Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

diễn biến chính khủng hoảng tài chính Thế giới 2008, phân tích nguyên nhân và đánh giá tác động tới TTCK Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.96 KB, 16 trang )

Đề tài 1: Hệ thống lại những diễn biến chính khủng hoảng tài
chính Thế giới 2008, phân tích nguyên nhân và đánh giá tác động
tới TTCK Việt Nam.
Sau cuộc đại khủng hoảng 1929-1933,gần 80 năm sau,tháng9-
2008 thị trường tài chính thế giới một lần nữa lại chao dảo,là bắt
nguồn từ MỸ và dần lan rộng ra trên toàn thế giới.Đã hơn 2 năm từ
khi cuộc khủng hoảng2008 xảy ra,nền kinh tế của các quốc gia đã
dần hồi phục,trong đó có Việt Nam.Tuy nhiên đến nay vẫn còn
nhiều ý kiến bình luận về nguyên nhân cũng như tác động của
khủng hoảng.Ta sẽ lần lượt tìm hiểu diễn biến, phân tích nguyên
nhân của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 để thấy rõ
hơn tác động của nó tới thị trường chứng khoán Việt Nam trong
những năm qua.
I/DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ
GIỚI NĂM 2008
Khi xuất hiện bong bóng nhà đất tại Mỹ ,giới phân tích tài chính
đã rất quan ngại về tính chất nghiêm trọng của nó.Và đúng như dự
đoán, từ Mỹ cuộc khủng hoảng đã bùng phát thành khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Trước hết, chúng ta điểm lại diễn biến xảy ra ở Mỹ-xuất phát
điểm của khủng hoảng
Năm 2008 là năm đánh dấu sự đi xuống thảm hại của các nền kinh
tế.Bong bóng nhà đất xuất hiện tại Mỹ với trên 1 triệu chủ nhà đất đối
mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng vướng phải
các khoản nợ dưới chuẩn (subprime loan) phải hứng chịu những
khoản thua lỗ
Biểu đồ trên chỉ rõ sự đi xuống liên tiếp của thị trường nhà đất với
mức sụt giảm kỉ lục ở cuối năm 2008.
-Trong tháng Ba, nạn nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế là ngân
hàng Bear Stearns. Thua lỗ, ngân hàng 85 tuổi này buộc phải bán
mình cho JP Morgan với giá 10 USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần mức


giá niêm yết cách đó 10 năm.
-Ngay sau đó, cơn bão tài chính gần như đã cuốn phăng hai đại gia
cho vay lớn nhất Mỹ Fannie Mae và Freddie Mac. Kế đó, họ gánh vác
5 nghìn tỷ USD, chiếm gần nửa trong tổng số các khoản thế chấp tại
Mỹ. Đến tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang (FED) đã chi 200 tỷ USD
làm phao cứu sinh cho hai đơn vị này.
-Tuy nhiên, tin xấu không chỉ dừng lại ở đó. Ngày 15/9, công ty tài
chính khổng lồ Lehman Brothers gục ngã. Trước khi sụp đổ, tiền nợ
ngân hàng và tỷ lệ vốn cổ phần là 30-1, cao gần gấp ba lần quy định
luật pháp cho phép.
- Một số ngân hàng đầu tư khác cũng đội nón ra đi, như Merrill
Lynch, đơn vị sau đó được Bank of America mua lại. Tiếp đó, nhiều
ngân hàng lớn ở châu Âu như UBS và Ngân hàng Hoàng gia Scotland
cũng lâm vào tình cảnh nguy ngập.Ngày 17/9 Lloyds mua lại HBOS
với giá 12,2 tỷ.
-Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ.
Khi Iceland lâm vào phá sản, chính phủ các nước trên thế giới cũng
tới tấp thông báo kế hoạch cứu nguy nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng từ Mỹ đã nhanh chóng ảnh hưởng ra toàn
cầu
Nó lan rộng sang các lĩnh vực khác và tác động với cường độ rất
mạnh đến các nước.Vào cuối năm 2008, thế giới cảm thấy ớn lạnh
trước khủng hoảng.
- Thị trường chứng khoán toàn cầu mất gần một nửa giá trị so với
năm liền trước với quy mô thiệt hại 28,7 nghìn tỷ USD.
Toàn cảnh chứng khoán thế giới 2008
Thị trường Chỉ số Giá trị đóng
cửa ngày 30/12
Tăng / giảm so
với năm

2007(điểm)
Tăng / giảm so
với năm
2007(%)
Mỹ
Dow Jones 8.668,39 4.375,57 34,6
Nasdaq 1.550,70 1.058,93 41,5
S&P 500 890,64 556,52 39,3
Anh FTSE 100 4.392,68 2.024,02 31,5
Đức DAX 4.810,20 3.138,91 39,5
Pháp CAC 40 3.217,13 2.333,23 42,0
Đài Loan Taiwan Weighted 4.589,04 3.734,01 44,8
Nhật Nikkei 225 8.859,56 5.831,85 42,1
Hồng Kông Hang Seng 14.235,50 13.325,02 48,8
Hàn Quốc KOSPI Composite 1.124,47 728,98 40,7
Singapore Straits Times 1.770,65 1.690,57 49,0
Trung
Quốc
Shanghai Composite 1.832,91 3.428,65 65,2
Ấn Độ BSE 30 9.716,16 10.749,14 52,2
Australia ASX 3.591,40 2.842,70 44,1
Việt Nam VN-Index 316,32 604,75 65,9
Nguồn: CNBC, Thomson Reuters, Bloomberg
- Thất nghiệp đua nhau lập những kỷ lục mới. Nhu cầu co lại buộc
các doanh nghiệp phải đóng cửa làm ăn.
- Từ đầu năm đến hết tháng 5, khắp thế giới dường như chỉ tồn tại
hai từ “lạm phát”. Lạm phát tại những quốc gia thuộc khu vực sử
dụng đồng Euro đạt mức cao kỷ lục trong lịch sử. Tại châu Á, lạm
phát đã lên tới 7,5% - gần bằng mức cao nhất trong 9 năm qua và cao
gấp hơn 2 lần so với mức 3,6% của một năm trước, mà nguyên nhân

chính là giá năng lượng và giá lương thực tăng cao.

Khủng hoảng tài chính khiến đồng USD ngày càng mất giá

Càng về cuối năm, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ bắt nguồn từ việc
“vỡ nợ” tín dụng bất động sản càng chứng tỏ sức tàn phá ghê gớm của
với hệ thống tài chính thế giới. Nước Mỹ chiếm tới 25% GDP của
toàn cầu và một tỷ lệ lớn hơn trong các giao dịch tài chính quốc tế,
nên tác động của cuộc khủng hoảng ở Mỹ không chỉ ở trong nước Mỹ
mà còn vượt cả ra ngoài biên giới Mỹ, tác động tới nhiều nền kinh tế
khác trên thế giới. Chính Mỹ rồi lần luợt đến Singapore, Nhật Bản, rồi
đến các nước dùng đồng euro cùng tuyên bố suy thoái. Một loạt các
nước phải tung ra những gói hỗ trợ kinh tế nhiều tỷ USD mà đỉnh
điểm là hồi tháng 10, Cục dự trữ Liên bang Mỹ, Ngân hàng Trung
ương Châu Âu và 4 ngân hàng trung ương các nước khác đã đồng loạt
cắt giảm lãi suất, nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng
hoảng tài chính tồi tệ nhất từ cuộc Đại suy thoái năm 1929-1933.
Các sự kiện nổi bật
Những vụ phá sản, sáp nhập hay quyết định đối phó của chính phủ
các nước trở thành cột mốc đáng nhớ trên hành trình "xuống đáy" của
cuộc khủng hoảng kinh tế làm rung chuyển cả thế giới suốt thời gian
qua.
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ
về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại
Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này
thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự
phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD
do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.

* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách
các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá
trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP
Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một
khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ
USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các
khoản thế thấp bất động sản.
* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân
hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân
hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra
hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
* 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là
3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD.
Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc
khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
* 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền
kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và
Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác
để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm
45%.
IV. So sánh cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 với cuộc khủng
hoảng kinh tế năm 29-33
- Cuộc khủng hoảng phản ánh sự bất lực của các thể chế kinh tế tân tự
do, sự bất cập của mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường, nhưng
quy mô và tính chất của nó có nhiều điểm khác hẳn so với các cuộc
khủng hoảng trước đó.
*)Thứ nhất, cùng với tiến trình gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hóa và

hội nhập quốc tế và theo đó, là sự lệ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc
giữa các nền kinh tế, tác động của cuộc khủng hoảng đã mang đặc tính
phổ biến, lây lan rộng khắp và không loại trừ bất kỳ quốc gia nào.
*)Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của các quốc gia trung tâm âm và thấp
kéo dài, trong khi các quốc gia ngoại vi, nhất là ở các nền kinh tế đang
phát triển - nơi có độ mở thị trường cao, lệ thuộc mạnh vào xuất khẩu
và FDI, đã trở thành những nước bị tác động nặng nề và sâu sắc hơn.
*)Thứ ba, ở cuộc khủng hoảng lần này, bên cạnh sự diễn ra đồng thời
của khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng thể
chế, còn là sự bùng nổ đồng thời và nghiêm trọng của các cuộc khủng
hoảng về năng lượng, nguyên liệu, lương thực và môi trường. Nói
cách khác, cuộc khủng hoảng đã không dừng lại ở các khía cạnh kinh
tế mà đã và đang lan rộng ra ở các khía cạnh về xã hội và môi trường
- 3 trụ cột của mục tiêu phát triển bền vững mà cả thế giới sẽ phải đối
mặt trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
*)Thứ tư, về mặt lý thuyết, trong và sau cuộc khủng hoảng lần này,
người ta bắt đầu bàn nhiều đến sự trở lại của Keynes, vì sự bất lực của
chủ nghĩa tân tự do, mà về thực chất, là đi tìm cơ sở lý luận cho việc
giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong bối cảnh
mới. Nói cách khác, cuộc khủng hoảng này là dấu mốc của cuộc
khủng hoảng về lý thuyết điều tiết kinh tế.
Như vậy, rõ ràng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này
có nhiều đặc trưng mới, khác với tất cả các cuộc khủng hoảng
trước đó, kể cả cuộc đại khủng hoảng 1929-1933.
II/NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIÓI 2008
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008, là một bức tranh màu
xám với điểm khởi đầu là khủng hoảng tài chính Mỹ.
Nguyên nhân bản chất của khủng hoảng 2008 là sự phát triển
quá nóng của thị trường mà xuất phát điểm là thị trường bất động sản
dựa trên nhu cầu ảo được quyết định bởi các nhà đầu cơ.

Năm 2001, chính phủ Mỹ thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng
và phá giá đồng nội tệ để cung cấp vốn cho các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên thị trường sử dụng không hiệu quả nguồn
vốn dẫn đến thừa vốn. Đây chính là sự bất cân đối về cung cầu vốn
trên thị trường . Các ngân hàng Mỹ đã sử dụng số vốn này đánh cược
vào thị trường cho vay dưới chuẩn vốn tiềm ẩn rủi ro cao.Chính vì
việc cho vay dưới chuẩn tràn lan đã dẫn tới sự mất kiểm soát của
ngân hàng. Những đối tượng vay dưới chuẩn khi đó ở mỹ có một tỷ lệ
không nhỏ là dân nhập cư,và những người đi vay thường là để mua
nhà.Khi đó thị trường địa ốc phát triển rất nhanh,giá cả tăng lên nhanh
chóng .Những nhà đầu cơ cả sành sỏi lẫn cừu non thi nhau nhảy vào
thị trường này và góp phần làm tăng độ nóng của nó.Năm 2005, tại
Mỹ, giá nhà đất đã tăng ở mức trung bình 12,5 %, tăng đến 20% tại
một số bang như California, Nevada, Hawaii, Maryland, Washington
DC và tăng ở mức độ khủng khiếp tới 35% tại Palm Beach, Florida.
Trong 5 năm qua từ năm 2001 đến năm 2006,tại California, đã có 500
nghìn giấy phép kinh doanh bất động sản được cấp.Bong bóng nhà đất
được thổi phồng lên nhanh chóng.Người dân có nhà để ở ,ngân hàng
có khoản lợi nhuận kếch xù ,các nhà đầu cơ kiếm lời cao, tất cả đều
tốt đẹp.
Nhưng tất cả đều được dựa trên nhu cầu ảo của thị trường do
đầu cơ. Thực chất cuộc sống của những người đi mua nhà kiểu cầm cố
tài sản này không thực sự thuận lợi.Khi mà lãi suất vay nợ dưới chuẩn
cao ,họ không có khả năng trả nợ.Ngân hàng phải siết nợ và cuối cùng
phải thu hồi để phát mại. Công ty RealtyTrac, chuyên theo dõi về các
vụ siết nợ của ngân hàng, đã thống kê được 1,5 triệu căn nhà đã bị vào
diện này trong năm 2007, gấp 2 lần so với năm 2006.
Những nhà đầu cơ sành sỏi ,khi nhận thấy những dấu hiệu đủ để đổ vỡ
của bong bóng đã vội thoát nhanh ra khỏi thị trường còn lại đám đông những
nhà đầu cơ cừu non say máu làm giàu vật lộn với cơn xoáy tụt giá của thị

trường. Giá nhà đất "rớt" khoảng 4,2% kể từ năm 2006 (từ 234.000 USD
xuống còn 211.000 USD) và tụt khoảng 5,7% kể từ tháng 8 . Tại một số
thành phố lớn, giá nhà cửa đều giảm ở mức khá cao từ 7 đến 11% như San
Diego (California), Washington DC, Detroit (Michigan), Seatle
(Washington), Dallas (Texas). Tại Maple Heights (bang Ohio), người ta
không thể đếm hết những tấm bảng hiệu "For sale" (nhà bán) treo trước cửa
các ngôi nhà trên phố.
Bên cạnh những nguyên nhân đã phân tích ở trên chúng ta còn
nhận thấy những mảng hạn chế trong cơ chế quản lý tài chính của
chính phủ Mỹ và các ngân hàng.Các giám đốc ngân hàng muốn đẩy
lợi nhuận lên cao nhằm hưởng 1 khoản thưởng kếch xù vào cuối năm
nên đã dẫn tới tình trạng cho vay tràn nan.
Bong bóng thị trường địa ốc Mỹ với sự trợ giúp bởi chính sách
cho vay dưới chuẩn “thông thoáng” của các ngân hàng và quan trọng
nhất là đóng góp không thể thiếu của các nhà đầu cơ ,tất cả trong sự
kiểm soát lỏng lẻo của nhà nước ,cuối cùng cũng đã nổ tung vào năm
2007 tạo nên một cuộc khủng hoảng kinh tế khủng khiếp như chúng ta
đã biết.
III) ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH 2008 TỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KGOÁN VIỆT NAM
Xét trên phương diện lý thuyết mà nói,ta có thể nhận định ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính Mỹ đối với thế
giới là rõ rệt nhưng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam là
không nhiều.
Tại sao ta lại nhận định như thế? Thứ nhất,tính đến thời điểm
khủng hoảng xảy ra thì hệ thống tài chính Việt Nam dường như chưa
hội nhập chung với hệ thống tài chính toàn cầu, chúng ta chỉ mới mở
cửa tài khoản vốn vào mà hầu như chưa mở cửa dòng ra, do vậy lượng
tiền Việt Nam đầu tư ra bên ngoài dường như không đáng kể và dòng
vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam cũng chưa nhiều nên hệ thống tài

chính của Việt nam sẽ không chịu nhiều tác động từ cuộc khủng
hoảng này so với các nước có mức độ hội nhập tài chính sâu rộng.
Thứ hai,Việt Nam chưa có công ty nào niêm yết trên thị trường
chứng khoán Mỹ, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư Mỹ trong doanh nghiệp
Việt Nam cũng như dòng tiền nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nhà
đầu tư Mỹ, đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam là không
nhiều.Giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào chứng
khoán Việt Nam chỉ khoảng 7-8 tỷ USD. Mối lo ngại khối này rút vốn
khỏi Việt Nam cũng là thiếu cơ sở vì nếu nhà đầu tư nước ngoài rút ra
khỏi Việt Nam thì họ cũng chưa có sự lựa chọn đầu tư nào khả thi
hơn, trong khi ở Việt Nam tất cả các yếu tố kinh tế vĩ mô đều đang có
chiều hướng tốt so với các quốc gia khác đang phải chịu ảnh hưởng
khá lớn từ cuộc hủng hoảng.
Tuy nhiên,thực tế diễn ra có đúng như nhận định trên mặt lý
thuyết?Chúng ta hãy cùng điểm lại thực trạng thị trường chứng
khoán Việt Nam trong khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
1.Chỉ số trên thị trường chứng khoán
Vn-Index sụt giảm 70% giá trị, trong khi đó chỉ số Hastc-Index
xuống dưới 100 điểm
Các chỉ số: Nếu như hai năm 2006-2007, thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển bong bóng với tốc độ nhất nhì thế giới thì sang
năm 2008 cũng đứng đầu về tốc độ suy giảm.
VN-Index mở đầu phiên giao dịch năm 2008 đạt 921,07 điểm, tính
đến ngày 29/12/2008, Vn-Index đang ở mức 308 điểm, bằng 1/3 so
với đầu năm. Các giả định được đưa ra VN-Index sẽ dao động quanh
mức 450 điểm, song hầu hết đều quá lạc quan, Vn-Index đã có lúc rơi
xuống 286,85 điểm vào ngày 10/12.
Trong khi đó, mức thấp nhất của Hastc-Index trong năm nay là 97,61
điểm vào ngày 27/11/2008. Trước đó, vào ngày 28/10, chỉ số này đã
có lúc xuống 98,87 điểm xong ngay lập tức các nhà đầu tư mua vào

khiến chỉ số này lại vượt qua vạch 100 điểm.
Thống kê giao dịch cho thấy sức cầu (mua) toàn thị trường 2 sàn
HOSE và HASTC trong giai đoạn 15/5 đến 15/6 chỉ đạt trung
bình
140 tỷ đồng/ngày, mức thấp nhất từ năm 2006 đến nay.
2. Hoạt động niêm yết
Một năm giảm giá mạnh đã “mài mòn” đáng kể giá của các cổ
phiếu. Cuối năm 2007, trên cả hai sàn vẫn có tới 60 cổ phiếu có thị giá
trên 100.000 đồng, trong đó cao nhất là S99 (353.000 đồng), BMC
(332.000 đồng)… Tuy nhiên, hiện tại, giá hầu hết các cổ phiếu nằm
dưới mức 30.000 đồng, trong đó có tới 25% số cổ phiếu đang nằm
dưới mệnh giá.
Đ ơn
vị
HoSE HaSTC
Chỉ số Điểm
315,62 105,12
Số doanh nghiệp niêm yết
170 168
Số cổ phiếu niêm yết Tỷ cp
5,74 2,17
Giá trị thị trường
Tỷ
đồng
170.300 55.000
Cùng với sự suy giảm của thị trường, hầu hết các cổ phiếu đều mất
giá đi từ 60%-80% giá trị so với một năm trước. Trong đó ba cổ phiếu
giảm mạnh nhất là TLT, VHG và DQC với mức giảm trên 90%. Cổ
phiếu DQC của CTCP Bóng đèn Điện Quang lên sàn ngày 21/2 với
giá tham chiếu 290.000 đồng/cp nhưng kết thúc năm chỉ còn 15.600

đồng/cp.
Lượng cổ phiếu niêm yết tăng lên nhưng do thị giá của các cổ phiếu
giảm đáng kể nên đã làm cho giá trị vốn hóa của thị trường giảm
mạnh.Tỉ lệ vốn hoá: Cuối năm 2007, vốn hóa thị trường chiếm 40%
GDP (30 tỷ USD). Nhiều ý kiến lạc quan cho rằng, cuối năm 2008,
vốn hóa thị trường sẽ đạt khoảng 35 – 40 tỷ USD (60% GDP). Tuy
nhiên thực tế cho thấy, hết năm 2008, giá trị vốn hóa thị trường hiện
chỉ còn 13 tỷ USD, tương đương 17% GDP.
Tính theo giá đóng cửa ngày 31/12/2008, giá trị thị trường của tất cả
các cổ phiếu đang niêm yết là hơn 225.300 tỷ đồng, trong khi đó, một
năm trước, con số này là 494.400 tỷ đồng (tương ứng giảm 54%).
3. Tình hình mua bán của nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán
Trong 3 tháng, khối nhà đầu tư nước ngoài liên tục bán ròng cổ
phiếu và trái phiếu trên cả hai sàn Hà Nội và Tp.HCM. Nếu trước
đây, việc khối ngoại luôn đi ngược thị trường (mua vào khi thị trường
giảm và bán ra khi thị trường tăng) sẽ góp phần cân bằng lại thị
trường thì nay, khối ngoại liên tục bán ra bất kể thị trường tăng hay
giảm.
Trước tình hình thế giới lâm vào khủng hoảng chung, giá các cổ
phiếu tại chính quốc trở nên rẻ hơn so với thị trường Việt Nam, các tổ
chức nước ngoài có xu hướng bảo toàn vốn và rút về nước.
Tính riêng 3 tháng cuối năm, khối ngoại bán ròng hơn1.730 tỷ đồng
cổ phiếu và hơn 27.000 tỷ đồng trái phiếu. Trong đó dồn dập nhất vào
tháng 10, khối ngoại liên tục bán ra trái phiếu với giá trị bán ròng lên
tới 1.000 tỷ đồng/phiên.
Tổng cộng hai sàn, nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ 2,69 tỷ USD
tiền cổ phiếu.
Lo sợ một đợt rút vốn ồ ạt của khối ngoại, giới đầu tư trong nước cũng
…hành động theo khối ngoại và liên tục bán ra cổ phiếu khiến VN-

Index xuống 286,87 điểm ngày 10/12.
Thậm chí trong khoảng thời gian cuối tháng 11, đột nhiên
TTCK Việt Nam diễn biến cùng pha với TTCK Mỹ. VN-Index
diễn biến tăng giảm cùng với diễn biến của các chỉ số Dow Johns,
Nasdaq.Mặc dù chỉ số chứng khoán Mỹ phản ánh ngay thông tin
trong khi VN-Index bị ảnh hưởng bởi T+4.
Qua những thông tin trên,chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy thực tế
diễn ra trên thị trường chứng khoán trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính không như nhận định tác động trên mặt lý thuyết.Tại
sao lại như vậy?

Để giải thích cho sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế trên,trước
tiên ta xem xét đến tình hình của nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ:
Từ cuối năm 2007, trong giai đoạn chuẩn bị và thông qua kế hoạch
kinh tế xã hội năm 2008, đến tháng 3-2008, chính sách kinh tế được
chi phối bởi mục tiêu tăng trưởng GDP 9%, phấn đấu hoàn thành các
mục tiêu kế hoạch năm năm sớm (chỉ trong ba năm), vượt ngưỡng
nước có thu nhập trung bình ngay trong năm 2008 Mục tiêu đó của
Việt Nam được các nước trên thế giới ủng hộ. Thể hiện ở vị thế mới
của Việt Nam trên trường quốc tế (thành viên WTO, lần đầu tiên được
bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp
quốc ) và về dòng vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp ào ạt
đổ vào trong nước.
Chính phủ đã dồn dập triển khai các biện pháp và các công trình để
đạt các mục tiêu đề ra: Hệ quả là bên cạnh sự năng động và tăng
nhanh về số lượng, các quyết định hàng tỉ đô la Mỹ ở các địa phương,
tập đoàn kinh tế, liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng, nguồn
nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất hệ trọng cho quốc kế dân sinh đã
được quyết định một cách nhanh chóng, thiếu sự thẩm định cần thiết
của các chuyên gia, hội đồng thẩm định có chuyên môn ở các bộ,

ngành và thiếu sự tham gia của các tổ chức quần chúng.
Bên cạnh đó là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng giá nhiên liệu,
giá lương thực, sắt thép trên thế giới. Có người cho rằng, có dầu
thô xuất khẩu, có lương thực xuất khẩu, thì Việt Nam sẽ có lợi trong
cuộc khủng hoảng trên thế giới này, chứ đâu bị tác động tiêu cực?
Đúng là Việt Nam xuất khẩu dầu thô, nhưng lại nhập khẩu xăng dầu
với kim ngạch lớn hơn; còn giá lương thực thế giới tăng sẽ kéo giá
lương thực ở trong nước lên theo.
Sức cộng hưởng của các yếu tố trong và ngoài nước đã làm cho tình
hình lạm phát trở nên nghiêm trọng.Điều tất yếu là cung tín dụng tiếp
tục tăng trên 50%, lạm phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt quá mức
an toàn Chỉ số lạm phát ra ngày 25 hàng tháng cho thấy CPI tháng 4
tăng 2.2% so với tháng 3, và tăng 21.42% so với cùng kỳ năm 2007,
mức cao nhất trong hơn một thập kỷ gần đây. Thâm hụt thương mại
của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm đã lên tới 11,1 tỷ USD, gấp 4 lần
so với cùng kỳ năm ngoái, do nhập khẩu tăng 71%, thị trường chứng
khoán sụt giảm kỷ lục.
Từ tháng 3-2008, Chính phủ đã đột ngột đổi chiều nhằm ưu tiên
mục tiêu kiềm chế lạm phát. Lãi suất cơ bản được nâng lên, dự trữ bắt
buộc với lãi suất rất thấp được áp đặt, tín phiếu bắt buộc được phân
bổ, biện pháp hạn chế tín dụng “hà khắc” được áp đặt lên các ngân
hàng thương mại, cắt giảm đầu tư Tất cả biện pháp này gây ra gánh
nặng lớn cho các ngân hàng thương mại cũng như doanh nghiệp nhỏ
và vừa.Các quan hệ thị trường bị thu hẹp rõ rệt bởi sự can thiệp hành
chính, đặc biệt là các quyết định về tăng, giảm thuế nhập khẩu, về hạn
ngạch, về giá xăng dầu liên tục được đưa ra (có thời kỳ đạt tốc độ
bình quân sáu quyết định lớn, nhỏ một tuần).
8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát được đề ra và ưu
tiên thực hiện: trong đó biện pháp quan trọng hàng đầu là thực hiện
chính sách thắt chặt tiền tệ.Những biện pháp thắt chặt quá mạnh đã

làm ảnh hưởng tới lượng vốn đổ vào thị trường chứng khoán cộng
thê với xu hướng rút vốn của một số tập đoàn lớn do tình hình
chứng khoán sụt giảm hồi đầu năm khiên thị trường gặp khó khăn.
các giải pháp như siết chặt biên độ giao động +- 1% càng làm giảm
tính thanh khoản của thị trường. Và khi biên độ được giãn ra từ từ thì
thị trường bật lên khá mạnh. Tới cuối tháng 8, nó từ 366 điểm lên gần
570 điểm. Đó là thời kì tươi sáng nhất của thị trường trong năm.Thị
trường vừa có sự phuc hồi nhưng vẫn còn yếu sau cơn khủng hoảng
lạm phát thì lại phải hứng chịu sự ảnh hưởng của cơn bão khủng
hoảng tài chính thế giới. Tuy rằng được dự đoán là không chịu nhiều
tác động trực tiếp nhưng khi thị trường trong nước vừa mới hồi phục
thì đây thực sư là một cú đánh mạnh khiến chỉ số chứng khoán trong
nước sụt giảm nghiêm trọng ngoài sự dự đoán của tất cả các
chuyên gia.Có thể nói nếu không có những lí do chủ quan của thị
trường chứng khoán trong nước thì sự ảnh hưởng sẽ không mạnh như
thế. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã gục ngã khi vừa mới đứng
dậy.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý chậm trễ ban hành các cơ chế
giao dịch mới mà NĐT kỳ vọng, vấn đề kỹ thuật nội bộ của hệ thống
ngân hàng như việc tăng vốn điều lệ lên tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào
cuối năm nay, các quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN Các
nhân tố trên khiến dòng tiền trong nước chảy vào chứng khoán chững
lại.
Thứ hai, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đến TTCK Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý
trên TTCK thì ở quốc gia nào cũng có, đặc biệt là các quốc gia có thị
trường này mới hình thành.
Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK Việt Nam bao phen lâm vào tình
trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì mua không
được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh

mua. Sở dĩ có hiện tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt
Nam chưa chuẩn bị kiến thức và bản lĩnh cũng như kinh nghiệm
cần thiết để tham gia mua bán chứng khoán, mặt khác môi trường
thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến với tất cả các nhà
đầu tư cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây
khó khăn trong việc hoạch định chính sách và điều tiết thị trường của
cơ quan quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho các hành vi làm giá,
giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm lý mua
bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm
phát. Mỗi khi các thông tin về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi
suất cơ bản hoặc chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được
phản ứng tức thời từ TTCK.
Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là
nhân tố dẫn dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ
cũng sẽ làm cho giá chứng khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ
cuối tháng 9/2008 đến nay, rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được
phát đi như lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu
dùng giảm đáng kể đã không nhận được những phản ứng tích cực
nào từ thị trường và chỉ số chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội đều giảm. Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã
không còn quan tâm đến các thông tin tốt từ nền kinh tế trong nước
nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình giao dịch ở các
TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu tư tương
tự.
Vậy là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm
lý đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu tư theo nhà đầu tư
nước ngoài ở trong nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài
nước”. Tâm lý này trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực
của Chính phủ nhằm vực dậy TTCK. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng,
khi thị trường tài chính có biến động mạnh ở một hoặc nhiều nước

phát triển, các TTCK toàn cầu có độ liên thông lớn hơn rất nhiều so
với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Thực sự, còn có nhiều bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô Việt Nam
(dẫn đến tâm lý e ngại đầu tư vào Việt Nam (nếu có chứ không phải là
vì nền kinh tế Mỹ đang đi xuống). Và thị trường chứng khoán của
chúng ta vẫn chưa thực sự là một nền chứng khoán minh bạch khi
không có sự kiểm soát thỏa đáng dẫn đến việc các nhà đầu tư không
thực sự tin tưởng vào tính minh bạch thông tin của thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Từ những phân tích trên,ta đi đến kết luận: Thị trường chứng khoán
Mỹ không có tác động trực tiếp đến thị trường chứng khoán Việt Nam
vì thực ra hai thị trường không thông nhau, nhưng có những tác động
gián tiếp. Tác động gián tiếp ở đây là tác động về tâm lý của giới đầu
tư, tiếp đến là tác động từ các nhà đầu tư tài chính nước ngoài có đầu
tư tại Việt Nam.Bên cạnh đó là các yếu tố chủ quan ở tình hình nội tại
của nền kinh tế Việt Nam,các chính sách điều tiết của chính phủ,cũng
như tính pháp lý trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

×