nền kinh tế phát triển vẫn còn lạc hậu như Việt Nam thì
nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lí là một điều
rất quan trọng phục vụ quá trình CNH – HĐH. Muốn vậy, chúng ta phải có một
lượng vốn ngoại tệ đủ lớn. Nguồn ngoại tệ này có thể xuất phát từ các nguồn như:
xuất khẩu hàng hóa, đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch
dịch vụ, xuất khẩu sức lao động… Trong số này, xuất khẩu trong thời gian qua đã
tỏ ra là nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp hóa đất
nước.Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ của nhập khẩu.
Bảng: Kim ngạch xuất – nhập khẩu và tỉ lệ nhập khẩu/ xuất khẩu 2008 – 2011
Năm 2008 2009 2010 2011
Xuất khẩu (tỉ USD) 62,69 57,10 72,19 84,70
Nhập khẩu (tỉ USD) 75,50 65,40 79,30 92,10
Nhập khẩu/ Xuất khẩu (%) 120,43 114,54 109,85 108,74
Nguồn: Tính toán dựa trên nguồn của Tổng cục Thống kê.
Tỉ trọng nhập khẩu/ xuất khẩu ngày càng giảm, từ 120,43% năm 2008 xuống
108,74% năm 2011 chứng tỏ trong những năm gần đây, ngoại tệ thu được từ xuất
khẩu đã đáp ứng được một phần lớn nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu.
Có thể thấy xuất khẩu luôn là một nguồn ngoại tệ lớn nhất và rất quan trọng,
bên cạnh những nguồn ngoại tệ khác. Mặt khác, các nguồn vốn như đầu tư nước
ngoài hay viện trợ, vay nợ tuy cũng rất quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng
cách này hay cách khác ở các thời kì sau, nếu phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn
này thì chúng ta sẽ dễ gặp phải những rủi ro nhất định. Chính vì vậy, vốn ngoại tệ

thu từ xuất khẩu lại càng trở nên quan trọng hơn phục vụ cho nhập khẩu và công
nghiệp hóa đất nước.
c. Giải quyết việc làm cho người lao động và cải thiện đời sống nhân
dân
• Tình hình lực lượng lao động nước ta trong thời kỳ 2008 đến
nay
Năm 2008 - 2009 được đánh giá là ảnh hưởng của suy thoái kinh tế lao động
nên khó tìm kiếm việc làm trong khi nhu cầu tiêu dùng không giảm, thậm chí còn
được kích cầu để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Lao động mất việc làm,
được hưởng trợ cấp mất việc nhiều lên. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế,
thì đó không phải là rào cản lớn nhất mà sự mất cân đối nghiêm trọng của lực
lượng lao động hiện đang gây khó khăn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế
Việt Nam. Theo báo cáo mới nhất về thực trạng cung - cầu lao động được Bộ Lao
động, Thương binh & Xã hội công bố thì cả nước hiện có trên 48 triệu lao động,
trong đó 73% số lao động trên tập trung ở nông thôn. Đặc biệt, trong số 44/48 triệu
lao động có việc làm thì 70% số đó có làm việc không ổn định, là lao động tự do,
dễ bị Tổn thương, dễ bị rơi vào tình trạng nghèo đói.
- Thông qua các Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các dự án, các
hoạt động thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm năm 2010 đã
tạo việc làm cho 1,610 triệu lao động (100,6% kế hoạch), trong đó tạo
việc làm trong nước cho khoảng 1,525 triệu lao động (100,7% kế hoạch).
Nhìn chung, năm 2010 lĩnh vực việc làm, thị trường lao động, bảo hiểm
thất nghiệp được triển khai hiệu quả, hoàn thành chỉ tiêu được giao. Các
hoạt động giao dịch việc làm được diễn ra với tần suất thường xuyên hơn,
quy mô mở rộng hơn, hiệu quả kết nối cung – cầu lao động cao hơn. Công
tác phân tích, dự báo thị trường lao động bước đầu đã đạt được những kết
quả nhất định, hoàn thành việc xây dựng Báo cáo xu hướng việc làm năm
2010 phục vụ cho hoạch định chính sách thị trường lao động. Chính sách

×