Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.09 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
ĐỀ TÀI :
THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG CHI
NHÁNH ĐỐNG ĐA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Giáo viên hướng dẫn : TS. Dương Thị Ngân
Sinh viên thực hiện : Ngô Hoài Thu
MSV : CQ49250
Lớp chuyên ngành : Thương mại quốc tế
Khóa : 49

Hà Nội – 04/2011
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà nội, ngày 26 tháng 11 năm 2010
BẢN CAM KẾT
Tên tôi là: Ngô Hoài Thu Chức vụ: sinh viên
Sinh viên lớp: Thương Mại Quốc Tế K49.
Khoa: Thương Mại & Kinh Tế Quốc Tế.
Trường: ĐH KINH TẾ QUỐC DÂN.
Tôi xin cam kết những điều sau đây:
1. Không sao chép tài liệu luận văn của các khóa trước. Những luận
văn này chỉ mang tính tham khảo.
2. Chấp hành nghiêm túc nghiêm chỉnh kế hoạch thực tập, kỷ luật lao
động.
3. Tiếp thu ý kiến giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn và cán
bộ cơ sở thực tập.
Nếu tôi vi phạm những điều kể trên thì sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm và
chịu sự kỷ luật của nhà trường.


Người cam kết
MỤC LỤC
Thực hiện các dịch vụ kinh doanh tiền tệ , ngoại hối 41
3
Danh mục các từ viết tắt
NHTM : Ngân hàng thương mại
TTQT : Thanh toán quốc tế
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
BCT : Bộ chứng từ
NHPV : Ngân hàng phục vụ
NHNT : Ngân hàng nhờ thu
NHTH : Ngân hàng thu hộ
NHXT : Ngân hàng xuất trình
NHĐL : Ngân hàng đại lí
NHCT : Ngân hàng công thương
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMCPCT : Ngân hàng thương mại cổ phần công thương
CNĐĐ : Chi nhánh Đống Đa
NHXN : Ngân hàng xác nhận
BCTXT : Bộ chứng từ xuất trình
TGHĐ : Tỷ giá hối đoái
QLNH : Quản lý ngoại hối
TMQT : Thương mại quốc tế
TTXNK : Thanh toán xuất nhập khẩu
NHCPTM VN : Ngân hàng cổ phần thương mại Việt Nam
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
SXKD : Sản xuất kinh doanh
5
Danh mục bảng biểu
Thực hiện các dịch vụ kinh doanh tiền tệ , ngoại hối 41

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, với xu hướng toàn cầu hóa, các hoạt động mua bán quốc
tế ngày một tăng lên, cũng như ngày càng mang một vai trò to lớn hơn
trong việc phát triển kinh tế Thế giới. Việt Nam là một nước đang phát
triển, từng bước hòa nhập với nền kinh tế thị trường và sức ép từ các hoạt
động ngoại thương. Do đó, xuất nhập khẩu là lĩnh vực luôn được quan tâm,
đầu tư phát triển một cách sâu sắc. Bên cạnh sự đi lên của hoạt động
thương mại giữa các nước, các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cũng theo đó
mà tồn tại và phát triển không ngừng. Có thể nói, cho đến ngày nay, các
nghiệp vụ như : thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, tài trợ ngoại
thương, … đã trở nên không thể thiếu và có vai trò ngày một quan trọng
hơn.
Hơn nữa, thanh toán quốc tế không chỉ đóng góp vai trò trong việc
phát triển kinh tế nói chung mà còn là một dịch vụ quan trọng đối với các
Ngân hàng Thương mại, là một hoạt động kinh doanh mang lại nhiều
doanh thu. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam là một trong số các
ngân hàng của Việt Nam có hoạt động thanh toán quốc tế tốt nhất. Chi
nhánh cấp 1 – Ngân hàng TMCP Công thương – Chi nhánh Đống Đa là
một phần của Vietinbank và không ngừng góp phần vào sự phát triển của
ngân hàng này. Tuy là chi nhánh cấp 1, nhưng hiện nay, Ngân hàng TMCP
Công thương – Chi nhánh Đống Đa đã có được sự phát triển vượt bậc cùng
với các dịch vụ đầy đủ của mình, trong số đó có thể nói đến hoạt động
thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, thương mại và thanh toán quốc tế là hai hoạt động vốn rất
phức tạp và mang nhiều rủi ro hơn so với thương mại và thanh toán nội địa
do nó còn chịu tác động bởi luật lệ, các tập quán, ngôn ngữ và đồng tiền
của nhiều hơn một quốc gia. Chính vì thế, để có thể phát triển và thành
công trong thanh toán quốc tế, cán bộ công nhân viên các ngân hàng
thương mại ngày nay không chỉ cần giỏi về nghiệp vụ mà còn phải giỏi về
ngoại ngữ, nắm bắt được các luật lệ cũng như tập quán thanh toán quốc tế.

Hơn nữa, để cạnh tranh được trong môi trường tiên tiến của thế giới, các
ngân hàng thương mại cần phải không ngừng đưa ra các chính sách hợp lý
để thu hút được khách hàng; không ngừng nâng cao và đa dạng hóa nghiệp
vụ thanh toán quốc tế để tạo dựng lòng tin đối với các đối tác nước ngoài;
mở rộng hơn nữa phạm vi hoạt động trong và ngoài nước, cũng như cập
nhật các công nghệ tiên tiến nhằm phục vụ được khách hàng nhanh chóng
và an toàn. Với những thách thức và rủi ro như thế trong hoạt động thanh
7
toán quốc tế, Ngân hàng Công thương Đống Đa vẫn luôn ổn định hoạt
động của mình và mang lại những kết quả khả quan hơn qua từng năm.
Qua quá trình thực tập tại Ngân hàng TMCP Công thương – Chi
nhánh Đống Đa, kết hợp với những kiến thức đã được học tại Trường Đại
học Kinh tế quốc dân, tôi đã lựa chọn chuyên đề thực tập “ Thanh toán
quốc tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa : Thực trạng và giải pháp ”.
Thanh toán quốc tế là một trong những hoạt động chính của Chi nhánh, có
được những sự phát triển không ngừng như tăng 145% năm 2010 so với
năm 2009. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân
hàng TMCP Công thương – Chi nhánh Đống Đa vẫn còn một số điểm hạn
chế cần khắc phục. Chuyên đề thực tập này gồm 3 phần :
Chương I : Lý luận chung về thanh toán quốc tế.
Chương II : Thực trạng về thanh toán quốc tế tại Ngân hàng
TMCP Công thương – Chi nhánh Đống Đa.
Chương III : Một số đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động thanh
toán quốc tế tại Ngân hàng TMCP Công thương – Chi nhánh Đống Đa.
Hoàn thành chuyên đề này trước hết em xin chân thành cảm ơn các
anh chị Phòng khách hàng số 2 của Ngân hàng TMCP Công thương – Chi
nhánh Đống Đa đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn thực tập TS.
Dương Thị Ngân đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn cho em trong quá trình
hoàn thành chuyên đề này.

8
Chương I : Lý luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế
1. Khái niệm thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền
hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế
giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa
một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của
các nước liên quan.
2. Khái quát các phương thức thanh toán quốc tế.
2.1. Phương thức thanh toán ứng trước, ghi sổ và chuyển tiền.
Thanh toán ứng trước, ghi sổ hay chuyển tiền đều là những phương
thức thanh toán quốc tế đơn giản nhất chỉ có thể áp dụng khi nhà xuất khẩu
và nhà nhập khẩu có mối quan hệ uy tín và tin tưởng lẫn nhau. Thanh toán
ứng trước và ghi sổ, chỉ cần có sự tham gia của hai bên là nhà xuất khẩu và
nhà nhập khẩu, còn phương thức chuyển tiền, ngân hàng tham gia với vai
trò là trung gian thanh toán theo ủy nhiệm.
2.1.1. Phương thức ứng trước.
Người mua chấp nhận giá hàng của người bán bằng đơn đặt hàng
chắc chắn ( không hủy ngang ) đồng thời chuyển tiền thanh toán một phần
hay toàn phần, nghĩa là việc thanh toán xảy ra trước khi hàng hóa được
người bán chuyển giao cho người mua được gọi là thanh toán ứng trước.
Mốc thời gian làm căn cứ trả tiền trước có thể là ngay khi ký hợp
đồng hay trả tiền cùng với đơn đặt hàng, sau khi hợp đồng có hiệu lực một
thời gian nhất định, hoặc trả trước khi giao hàng một thời gian nhất định.
Ứng với mỗi mốc thời gian trên, nhà nhập khẩu ứng trước tiền hàng cho
nhà xuất khẩu với một mục đích cụ thể. Mục đích của việc thanh toán trước
có thể nhằm cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu hoặc đảm bảo việc thực hiện
hợp đồng của nhà nhập khẩu.
Việc thanh toán ứng trước giúp cho nhà nhập khẩu chắc chắn nhận
được hàng hóa ngay cả khi nhà xuất khẩu vì một lý do nào đó không còn

muốn giao hàng hoặc có thể thương lượng đề nghị người bán giảm giá bán.
Về phía nhà xuất khẩu do được thanh toán trước tiền hàng nên họ tránh
được rủi ro vỡ nợ từ phía nhà nhập khẩu, tiết kiệm được chi phí quản lý và
kiểm soát tín dụng. Tuy nhiên, thanh toán ứng trước cũng mang lại cho nhà
nhập khẩu rủi ro nếu như nhà xuất khẩu đã nhận được ứng trước nhưng
không giao hàng, giao hàng thiếu hay không có khả năng giao hàng như
thỏa thuận. Để tránh được rủi ro này, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu bảo
lãnh hợp đồng, bảo hiểm đầy đủ cho hàng hóa trong quá trình vận chuyển
và được hưởng lợi bảo hiểm ngay cả trong trường hợp bảo hiểm hàng hóa
9
do nhà xuất khẩu mua. Còn về phía nhà xuất khẩu, họ có thể gặp phải rủi ro
khi nhà nhập khẩu đã đặt hàng nhưng không chuyển tiền trước như thỏa
thuận, trong khi đó hàng hóa đã được nhà xuất khẩu thu mua. Do đó, nhà
xuất khẩu phải chịu chi phí quản lý, chi phí lưu kho, tiền bảo hiểm, hoặc
thậm chí là phải tìm khách hàng mới, giảm giá bán.
2.1.2. Phương thức ghi sổ.
Ghi sổ là phương thức thanh toán, trong đó nhà xuất khẩu sau khi
hoàn thành giao hàng thì ghi Nợ tài khoản cho bên nhập khẩu vào một cuốn
sổ theo dõi và việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện thông
thường theo định kỳ như đã thỏa thuận.
Như vậy, thực chất, ghi sổ là phương thức thanh toán nợ còn khất lại,
ngược với phương thức thanh toán ứng trước. Phương thức này chỉ áp dụng
trong trường hợp hai bên mua bán phải thực sự tin tưởng lẫn nhau.
2.1.3. Phương thức chuyển tiền.
Chuyển tiền là phương thức thanh toán, trong đó khách hàng ( người
chuyển tiền ) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất
định cho một người khác (người hưởng lợi ) theo một địa chỉ nhất định và
trong một thời gian nhất định.
Có thể nói, chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản mà
người chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán trực tiếp với

nhau. Ngân hàng trong trường hợp này chỉ đóng vai trò là trung gian thanh
toán theo ủy nhiệm để nhận hoa hồng và không bị ràng buộc bất cứ trách
nhiệm nào đối với người chuyển tiền và người hưởng lợi. Đối với phương
thức chuyển tiền, không thể đảm bảo việc người mua sẽ trả tiền. Người
mua sau khi nhận hàng có thể không tiến hành trả tiền hoặc cố tình kéo dài
thời hạn chuyển tiền nhằm chiếm dụng vốn của người bán. Do nhược điểm
này nên trong mua bán quốc tế, chuyển tiền chỉ được áp dụng khi các bên
có uy tín, tin cậy lẫn nhau.
Có hai hình thức chuyển tiền sau :
- T/T : Hình thức điện chuyển tiền :là hình thức chuyển tiền trong đó
lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung một
bức điện.
- M/T : Hình thức thư chuyển tiền : là hình thức chuyển tiền trong đó
lệnh thanh toán của ngân hàn chuyển tiền được chuyển bằng thư.
Có thể thấy rõ ràng, T/T là hình thức chuyển tiền nhanh hơn, do đó
có lợi hơn cho nhà xuất khẩu nhưng chi phí cao; M/T là hình thức chuyển
tiền chậm nhưng chi phí thấp.
10
Các bên tham gia vào nghiệp vụ chuyển tiền gồm có : người chuyển
tiền (nhà nhập khẩu), người thụ hưởng (nhà xuất khẩu), ngân hàng chuyển
tiền (ngân hàng phục vụ người chuyển tiền) và ngân hàng trả tiền ( ngân
hàng đại lý hoặc chi nhánh của ngân hàng chuyển tiền).
2.2.Phương thức thanh toán nhờ thu.
Có thể thấy rằng, nhờ thu là phương thức thanh toán quốc tế có ưu
điểm cơ bản là đã dung hòa được tính an toàn và rủi ro so với các phương
thức ứng trước, ghi sổ và chuyển tiền, nhưng lại giảm được chi phí so với
phương thức tín dụng chứng từ.
11
2.2.1. Khái niệm thanh toán nhờ thu.
Nhờ thu là phương thức thanh toán, theo đó bên bán sau khi giao

hàng hay cung ứng dịch vụ, ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình
BCT thông qua ngân hàng đại lý co bên mua để được thanh toán, chấp
nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác.
Các bên tham gia :
- Người ủy thác thu : là người yêu cầu ngân hàng phục vụ ( NHPV )
mình thu hộ tiền. Do đó, người ủy thác thu là người quy định nội dung giao
dịch, đưa ra chỉ thị trong dây chuyền nhờ thu cho tất cả các bên, là người
có quyền thụ hưởng và chịu chi phí cuối cùng từ nhờ thu.
- Ngân hàng nhờ thu ( NHNT ) : là ngân hàng, theo yêu cầu của
người ủy thác chấp nhận chuyển nhờ thu đến ngân hàng đại lý ( NHĐL ) ở
gần và thuận tiện với người trả tiền. Ngân hàng này phục vụ người ủy thác
do đó trong quá trình xử lý nhờ thu phải chịu trách nhiệm với người ủy
thác.
- Ngân hàng thu hộ ( NHTH ): thông thường là NHĐL hay chi nhánh
của NHTH có trụ sở ở nước người trả tiền. NHTH nhận Nhờ thu từ NHNT
và thực hiện thu tiền theo các chỉ thị ghi trong lệnh nhờ thu. Sau khi thu
được tiền, NHTH phải chuyển trả cho NHNT và chịu trách nhiệm nhờ thu
với NHNT.
- Ngân hàng xuất trình ( NHXT ) : Trong trường hợp, người trả tiền
có quan hệ tài khoản với NHTH thì NHTH sẽ xuất trình nhờ thu trực tiếp
cho người trả tiền, tức là NHTH đồng thời là NHXT. Nếu người trả tiền
không có quan hệ tài khoản với NHTH, thì NHTH có thể chuyển nhờ thu
cho một ngân hàng khác có quan hệ tài khoản với người trả tiền để xuất
trình, tức là ngân hàng phục vụ người trả tiền trở thành NHXT và chịu
trách nhiệm trực tiếp với NHTH.
- Người trả tiền : là người mà nhờ thu được xuất trình để thanh toán
hay chấp nhận thanh toán. Người trả tiền trong ngoại thương là nhà nhập
khẩu.
2.2.2. Các loại nhờ thu.
Trong thương mại quốc tế, nhờ thu thực chất là quy trình thu hộ tiền

từ người mua ( nhà nhập khẩu ) trả cho người bán ( nhà xuất khẩu ). Phân
loại nhờ thu phụ thuộc vào tính chất chứng từ mà người mua yêu cầu làm
căn cứ trả tiền. Do đó, nhờ thu gồm hai loại là : nhờ thu phiếu trơn và nhờ
thu kèm chứng từ.
a) Nhờ thu phiếu trơn :
12
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức thanh toán, trong đó chứng từ
nhờ thu chỉ bao gồm chứng từ tài chính, còn các chứng từ thương mại được
gửi trực tiếp cho người nhập khẩu không thông qua ngân hàng. Trong đó :
- Chứng từ tài chính bao gồm : hối phiếu, kỳ phiếu, séc, hoặc các
phương tiện tương tự khác được sử dụng trong việc chi trả, thanh toán tiền.
- Chứng từ thương mại bao gồm hóa đơn, chứng từ vận tải, các
chứng từ có tiêu đề hoặc các chứng từ tương tự khác, hoặc bất kỳ chứng từ
nào khác không phải là chứng từ tài chính.
b)Nhờ thu kèm chứng từ :
Là phương thức thanh toán trong đó chứng từ gửi đi nhờ thu gồm :
(i) Hoặc chứng từ thương mại cùng chứng từ tài chính.
(ii)Hoặc chứng từ thương mại ( không có chứng từ tài chính gửi
cùng ).
NHTH chỉ trao BCT cho người trả tiền khi người này đã trả tiền,
chấp nhận thanh toán hoặc thực hiện các điều kiện khác quy định trong
Lệnh nhờ thu.
Trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ, nhà xuất khẩu và nhà
nhập khẩu phải thỏa thuận cụ thể điều kiện trao chứng từ quy định trong
Lệnh nhờ thu là như thế nào. Trong thực tế, có 4 phương thức trao chứng từ
: D/P ( thanh toán trả tiền ngay khi chứng từ được xuất trình ), trao chứng
từ khi được thanh toán sau một số ngày nào đó, D/A ( trao chứng từ khi
được chấp nhận ), D/OT ( trao chứng từ khi được chấp nhận các điều kiện
khác). Trong đó, D/P và D/A là hai hình thức nhờ thu phổ biến nhất.
2.3. Phương thức tín dụng chứng từ.

Trong các phương thức thanh toán đã kể trên, ngân hàng có thể chỉ
đơn thuần thực hiện chức năng chuyển tiền, hoặc có thể tham gia xử lý
chứng từ do người bán gửi đến và hành động với vai trò là đại lý của người
bán mà không có bất kỳ cam kết, trách nhiệm hay nghĩa vụ nào. Tuy nhiên,
đối với thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng đã đóng vai trò to lớn hơn,
phải thực hiện trả tiền theo cam kết của mình. Đây là phương thức thanh
toán cân bằng được quyền lợi cho cả người mua và người bán, mà ngân hàng
có thể được tham gia với vai trò lớn nhất.
2.3.1. Khái niệm thanh toán tín dụng chứng từ.
Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán mà trong đó một ngân
hàng mở L/C theo yêu cầu của khách hàng ( được gọi là người xin mở
L/C ) cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho một người thứ ba ( được gọi
là người hưởng lợi ) hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ ba này ký phát
13
trong phạm vi số tiền đó khi người thứ ba này xuất trình cho ngân hàng một
BCT thanh toán phù hợp với những quy định đã đề ra trong L/C.
Các bên tham gia :
- Người xin mở L/C : nhà nhập khẩu.
- Người hưởng lợi : nhà xuất khẩu
- Ngân hàng mở L/C ( hay còn gọi là ngân hàng phát hành ( NHPH )
L/C): ngân hàng của nhà nhập khẩu.
- Ngân hàng thông báo ( NHTB ) L/C : đại lý của NHPH đặt tại
nước người xuất khẩu.
- Ngân hàng xác nhận ( NHXC ) L/C : ngân hàng đứng ra đảm bảo
cho L/C sẽ được trả tiền ( trong trường hợp NHPH là ngân hàng nhỏ ).
- Ngân hàng thanh toán L/C ( hay ngân hàng chỉ định ( NHCĐ ) ) :
do NHPH chỉ định và ủy nhiệm việc thanh toán hay chiết khấu BCT theo
L/C.
14
2.3.2. Khái niệm và đặc điểm của L/C.

Theo điều 2, UCP600, thư tín dụng là bất cứ thỏa thuận nào, dù được
gọi hoặc mô tả như thế nào mà theo đó không thể hủy ngang và trở thành
một cam kết của ngân hàng phát hành thư tín dụng về việc thanh toán khi
chứng từ xuất trình phù hợp.
Thư tín dụng thương mại ( L/C ) là một văn bản pháp lý do ngân
hàng viết ra theo yêu cầu của người nhập khẩu, còn được gọi là người xin
mở L/C, để cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, hay còn gọi là người
hưởng lợi một số tiền nhất định trong một thời gian nhất định với điều kiện
người này thực hiện đúng và đầy đủ những điều khoản quy định trong bức
thư đó. Nội dung của một L/C bao gồm:
- Số hiệu, địa chỉ và ngày mở L/C.
- Loại L/C.
- Tên và địa chỉ của các bên có liên quan.
- Số tiền của L/C ( ghi cả bằng số, bằng chữ, loại tiền tệ và phải phù
hợp với các chứng từ khác có liên quan ).
- Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng.
- Những thông tin về hàng hóa : tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá
cả, quy cách, phẩm chất … và phải thống nhất với hợp đồng.
- Những nội dụng về vận tải và giao nhận hàng hóa : điều kiện, nơi
giao, quy cách giao hàng, …
- Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình.
- Sự cam kết trả tiền cho ngân hàng.
- Những điều khoản đặc biệt khác.
- Chữ ký hay mã khóa của NHPH L/C.
Thư tín dụng là một văn bản pháp lý quan trọng của phương pháp tín
dụng chứng từ, nếu thanh toán bằng L/C mà không có L/C thì người xuất
khẩu cũng không giao hàng và như vậy, phương thức này cũng không được
hình thành. Đặc điểm của thư tín dụng là được lập ra dựa trên cơ sở hợp
đồng thương mại nhưng lại độc lập tương đối với hợp đồng ( theo điều 4,
UCP600 ).

Các loại thư tín dụng thường gặp :
- Thư tín dụng có thể hủy bỏ : Là loại L/C mà ngân hàng mở L/C và
người nhập khẩu có thể sửa đổi, bổ sung hoặc có thể hủy bỏ L/C bất cứ lúc
nào mà không cần báo trước cho người hưởng lợi L/C.
- Thư tín dụng không thể hủy bỏ ( không thể hủy ngang ) : Là loại
L/C sau khi mở ra thì ngân hàng mở L/C và người nhập khẩu không được
sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ khi có thỏa
thuận khác của nhà xuất khẩu và các bên tham gia L/C.
15
- Thư tín dụng không thể hủy bỏ có xác nhận : L/C có xác nhận là
loại L/C có đảm bảo cho việc thanh toán từ một ngân hàng có uy tín
( NHXN ) trong trường hợp việc thanh toán có thể có vấn đề từ phía người
mua hoặc NHPH (theo sự suy đoán của người bán ).
( Theo điều 2, UCP600 : Xác nhận thư tín dụng là sự xác nhận của
NHXN, một ngân hàng khác NHPH để cam kết trả tiền hoặc thực hiện
chiết khấu chứng từ được xuất trình hợp lệ.)
- Thư tín dụng không thể hủy bỏ, miễn truy đòi : Là loại L/C mà sau
khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không có quyền
đòi lại tiền từ người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào.
- Thư tín dụng tuần hoàn : Là loại L/C mà người hưởng lợi sau khi sử
dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó tự động có giá trị như cú và cứ
như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện
hoàn tất.
- Thư tín dụng chuyển nhượng : Là loại L/C không thể hủy bỏ, trong
đó quy định quyền của ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số
tiền của L/C cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu
tiên. L/C chuyển nhượng chỉ được phép chuyển nhượng một lần, chi phí
chuyển nhượng do người hưởng lợi đầu tiên trả.
- Thư tín dụng giáp lưng : Là loại L/C được mở dựa vào một L/C
khác, nghĩa là sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình,

người kinh doanh dùng L/C này làm căn cứ để mở L/C khác cho người
hưởng lợi khác với nội dung gần giống như L/C ban đầu. L/C mở sau được
gọi là L/C giáp lưng.
- Thư tín dụng đối ứng : Là loại L/C được quy định là chỉ có giá trị
hiệu lực khi L/C khác đối ứng với nó đã được mở ra. Có nghĩa là khi người
xuất khẩu nhận được L/C do người nhập khẩu mở thì phải mở ra một L/C
tương ứng thì nó mới có giá trị.
3. Các rủi ro trong thanh toán quốc tế
Là một trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của NHTM,
TTQT ra đời và phát triển không ngừng như là một tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, TTQT không chỉ đơn thuần mang lại
những lợi ích kinh tế mà còn mang lại không ít rủi ro, tổn thất trực tiếp cho
đất nước, cho ngân hàng, cho doanh các doanh nghiệp xuất khẩu.
Rủi ro trong hoạt động TTQT của NHTM là vấn đề xảy ra ngoài ý
muốn trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT và đem lại ảnh hưởng xấu
cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Trong quá trình tiến hành hoạt động
TTQT, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một trong các bên tham gia bị vi
16
phạm. Rủi ro TTQT không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ
không được thanh toán, mà còn được hiểu rộng ra là bất kỳ một sự chậm
trễ nào trong các khâu của quá trình TTQT. Rủi ro có thể xảy ra với tất cả
các bên tham gia: Với người bán, rủi ro có thể xảy ra khi bán hàng không
thu được tiền hoặc chậm thu được tiền, rủi ro về thị trường tiêu thụ, rủi ro
không nhận hàng từ người mua, rủi ro không thanh toán…; đối với người
mua, rủi ro xảy ra khi người bán giao hàng không đúng với các điều kiện
của hợp đồng (không đúng số lượng, quy cách, chủng loại…), rủi ro không
giao hàng, rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hoá…; với các ngân hàng
có liên quan, rủi ro xảy ra khi người mua hoặc người bán thiếu trung thực,
không thực hiện đúng cam kết đã ghi trong hợp đồng, hoặc có sự biến động
của tỷ giá.

3.1. Các loại rủi ro thường gặp trong quá trình tiến hành hoạt
động TTQT của NHTM
Đối với phương thức chuyển tiền : Người bán có thể gặp rủi ro khi
không được người mua thanh toán trong trường hợp trả tiền sau; hoặc
người mua có thể gặp rủi ro do không được người bán giao hàng hoặc giao
hàng kém phẩm chất trong trường hợp trả tiền trước.
Đối với phương thức nhờ thu : Phương thức này có nhược điểm là
không đảm bảo được quyền lợi của người bán, vì việc thanh toán hoàn toàn
phụ thuộc vào ý muốn của người mua; tốc độ thanh toán chậm và ngân
hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian đơn thuần mà thôi.
Đối với phương thức tín dụng chứng từ: đây là phương thức hiện
đang được sử dụng rất phổ biến, vì nội dung của nó được thực hiện theo
UCP600. Tuy nhiên, khi sử dụng phương thức này cũng có thể xảy ra rủi ro
cho các bên tham gia như:
- Rủi ro đối với nhà nhập khẩu: Việc thanh toán của ngân hàng cho
nhà xuất khẩu chỉ căn cứ vào BCT xuất trình mà không căn cứ vào việc
kiểm tra thực tế hàng hoá. Ngân hàng chỉ kiểm tra tính hợp lệ bề ngoài của
chứng từ, do đó nếu nhà xuất khẩu chủ tâm gian lận có thể xuất trình chứng
từ giả mạo cho ngân hàng chỉ định để thanh toán. Như vậy, sẽ không có sự
bảo đảm nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng hoá sẽ đúng như hợp đồng về số
lượng, chủng loại và không bị hư hỏng gì. Tuy nhiên, trong trường hợp này
nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán cho NHPH.
- Rủi ro đối với nhà xuất khẩu: Khi nhà xuất khẩu xuất trình BCT
không phù hợp với L/C thì mọi khoản thanh toán (chấp nhận) đều sẽ có thể
bị từ chối và nhà xuất khẩu sẽ phải tự giải quyết bằng cách dỡ hàng, lưu
17
kho, bán đấu giá… cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc phải chở hàng
quay về nước. Nhà xuất khẩu phải trả các khoản chi phí như lưu tàu quá
hạn, phí lưu kho, mua bảo hiểm hàng hoá… trong khi đó không biết nhà
nhập khẩu có đồng ý nhận hàng hay từ chối nhận hàng vì lý do BCT có sai

sót. Nếu NHPH hoặc NHXN mất khả năng thanh toán thì mặc dù BCTXT
có hoàn hảo cũng không được thanh toán. Cũng tương tự như vậy, nếu
ngân hàng chấp nhận hối phiếu kỳ hạn bị phá sản trước khi hối phiếu đến
hạn thì hối phiếu cũng không được trả tiền. Trừ khi L/C được xác nhận bởi
một ngân hàng có uy tín hàng đầu, còn lại nhà xuất khẩu sẽ phải chịu rủi ro
về hệ số tín nhiệm của NHPH cũng như rủi ro chính trị hay rủi ro do cơ chế
chính sách của nhà nước thay đổi.
- Rủi ro đối với NHPH : NHPH đại diện cho người nhập khẩu, ngân
hàng ngày cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu và thường được hai bên
nhập khẩu và xuất khẩu thoả thuận lựa chọn, được quy định trong hợp
đồng,( nếu chưa có sự quy định trước, người nhập khẩu có quyền lựa
chọn). Rủi ro đối với NHPH là ở chỗ NHPH phải thực hiện thanh toán cho
người thụ hưởng theo quy định của L/C trong trường hợp nhà nhập khẩu
chủ tâm không thanh toán hay không có khả năng thanh toán. Vì thế, trước
khi chấp nhận phát hành L/C, ngân hàng cần thẩm định một cách chặt chẽ
giống như việc cấp một khoản tín dụng cho khách hàng.
- Rủi ro đối với NHTB : NHTB phải chịu trách nhiệm về tính chân
thật, hợp lệ của thư tín dụng (bao gồm cả việc xác minh chữ ký, khoá mã,
mẫu điện…) trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. Rủi ro đối với
NHTB xảy ra khi gặp phải một L/C giả (hoặc sửa đổi giả) mà không có ghi
chú gì. Theo thông lệ quốc tế thì NHTB phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
với các bên liên quan.
- Rủi ro đối với NHCĐ : NHCĐ không có một trách nhiệm nào phải
thanh toán cho nhà xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ NHPH. Tuy
nhiên trong thực tế, các NHCĐ thường ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu
với điều kiện truy đòi để trợ giúp cho nhà xuất khẩu. Do đó, ngân hàng này
thường phải tự chịu rủi ro tín dụng đối với NHPH hoặc nhà xuất khẩu.
- Rủi ro đối với NHXN : Đối với NH xác nhận, khi tham gia xác
nhận là họ đã tự ràng buộc trách nhiệm của mình vào nghĩa vụ thanh toán
L/C khi có tranh chấp giữa hai bên. Rủi ro đối với NHXN xảy ra khi họ

không nắm vững được năng lực tài chính của ngân hàng mở L/C mà xác
nhận theo yêu cầu của họ để rồi khi xảy ra hậu quả thì lại phải chịu trách
18
nhiệm thanh toán thay cho ngân hàng mở L/C do ngân hàng mở L/C thiếu
thiện chí hay mất khả năng thanh toán, thậm chí bị phá sản.
- Rủi ro đối với NHCK: NHCK là ngân hàng được chỉ định cụ thể
hoặc bất cứ ngân hàng nào nếu L/C cho chiết khấu tự do. Cũng như NHPH,
NHCK có thể gặp phải rủi ro nếu như không thực hiện chính xác nghiệp vụ
cũng như không tuân thủ theo các điều kiện của UCP600. Rủi ro xảy ra đối
với NHCK phần nhiều phụ thuộc vào thiện chí của ngân hàng mở L/C và
nhà nhập khẩu. Các rủi ro mà NHCK có thể gặp phải là: rủi ro do những
nguyên nhân bất khả kháng; rủi ro do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán;
rủi ro trong quá trình vận chuyển; rủi ro do nhà nhập khẩu từ chối thanh
toán BCT; rủi ro do ngân hàng mở bị phá sản; rủi ro do NHCK không hành
động đúng theo quy định của UCP600.
- Rủi ro mặt đạo đức kinh doanh: Là những rủi ro khi một bên tham
gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, làm ảnh hưởng tới
quyền lợi của các bên khác.
- Rủi ro do cơ chế chính sách thay đổi hay còn gọi là rủi ro chính trị:
Đây là những rủi ro có quan hệ với nhiều đối tượng ở nhiều quốc gia khác
nhau. Mỗi một sự thay đổi về kinh tế, chính trị đều có thế ảnh hưởng đến
khả năng thanh toán và sự đáp ứng các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng của các bên. Suy thoái kinh tế và biến động chính trị sẽ có ảnh hưởng
tiêu cực đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
giao lưu thương mại quốc tế.
- Rủi ro do thiên tai, hoả hoạn…
3.2. Giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro
Để đạt được mục tiêu là hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt
động TTQT của NHTM, cần có các biện pháp, chính sách mang tính đồng
bộ và dài hạn, cụ thể là:

Đối với NHTM :
Hiện đại hoá công nghệ hoạt động TTQT của ngân hàng để theo mặt
bằng trình độ quốc tế. Công nghệ ngân hàng là một trong những yếu tố quyết
định sự thành công của ngân hàng trong quá trình hoạt động. Do vậy, NHCT
Đống Đa cần tiếp tục đầu tư, củng cố nền tảng công nghệ, tăng cường khai
thác các tiện ích, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng phục vụ khách hàng;
hiện đại hoá cơ sở kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tăng khối lượng TTQT, hội
nhập với khu vực và thế giới.
Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên về chuyên môn, nghiệp
vụ, kiến thức pháp luật, đạo đức nghề nghiệp và ý thức phòng ngừa rủi ro
19
trong TTQT. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực cho
thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công đối
với sự phát triển của đất nước nói chung cũng như của từng NHTM nói
riêng. Do đó, để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động TTQT nói riêng, vấn đề
đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác chuyên môn
có trình độ, năng lực, phẩm chất là điều hết sức quan trọng và cần thiết.
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro đối với đội ngũ cán bộ quản trị,
điều hành các cấp cũng như tăng cường các công tác kiểm tra giám sát rủi
ro trong hoạt động TTQT.
Để tăng cường công tác thông tin phòng ngừa rủi ro, NHCT Đống
Đa cần cập nhật đầy đủ thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin phòng ngừa
rủi ro nhằm giảm thiểu rủi ro cho quá trình hoạt động TTQT của ngân hàng
mình. Thêm vào đó, ngân hàng cần lựa chọn để áp dụng những phương
pháp và công cụ phòng ngừa, hạn chế rủi ro thích hợp theo thông lệ và
chuẩn mực quốc tế.
Tăng cường công tác đối ngoại với các ngân hàng nước ngoài. Cụ
thể hơn, NHCT Đống Đa cần phải thiết lập mới và củng cố mạng lưới các
ngân hàng đại lý và các văn phòng đại diện ở nước ngoài, thông qua đó
cung cấp thông tin, hỗ trợ cho doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng và thực

hiện các hoạt động TTQT một cách “ an toàn, hiệu quả và nhanh chóng ”.
Đối với khách hàng:
Rủi ro trong hoạt động TTQT phần lớn phát sinh từ khách hàng -
những người trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt động TTQT. Do vậy, để
giảm bớt rủi ro trong quá trình hoạt động TTQT, các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu cần phải trang bị tốt kiến thức chuyên môn và trình độ ngoại
ngữ cho cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ
trực tiếp làm công tác xuất nhập khẩu. Ngoài ra, khách hàng cũng cần am
hiểu về thông lệ quốc tế trong buôn bán ngoại thương, am hiểu phong tục,
tập quán và pháp luật của nước có quan hệ ngoại thương.
Đối với Nhà nước:
- Nhà nước cần tạo sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô, tiếp tục
hoàn thiện các chính sách, pháp luật nhằm tạo dựng môi trường kinh tế
thông thoáng, ổn định và thuận lợi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát
triển phù hợp với yêu cầu của các tổ chức kinh tế, các quy ước, định chế
thương mại quốc tế mà chúng ta tham gia.
- Củng cố, phát triển và hoàn thiện môi trường pháp luật cho hoạt
động TTQT. Sớm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật trong nghiệp vụ
20
TTQT của NHTM đáp ứng các yêu cầu mới của nền kinh tế. Các quy định
này cần được tiến hành từng bước phù hợp với tiến trình vận động của nền
kinh tế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo tính độc lập,
đặc thù của nước ta.
- Nâng cao chất lượng điều hành vĩ mô về tiền tệ, tín dụng. Duy trì
chính sách tỷ giá thị trường có sự quản lý của nhà nước và thực hiện chính
sách quản lý ngoại hối có hiệu quả.
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động TTQT.
Nhà nước cần tiếp tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, củng cố
và phát triển hệ thống tài chính, thị trường chứng khoán và hệ thống NH.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động TTQT, nhằm hạn

chế đến mức thấp nhất các rủi ro trong quá trình hoạt động TTQT của
NHTM. Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ
thống cảnh báo sớm.
Đối với NHNN:
Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát và đánh giá an toàn đối với
hệ thống NHTM. Phối hợp với các Bộ, ngành hoàn thiện các quy trình, quy
định cho hoạt động TTQT. Xây dựng các phương pháp kiểm tra, giám sát
hoạt động TTQT của NHTM theo luật pháp nước ta và các chuẩn mực
quốctế.
Hoàn thiện hoạt động thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
TTQT cho toàn bộ hệ thống NHTM. Xây dựng một hệ thống công nghệ
đảm bảo thu thập được những thông tin quản trị cần thiết cho NH kịp thời
để làm cơ sở cho những quyết định kinh doanh NH. (Theo Tạp chí hoạt
động khoa học)
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh toán quốc tế của các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động TTQT của NHTM, có thể
phân thành hai nhóm nhân tố cơ bản là nhóm các nhân tố bên ngoài ngân
hàng và nhóm các nhân tố bên trong ngân hàng.
4.1. Nhóm các nhân tố bên ngoài ngân hàng
Thứ nhất : Các chính sách vĩ mô của Nhà nước.
Sự phát triển của nền kinh tế luôn luôn phụ thuộc vào đường lối phát
triển kinh tế của một nước. Nếu đường lối phát triển kinh tế tốt sẽ tạo cho
nền kinh tế được phát triển đúng hướng với tốc độ tăng trưởng cao, hoạt
động sản xuất kinh doanh ngày càng an toàn và hiệu quả hơn. Khi ngân
hàng quan tâm đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, phát triển dịch vụ mới, mở
21
rộng tầm hoạt động trên trường quốc tế sẽ tạo khả năng phục vụ hoạt động
TTQT ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn. Khả năng này được phản ánh qua
các chính sách như sau :

- Chính sách tỷ giá : Trong đó, TGHĐ được dùng để tính toán và
thanh toán cho hàng hoá và dịch vụ xuất nhập khẩu. NHNN với vai trò
quản lý vĩ mô trong điều hành chính sách tiền tệ có thể sử dụng công cụ
TGHĐ để khuyến khích xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu, tất cả các hoạt
động này sẽ được thanh toán qua các NHTM mà đây là một trong những
lĩnh vực hoạt động TTQT của ngân hàng.
- Chính sách quản lý ngoại hối : Nhà nước thực hiện QLNH thông
qua việc đề ra các chính sách nhằm kiểm soát luồng vận động của ngoại hối
vào ra và các quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Căn
cứ vào tình hình cụ thể và những biến động trên thị trường mà Nhà nước áp
dụng các chính sách QLNH tự do hay thắt chặt nhằm hướng sự vận động
của hoạt động ngoại hối đi vào ổn định theo chủ trương của Nhà nước.
Hoạt động TTQT liên quan đến sự vận động luồng tiền tệ ra vào quốc gia,
do đó chịu sự QLNH của quốc gia.
- Chính sách thuế : Các chính sách thuế của Nhà nước có ảnh hưởng
rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc biệt là hoạt động
xuất nhập khẩu. Thông qua việc áp dụng mức thuế cao hay thấp đối với mặt
hàng xuất nhập khẩu nào đó sẽ hạn chế hay khuyến khích sản xuất hay nhập
khẩu mặt hàng đó.
- Chính sách kinh tế đối ngoại: Việc đưa ra các định hướng mang
tính chiến lược như bảo hộ mậu dịch hay tự do hoá mậu dịch có ảnh hưởng
lớn đến hành vi của các doanh nghiệp, từ đó dẫn đến sự sôi động hay trầm
lắng của hoạt động TTQT. Sự lựa chọn chính sách đối ngoại của quốc gia
nếu thiên về xu hướng bảo hộ mậu dịch sẽ gây ra khó khăn cản trở hoạt
động ngoại thương, ngược lại nếu thiên về xu hướng tự do hoá mậu dịch sẽ
tạo được điều kiện cho ngoại thương phát triển, qua đó thúc đẩy hoạt động
TTQT phát triển.
Thứ hai : Sự thay đổi chế độ kinh tế, chính trị của nước bạn
hàng
Hoạt động TTQT chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tác động của môi

trường kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Mỗi sự biến động về chế
độ chính trị của nước đối tác sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng
đáp ứng các cam kết đã thoả thuận giữa các bên. Ví dụ như sự suy thoái
kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tự do hoá thương mại,
22
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến
quá trình thanh toán. Hơn nữa những thay đổi về cơ chế, chính sách của
một quốc gia như thay đổi những quy định về dự trữ ngoại hối, quy định về
thuế, phí xuất nhập khẩu hoặc đơn giản là môi trường pháp lý, nền kinh tế
của một quốc gia chưa ổn định và thường xuyên thay đổi khiến cho các bên
đối tác không dự đoán trước được tình hình làm ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán, vì vậy gây thiệt hại cho các bên tham gia vào quá trình mà
trong đó có NHTM.
Thứ ba : Môi trường pháp lý
Bất cứ hoạt động kinh doanh nào vượt ra ngoài biên giới một quốc
gia sẽ phải tuân thủ ít nhất hai loại luật pháp. Luật pháp trong nước và luật
pháp của nơi chủ nhà nơi tiến hành hoạt động kinh doanh, thậm chí là luật
pháp quốc tế. Hoạt động TTQT tại NHTM không những chỉ chịu sự chi
phối bởi các cơ chế, chính sách, pháp luật trong nước và quốc tế mà còn
phải tuân thủ theo những quy tắc, chuẩn mực quốc tế, thông lệ quốc tế của
từng loại hình nghiệp vụ phát sinh. Ngoài ra, quá trình giao lưu thương mại
giữa các đối tác ở những vị trí địa lý khác nhau, ngôn ngữ khác nhau,
phong tục tập quán khác nhau thường nảy sinh rất nhiều tranh chấp, vướng
mắc. Vì vậy, trong quá trình hoạt động của mình, Phòng TMQT đã nghiên
cứu và ban hành một số quy tắc, chuẩn mực quốc tế áp dụng chung cho các
nước khi thực hiện các giao lưu TMQT và thực hiện các giao dịch TTQT
như : Incoterms, UCP600, ULB, Các quy tắc này được biên soạn phù
hợp với từng phương thức TTQT cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tiễn phát
sinh chúng chưa phải là quy tắc hoàn hảo và an toàn tuyệt đối trong giao
dịch giữa các bên mà nó cũng còn một số nhược điểm nhất định.

Thứ tư : Môi trường tài chính quốc tế
Sự tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính luôn dẫn đến tình
trạng vỡ nợ hay phá sản một số doanh nghiệp hoặc ngân hàng, điều đó tác
động đến hoạt động TTQT của NHTM. Các khoản thanh toán tiền hàng
trong thanh toán xuất nhập khẩu không thu hồi được, không chỉ làm ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động TTQT mà còn làm hạn chế khả năng mở
rộng hoạt động TTQT tại NHTM.
Thứ năm : Năng lực kinh doanh của khách hàng
Khách hàng là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mở rộng
hoạt động TTQT của các NHTM. Nếu ngân hàng càng thu hút được nhiều
khách hàng thì càng có điều kiện phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với lĩnh vực TTQT, khách hàng của ngân hàng là những doanh nghiệp
23
kinh doanh xuất nhập khẩu, những khách hàng có quan hệ đối tác với
thương nhân nước ngoài càng đòi hỏi phải là những người năng động, có
năng lực và trình độ về TTQT và pháp luật nước ngoài, cũng như khả năng
giao tiếp với người nước ngoài. Một khi ngân hàng thu hút được các nhà
kinh doanh xuất nhập khẩu có năng lực kinh doanh, hoạt động có hiệu quả,
sẽ hạn chế được rất nhiều rủi ro trong TTQT cho cả ngân hàng và khách
hàng

24
4.2. Nhóm các nhân tố thuộc bản thân ngân hàng:
Bên cạnh các nhân tố khách quan như chính sách, luật pháp, …, thì
nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định vào khả năng mở rộng hoạt động
TTQT của NHTM. Các nhân tố chính ảnh hưởng bao gồm :
Thứ nhất : Mô hình tổ chức quản lý điều hành hoạt động TTQT
Một hệ thống quản lý điều hành thống nhất từ trung ương đến chi
nhánh theo một quy trình cụ thể, gọn nhẹ, giao quyền chủ động cho chi
nhánh sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian thanh toán nhanh chóng, an toàn

sẽ là tác nhân thu hút khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn vì quyền lợi
của họ được đảm bảo.
Thứ hai : Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng
Luật pháp mỗi nước khác nhau nên trong thương mại đã có những
quy định thống nhất, những thông lệ quốc tế mà các bên tham gia, kể cả
ngân hàng đều phải tuân thủ. Người cán bộ ngân hàng làm công tác TTQT
phải luôn luôn nắm rõ được các phương tiện và phương thức TTQT. Muốn
thực hiện được công việc một cách thành thạo, tránh được hiểu lầm hay
gây thiệt hại đáng tiếc cho ngân hàng, đòi hỏi cán bộ TTQT phải có chuyên
môn cao. Hơn nữa, chứng từ giao dịch trong TTQT đều sử dụng ngoại ngữ
nên đòi hỏi cán bộ nghiệp vụ một trình độ ngoại ngữ nhất định.
Thứ ba : Công nghệ ngân hàng
Hệ thống ngân hàng của mỗi nước dù đã hay đang phát triển đều rất
quan tâm đến hoạt động TTQT. Tiêu chí hoạt động TTQT là phải nhanh
chóng, kịp thời và chính xác. Vì vậy, các công nghệ tiên tiến của ngành
ngân hàng đều được ứng dụng nhằm thực hiện tốt hơn tiêu chí trên. Ngân
hàng ở các nước đều có mức đầu tư đáng kể vào công nghệ thông tin, viễn
thông và xử lý dữ liệu.
Thứ tư : Uy tín của NHTM
Ngân hàng có uy tín lớn là ngân hàng có các hoạt động đa dạng và
phong phú cả về quy mô lẫn chất lượng, điều này sẽ thu hút một số lượng
lớn khách hàng đến với ngân hàng. Không những thế, một ngân hàng có uy
tín sẽ dễ dàng mở rộng được thị trường với phạm vi toàn cầu. Đăc biệt khi
ngân hàng có uy tín trên trường quốc tế, sẽ rất thuận lợi khi thực hiện các
nghiệp vụ mang tính bảo lãnh thanh toán cho khách hàng trong nước và
nghiệp vụ TTQT, đồng thời các ngân hàng và đối tác nước ngoài sẽ tin
tưởng lựa chọn ngân hàng để giao dịch.
Thứ năm : Các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động
TTQT
25

×