Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Hoàn thiện công tác lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Kiểm toán ASC thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.7 KB, 120 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
BHXH Bảo hiểm xã hội
HĐTV Hội đồng thành viên
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TB Trung bình
BCTC Báo cáo tài chính
KTV Kiểm toán viên
đ Đồng
TS Tiến sĩ
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
BCĐKT Bảng cân đối kế toán
XDCB Xây dựng cơ bản
KT Kiểm toán
LCTT Lưu chuyển tiền tệ
VND Việt Nam đồng
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1: Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính Error: Reference
source not found
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của Công ty Error: Reference source not found
DANH MỤC BẢNG
Trang
DANH MỤC BIỂU MẪU
Trang
Biểu mẫu 2.1: Khảo sát đánh giá khách hàng B Error: Reference source not found
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp


Biểu mẫu 2.2: Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ khách hàng A Error: Reference
source not found
Biểu mẫu 2.3: Kế hoạch kiểm toán tổng thể khách hàng A Error: Reference source
not found
Biểu mẫu 2.4: Tính mức trọng yếu khách hàng A Error: Reference source not found
Biểu mẫu 2.5: Phân bổ mức trọng yếu cho các khoản mục trên báo cáo tài chính
khách hàng A Error: Reference source not found
Biểu mẫu 2.6: Phân tích sơ bộ các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán Error:
Reference source not found
Biểu mẫu 2.7: Trích dẫn chương trình kiểm toán khách hàng A Error: Reference
source not found
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường, ngành kiểm toán
cũng đã có những bước tiến mạnh mẽ, dần chiếm một vị trí vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập, nhu cầu kiểm toán lại trở nên
cấp thiết hơn bao giờ hết. Với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nguồn đầu tư
từ các nước trên thế giới vào Việt Nam tăng mạnh mẽ, sự mở rộng thông thương
hợp tác Quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải minh bạch hóa tình hình
tài chính, và kiểm toán dường như là một yêu cầu không thể thiếu. Chính trong bối
cảnh thuận lợi ấy, hàng loạt các công ty kiểm toán đã ra đời khiến sự cạnh tranh
trong ngành kiểm toán ngày một gay gắt. Công ty TNHH Kiểm toán ASC là một
công ty còn khá trẻ, vừa phải chịu sự che lấp bởi những tên tuổi đã nổi tiếng thế
giới như KPMG, E&Y, PWC… lại vừa phải ra sức cạnh tranh cùng rất nhiều các
công ty kiểm toán mới thành lập. Trong điều kiện đó, để có thể tồn tại và giành
được chỗ đứng vững chắc, một con đường duy nhất là ASC phải không ngừng nâng
cao chất lượng thực hiện dịch vụ trên một quỹ thời gian và chi phí hợp lý đảm bảo
tính cạnh tranh trên thị trường kiểm toán. Và một yếu tố có vai trò quan trọng, chi
phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán đó là lập kế

hoạch kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của
cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán,
cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được
quy định thành chuẩn mực và đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân theo đầy đủ
nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và chất lượng.
Qua thời gian thực tập tại Công ty TNHH Kiểm toán ASC, được tiếp cận với
thực tế hoạt hoạt động tại Công ty, em nhận thấy quy trình lập kế hoạch kiểm toán
do ASC thực hiện có nhiều đặc điểm cả về mặt ưu điểm cũng như hạn chế. Công ty
luôn nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện
đối với mọi đối tượng khách hàng của mình. Tuy nhiên, quá trình lập kế hoạch kiểm
toán tại Công ty còn nhiều nhược điểm khiến quá trình này vẫn chưa phát huy được
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
1
Khóa luận tốt nghiệp
tối đa vai trò của mình đối với chất lượng mỗi cuộc kiểm toán. Chính từ sự chi phối
mạnh mẽ của kế hoạch kiểm toán tới chất lượng cuộc kiểm toán, và thực tế công tác
lập kế hoạch kiểm toán tại ASC em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác lập kế
hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Kiểm toán
ASC thực hiện” để nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn quy trình lập kế hoạch kiểm toán
mà Công ty TNHH Kiểm toán ASC thực hiện, từ đó tìm ra những ưu điểm cũng
như những hạn chế mà Công ty gặp phải nhằm đưa ra một số giải pháp kiến nghị
góp phần hoàn thiện công tác lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài
chính do Công ty TNHH Kiểm toán ASC thực hiện. Đề tài được nghiên cứu dựa
trên phương pháp toán học, so sánh, phương pháp diễn giải quy nạp kết hợp dùng
bảng biểu, sơ đồ để phân tích những số liệu, thực trạng cụ thể nhằm đưa ra những
đánh giá để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu của đề tài là hoàn thiện công tác
lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Kiểm
toán ASC thực hiện. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của
thầy giáo hướng dẫn - TS.Tô Văn Nhật cùng các cô chú, anh chị nhân viên Công ty
TNHH Kiểm toán ASC, đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình.

Chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan chung về Công ty TNHH Kiểm toán ASC
Chương 2: Thực trạng lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài
chính do Công ty TNHH Kiểm toán ASC thực hiện
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện công tác lập kế hoạch kiểm toán
trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Kiểm toán
ASC thực hiện
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
2
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Khái quát về lập kế hoạch trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm về lập kế hoạch kiểm toán
Theo chuẩn mực kiểm toán Quốc tế ISA 300, “lập kế hoạch có nghĩa là việc
phát triển một chiến lược tổng thể và một phương pháp tiếp cận với chi tiết tính chất
thời gian dự tính và nội dung của một cuộc kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế
hoạch là để có thể thực hiện cuộc kiểm toán một cách có hiệu quả và theo đúng thời
gian dự kiến”.
Bên cạnh đó, theo giáo trình Lý thuyết kiểm toán của trường Đại học Kinh tế
quốc dân, “lập kế hoạch kiểm toán là quá trình cân đối tích cực giữa nhu cầu và
nguồn lực đã có. Việc xác định nhu cầu được thực hiện chủ yếu qua việc cụ thể hóa
mục tiêu và phạm vi kiểm toán đã dự kiến. Việc cụ thể hóa này trước hết ở việc xác
định những công việc cụ thể phải làm và trên cơ sở đó lượng hóa quy mô từng việc
và xác định thời gian kiểm toán tương ứng. Để thực hiện cả hai quy trình đó, cần
thiết không chỉ cụ thể hóa và chính xác hóa mục tiêu và phạm vi kiểm toán mà còn
cần thiết xác định các nguồn thông tin có thể có”.
Mặc dù bề ngoài các quan điểm trên có vẻ khác nhau, nhưng về bản chất các
quan điểm đều cho rằng lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm

toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý
cũng như những điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán.
Kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao
quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận, rủi ro và
những vấn đề tiềm ẩn; và đảm bảo cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn.
Phạm vi kế hoạch kiểm toán sẽ thay đổi tùy theo quy mô khách hàng, tính chất phức
tạp của công việc kiểm toán, kinh nghiệm và những hiểu biết của kiểm toán viên về
đơn vị và hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
3
Khóa luận tốt nghiệp
toán viên phải hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán để nhận biết được
các sự kiện, nghiệp vụ có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính. Để lập kế
hoạch kiểm toán, kiểm toán viên có quyền thảo luận với kiểm toán viên nội bộ,
Giám đốc và các nhân viên của đơn vị được kiểm toán về những vấn đề liên quan
đến kế hoạch kiểm toán và thủ tục kiểm toán nhằm nâng cao hiệu quả công việc
kiểm toán và phối hợp công việc với các nhân viên của đơn vị được kiểm toán.
1.1.2 Khái quát về quy trình kiểm toán và vị trí của khâu lập kế hoạch trong quy
trình kiểm toán
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc kiểm
toán cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ
cho kết luận của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của số liệu trên báo cáo
tài chính, cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm ba giai đoạn
như sau: Lập kế hoạch và thiết kế các phương pháp kiểm toán, thực hiện kế hoạch
kiểm toán, hoàn thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán, được thể hiện
trong sơ đồ 1.1:
Sơ đồ 1.1: Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính
(Nguồn: GS.TS.Nguyễn Quang Quynh, (2006), Giáo trình kiểm toán tài chính, NXB
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr. 102.)
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A

4
Giai đoạn I
Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Giai đoạn II
Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn III
Hoàn thành kiểm toán và công bố Báo cáo kiểm toán
Khóa luận tốt nghiệp
Trong đó, lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán là bước công việc
đầu tiên của tổ chức công tác kiểm toán nhằm tạo ra tất cả tiền đề và điều kiện cụ
thể trước khi thực hành kiểm toán. Sau khi đã hình thành được phương pháp kiểm
toán cụ thể, kiểm toán viên sẽ tiến hành thực hiện kế hoạch kiểm toán. Đây là quá
trình thực hiện đồng bộ các công việc đã ấn định trong kế hoạch, chương trình kiểm
toán. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên phải tuyệt đối tuân thủ
chương trình kiểm toán đã được xây dựng để tiến tới hoàn thành kiểm toán, đưa ra
kết luận kiểm toán và báo cáo hoặc biên bản kiểm toán. Đó là sự khái quát về kết
quả thực hiện các chức năng kiểm toán trong từng cuộc kiểm toán cụ thể.
Qua đây ta có thể thấy, ba giai đoạn trong một quy trình kiểm toán có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Chất lượng thực hiện giai đoạn trước có ảnh hưởng quyết định
tới chất lượng thực hiện công việc giai đoạn sau. Trong đó, lập kế hoạch là giai
đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán, do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
hiệu quả công việc hai giai đoạn tiếp theo cũng như quyết định chất lượng của toàn
bộ cuộc kiểm toán.Ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện qua một số điểm sau:
-Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng
kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra các ý kiến xác đáng về các báo
cáo tài chính, từ đó giúp các kiểm toán viên hạn chế những sai sót, giảm thiểu trách
nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững được uy tín nghề nghiệp
đối với khách hàng.
-Kế hoạch kiểm toán giúp các kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với nhau
cũng như phối hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan như kiểm toán nội bộ, các

chuyên gia bên ngoài… Đồng thời qua sự phối hợp hiệu quả đó, kiểm toán viên có
thể tiến hành cuộc kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với các chi phí ở mức
hợp lý, tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho công ty kiểm toán và giữ uy tín với
khách hàng trong mối quan hệ làm ăn lâu dài.
-Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xảy ra
những bất đồng đối với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm
toán viên thống nhất với các khách hàng về nội dung công việc sẽ thực hiện, thời
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
5
Khóa luận tốt nghiệp
gian tiến hành kiểm toán cũng như là trách nhiệm của mỗi bên… Điều này tránh
xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc giữa hai bên.
-Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, kiểm toán viên có thể
kiểm soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện, góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán, từ đó càng thắt chặt hơn
mối quan hệ giữa công ty kiểm toán với khách hàng.
Chính từ vai trò quan trọng ấy, kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ
yêu cầu chính của cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong
công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công
tác kiểm toán đã được quy định thành chuẩn mực và đòi hỏi các kiểm toán viên
phải tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và
chất lượng.
1.2 Nội dung lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1 Chuẩn bị kiểm toán
Quy trình kiểm toán bắt đầu khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán thu
nhận một khách hàng. Thu nhận khách hàng là một quá trình gồm hai bước: thứ
nhất, phải có sự liên lạc giữa kiểm toán viên với khách hàng tiềm năng mà khách
hàng này yêu cầu được kiểm toán và khi có yêu cầu kiểm toán, kiểm toán viên phải
đánh giá liệu có chấp nhận yêu cầu đó hay không. Còn đối với khách hàng hiện tại,
kiểm toán viên phải quyết định liệu có tiếp tục kiểm toán hay không? Trên cơ sở đã

xác định được đối tượng khách hàng có thể phục vụ trong tương lai, công ty kiểm
toán sẽ tiến hành các công việc cần thiết để chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán bao
gồm: đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán, nhận diện lý do kiểm toán, lựa chọn
đội ngũ nhân viên kiểm toán và đạt được một hợp đồng kiểm toán.
Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán:
Kiểm toán viên phải đánh giá xem việc chấp nhận hay tiếp tục một khách
hàng có làm tăng rủi ro cho hoạt động của kiểm toán viên hay làm hại đến uy tín và
hình ảnh của công ty kiểm toán hay không? Để làm được điều đó, kiểm toán viên
phải tiến hành các công việc sau:
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
6
Khóa luận tốt nghiệp
-Xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng:
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 cho rằng kiểm toán viên phải xem
xét hệ thống kiểm soát chất lượng khi đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán. Một
trong những bộ phận của hệ thống kiểm soát chất lượng được xác định trong chuẩn
mực này là việc thiết lập các chính sách và thủ tục về khả năng chấp nhận và tiếp
tục khách hàng cũng như chấp nhận và tiếp tục hợp đồng kiểm toán. Chuẩn mực đã
hướng dẫn: Các chính sách và thủ tục nên được thiết lập để quyết định có hay
không việc chấp nhận hoặc tiếp tục quan hệ với khách hàng. Và các chính sách thủ
tục đó phải đảm bảo rằng khả năng chấp nhận một khách hàng có ban quản lý thiếu
liêm chính là nhỏ nhất. Thiết lập các chính sách và thủ tục đó không có nghĩa là
công ty phải đảm bảo tính liêm chính hay sự tin cậy của khách hàng và cũng không
có nghĩa là công ty kiểm toán có trách nhiệm đối với bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào
nhưng phải có trách nhiệm với bản thân công ty về việc chấp nhận, từ chối hay duy
giữ khách hàng.
-Tính liêm chính của Ban Giám đốc công ty khách hàng:
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400, tính liêm chính của ban quản
trị là bộ phận cấu thành then chốt của môi trường kiểm soát, đây là nền tảng cho tất
cả các bộ phận khác của hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì vậy, tính liêm chính của Ban

quản trị rất quan trọng đối với quy trình kiểm toán bởi lẽ Ban quản trị có thể phản
ánh sai các nghiệp vụ hoặc dấu diếm các thông tin dẫn tới các sai sót trọng yếu trên
báo cáo tài chính. Thêm vào đó, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 Gian lận và
sai sót, nhấn mạnh tầm quan trọng về đặc thù của Ban quản trị và ảnh hưởng của nó
tới môi trường kiểm soát như là nhân tố rủi ro ban đầu của việc báo cáo gian lận các
thông tin tài chính. Nếu Ban quản trị thiếu liêm chính, kiểm toán viên không thể
dựa vào bất kỳ bản giải trình nào của Ban quản trị, cũng như không thể dựa vào các
sổ kế toán. Hơn nữa, Ban quản trị đứng hàng đầu trong việc tạo ra một môi trường
kiểm soát vững mạnh. Những nghi ngại về tính liêm chính của ban quản trị có thể
nghiêm trọng đến nỗi kiểm toán viên kết luận rằng cuộc kiểm toán không thể thực
hiện được.
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
7
Khóa luận tốt nghiệp
-Liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm:
Đối với những khách hàng tiềm năng, nếu khách hàng này trước đây đã được
kiểm toán bởi một công ty kiểm toán khác thì kiểm toán viên mới phải chủ động
liên lạc với kiểm toán viên cũ vì đây là nguồn thông tin đầu tiên để đánh giá khách
hàng. Kiểm toán viên kế tục phải liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm về những
vấn đề liên quan đến việc kiểm toán viên kế tục quyết định có chấp nhận hợp đồng
kiểm toán hay không, bao gồm: Những thông tin về tính liêm chính của Ban quản
trị, những bất đồng giữa ban quản trị với kiểm toán viên tiền nhiệm về các nguyên
tắc kế toán, thủ tục kiểm toán hoặc các vấn đề quan trọng khác… và lý do tại sao
khách hàng thay đổi kiểm toán viên. Ngoài ra, kiểm toán viên có thể xem xét hồ sơ
kiểm toán của kiểm toán viên tiền nhiệm để hỗ trợ cho kiểm toán viên kế tục trong
việc lập kế hoạch kiểm toán.
Đối với những khách hàng mà trước đây chưa từng được công ty kiểm toán
nào kiểm toán thì để có những thông tin về khách hàng, kiểm toán viên có thể thu
thập các thông tin này thông qua việc nghiên cứu sách báo, tạp chí chuyên ngành,
thẩm tra các bên liên quan với khách hàng như ngân hàng, cố vấn pháp lý, các bên

có mối quan hệ tài chính buôn bán với khách hàng thậm chí có thể thuê các nhà
điều tra chuyên nghiệp để điều tra về vấn đề cần thiết khác. Cách thu thập tin tức
này cũng có thể áp dụng trong trường hợp khách hàng trước đây đã được kiểm toán
bởi một công ty kiểm toán khác mà khách hàng không đồng ý cho kiểm toán viên
mới tiếp xúc với kiểm toán viên cũ hoặc do trước đây có những bất đồng nghiêm
trọng giữa hai bên nên kiểm toán viên tiền nhiệm không cung cấp đủ các thông tin
cần thiết.
Đối với những khách hàng cũ: Hàng năm kiểm toán viên cập nhật các thông
tin về khách hàng và đánh giá xem liệu có rủi ro nào khiến kiểm toán viên phải
ngừng cung cấp các dịch vụ kiểm toán cho họ hay không? Kiểm toán viên có thể
ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán cho khách hàng trong trường hợp hai bên có
những mâu thuẫn về các vấn đề như: phạm vi thích hợp của cuộc kiểm toán, loại
báo cáo kiểm toán phải công bố, tiền thù lao hoặc giữa hai bên có những vụ kiện
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
8
Khóa luận tốt nghiệp
tụng hoặc trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng khách hàng thiếu liêm chính…
từ những thông tin thu được, kiểm toán viên có thể cân nhắc đánh giá khả năng
chấp nhận hay tiếp tục kiểm toán cho khách hàng.
Ngoài ra, kiểm toán viên phải xem xét thỏa thuận phí kiểm toán với khách
hàng, phần lớn các công ty kiểm toán đều muốn lập hóa đơn dựa theo tỷ lệ chuẩn
ngày hoặc giờ làm việc của các cấp bậc kiểm toán viên khác nhau trong cuộc kiểm
toán và mức phí này sẽ thay đổi theo tiến trình của cuộc kiểm toán. Nhưng khách
hàng thường đòi hỏi phí kiểm toán được ấn định trước khi hợp đồng kiểm toán được
thực hiện.
Điều cân nhắc cuối cùng nhưng quan trọng nhất của kiểm toán viên khi đánh
giá có chấp nhận khách hàng hay không chính là việc xác định khả năng có thể
kiểm toán của khách hàng.
Nhận diện lý do kiểm toán của công ty khách hàng:
Thực chất của việc nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng là

việc xác định người sử dụng báo cáo tài chính và mục đích sử dụng báo cáo của họ.
Để biết được điều đó, kiểm toán viên có thể phỏng vấn trực tiếp Ban giám đốc
khách hàng (đối với khách hàng mới) hoặc dựa vào kinh nghiệm của cuộc kiểm
toán đã được thực hiện trước đó (đối với khách hàng cũ). Và trong suốt quá trình
thực hiện kiểm toán sau này, kiểm toán viên sẽ thu thập thêm thông tin để hiểu biết
thêm về lý do kiểm toán của công ty khách hàng.
Việc xác định người sử dụng báo cáo tài chính và mục đích sử dụng báo
cáo của họ là hai yếu tố chính ảnh hưởng đến số lượng bằng chứng phải thu thập
và mức độ chính xác của các ý kiến mà kiểm toán viên đưa ra trong báo cáo
kiểm toán. Cụ thể, nếu các báo cáo tài chính cần được sử dụng rộng rãi thì mức
độ trung thực, hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính được đòi hỏi càng
cao và do đó số lượng bằng chứng của cuộc kiểm toán sẽ càng tăng lên. Điều này
lại càng đòi hỏi phải có một số lượng và cơ cấu kiểm toán viên thích hợp để thực
hiện cuộc kiểm toán.
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
9
Khóa luận tốt nghiệp
Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán:
Kiểm toán viên là những người trực tiếp thực hiện các công việc của mỗi
cuộc kiểm toán, do vậy chất lượng đội ngũ nhân viên sẽ quyết định chất lượng mỗi
cuộc kiểm toán. Vì vậy, quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi một hoặc
nhiều người đã được đào tạo đầy đủ thành thạo như một kiểm toán viên. Việc lựa
chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán cần được tiến hành trên yêu cầu về số người,
trình độ khả năng và yêu cầu chuyên môn kĩ thuật và thường do Ban giám đốc công
ty kiểm toán trực tiếp chỉ đạo (thông thường nhóm kiểm toán có một hoặc hai trợ lý
kiểm toán, một kiểm toán viên cao cấp và một chủ nhiệm kiểm toán). Với các hợp
đồng lớn, đội ngũ kiểm toán viên thường ở các mức kinh nghiệm khác nhau và có
sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực thống kê, vi tính… còn đối với những
hợp đồng nhỏ thì chỉ cần một hoặc hai thành viên trong nhóm kiểm toán. Trong quá
trình lựa chọn đội ngũ nhân viên, công ty kiểm toán cần quan tâm tới 3 vấn đề:

-Nhóm kiểm toán có những người có khả năng giám sát thích đáng các nhân
viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong nghề. Do các trợ lý kiểm toán mới thường
không tự tin khi thực hiện công tác kiểm toán do thiếu kinh nghiệm hoặc không
hiểu rõ các thủ tục kiểm toán đang thực hiện, tại sao họ phải thực hiện các thủ tục
ấy và cách đánh giá các kết quả thu được và đôi khi các trợ lý này thực hiện một
cách máy móc các thủ tục kiểm toán dựa theo chương trình kiểm toán trong hồ sơ
kiểm toán năm trước.
-Công ty kiểm toán cần tránh thay đổi kiểm toán viên trong các cuộc kiểm
toán cho một khách hàng trong nhiều năm. Việc tham gia kiểm toán cho một khách
hàng trong nhiều năm có thể giúp kiểm toán viên tích lũy được nhiều kinh nghiệm
cũng như có được hiểu biết sâu sắc về ngành nghề kinh doanh của khách hàng đang
được kiểm toán.
-Khi phân công kiểm toán viên thực hiện cuộc kiểm toán cần chú ý lựa chọn
những kiểm toán viên có kiến thức và kinh nghiệm về ngành nghề kinh doanh của
khách hàng.
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
10
Khóa luận tốt nghiệp
Việc quan tâm đầy đủ các vấn đề trên khi lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm
toán sẽ góp phần giúp công ty kiểm toán thực hiện cuộc kiểm toán có chất lượng và
hiệu quả.
Hợp đồng kiểm toán:
Khi đã quyết định chấp nhận kiểm toán cho khách hàng và xem xét các vấn
đề trên, bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán mà công ty kiểm toán
phải đạt được là một hợp đồng kiểm toán. Đây là sự thỏa thuận chính thức giữa
công ty kiểm toán và khách hàng về việc thực hiện kiểm toán và các dịch vụ liên
quan khác.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 210, hợp đồng kiểm toán phải được
lập và ký chính thức trước khi tiến hành công việc kiểm toán nhằm bảo vệ quyền lợi
của khách hàng và của công ty kiểm toán. Trong một số trường hợp đặc biệt, nếu

khách hàng và công ty kiểm toán sử dụng văn bản cam kết thay cho hợp đồng thì
văn bản cam kết phải đảm bảo các điều khoản và điều kiện cơ bản của hợp đồng
kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
-Mục đích và phạm vi kiểm toán: Mục tiêu của cuộc kiểm toán là cái đích
cần đạt tới đồng thời là thước đo kết quả của mỗi cuộc kiểm toán cụ thể. Trong cuộc
kiểm toán báo cáo tài chính do kiểm toán độc lập tiến hành, mục tiêu của cuộc kiểm
toán thường là xác định tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài
chính. Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian, thời gian của đối tượng
kiểm toán thường được xác định cùng với việc xác định mục tiêu của cuộc kiểm
toán. Trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, phạm vi kiểm toán thường là toàn bộ
báo cáo tài chính của năm kết thúc.
-Trách nhiệm của Ban giám đốc công ty khách hàng và kiểm toán viên:
Ban giám đốc có trách nhiệm trong việc lập và trình bày trung thực các thông tin
trên báo cáo tài chính, kiểm toán viên có trách nhiệm đưa ra ý kiến độc lập về
báo cáo tài chính dựa trên kết quả của cuộc kiểm toán. Và trách nhiệm của công
ty khách hàng trong việc cung cấp các tài liệu và thông tin liên quan đến công
việc kiểm toán.
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
11
Khóa luận tốt nghiệp
-Hình thức thông báo kết quả kiểm toán: Kết quả kiểm toán thường được
biểu hiện cụ thể dưới hình thức một báo cáo kiểm toán và có kèm theo một thư quản
lý trong đó nêu rõ những khiếm khuyết của hệ thống kiểm soát nội bộ hoặc những
gợi ý sửa chữa những khiếm khuyết này.
-Thời gian tiến hành cuộc kiểm toán gồm thời gian thực hiện kiểm toán sơ
bộ, kiểm toán chính thức, thời điểm kết thúc kiểm toán và phát hành báo cáo
kiểm toán.
-Căn cứ tính giá phí cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán phí kiểm toán
thường được công ty kiểm toán xác định căn cứ vào thời gian làm việc của các cấp
bậc kiểm toán viên khác nhau trong cuộc kiểm toán.

-Xác định rằng kiểm toán viên không chịu trách nhiệm những sai sót do bản
chất và hạn chế vốn có của hệ thống kế toán, kiểm soát nội bộ và kiểm toán.
Hợp đồng kiểm toán là cơ sở để kiểm toán viên thực hiện các bước tiếp theo
của cuộc kiểm toán và có thể ảnh hưởng đến trách nhiệm pháp lý của kiểm toán
viên đối với khách hàng, nó đảm bảo cho một cuộc kiểm toán thực thi.
Sau khi hợp đồng kiểm toán được ký kết, công ty kiểm toán trở thành chủ thể
kiểm toán chính thức của công ty khách hàng.
1.2.2 Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300, kế hoạch kiểm toán tổng thể là
việc cụ thể hóa phương pháp tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự
kiến của các thủ tục kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi
cuộc kiểm toán, trong đó mô tả phạm vi dự kiến và cách thức tiến hành công việc
kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải đầy đủ, chi tiết làm cơ sở để lập
chương trình kiểm toán. Hình thức và nội dung của kế hoạch kiểm toán tổng thể
thay đổi tùy theo quy mô của khách hàng, tính chất phức tạp của công việc kiểm
toán, phương pháp và kỹ thuật kiểm toán đặc thù do kiểm toán viên sử dụng. Những
vấn đề chủ yếu kiểm toán viên phải xem xét và trình bày trong kế hoạch kiểm toán
tổng thể gồm:
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
12
Khóa luận tốt nghiệp
1.2.2.1 Thu thập thông tin cơ sở
Trong giai đoạn này, kiểm toán viên phải thu thập hiểu biết về ngành nghề,
công việc kinh doanh của khách hàng, tìm hiểu về hệ thống kế toán, kiểm soát nội
bộ và các bên liên quan để đánh giá rủi ro và lên kế hoạch kiểm toán:
Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng:
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 đòi hỏi kiểm toán viên phải tìm hiểu
ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng. Điều này rất cần thiết khi
kiểm toán viên thực hiện kiểm toán với tính thận trọng nghề nghiệp đúng mức. Mỗi
ngành nghề có những hệ thống kế toán riêng và áp dụng những nguyên tắc kế toán

đặc thù. Thêm vào đó, tầm quan trọng của mỗi nguyên tắc kế toán cũng thay đổi
theo ngành kinh doanh của khách hàng.
Những hiểu biết về ngành nghề kinh doanh bao gồm những hiểu biết chung
về nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động của đơn vị và sự hiểu biết cụ thể hơn về tổ chức
và hoạt động của đơn vị kiểm toán, kiểm toán viên còn phải hiểu cả những khía
cạnh đặc thù của một tổ chức cụ thể như cơ cấu tổ chức, dây chuyền và các dịch vụ
sản xuất, cơ cấu vốn, chức năng và vị trí của kiểm toán nội bộ… để hiểu rõ các sự
kiện, các nghiệp vụ và các hoạt động có thể tác động đến báo cáo tài chính và để
thực hiện quá trình so sánh khách hàng này với các đơn vị trong ngành đó.
Kiểm toán viên có thể có được hiểu biết này bằng nhiều cách nhưng phương
pháp thường được sử dụng nhiều nhất là trao đổi với các kiểm toán viên, những
người đã tiến hành kiểm toán cho khách hàng những năm trước hoặc đã kiểm toán
cho khách hàng khác trong cùng ngành nghề kinh doanh hoặc trao đổi trực tiếp với
nhân viên, Ban giám đốc của khách hàng.
Ngoài ra, kiểm toán viên có thể có được những hiểu biết đó qua việc nghiên
cứu các sách báo, tạp chí chuyên ngành.
Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung:
Các hồ sơ kiểm toán năm trước thường chứa đựng rất nhiều thông tin về
khách hàng, về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức và các đặc điểu hoạt động
khác. Ngoài ra đa phần các công ty kiểm toán đều duy trì hồ sơ kiểm toán thường
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
13
Khóa luận tốt nghiệp
xuyên đối với mỗi khách hàng. Hồ sơ này có các bản sao của các tài liệu như: Sơ đồ
tổ chức, điều lệ công ty, các bảng kê, chính sách tín dụng, chính sách kế toán… Qua
đó kiểm toán viên sẽ tìm thấy những thông tin hữu ích về công việc kinh doanh của
khách hàng. Việc cập nhật và xem xét các sổ sách của công ty là rất cần thiết vì qua
đó kiểm toán viên có thể xác định được các quyết định của nhà quản lý có phù hợp
với luật pháp của Nhà nước, với các chính sách hiện hành của công ty hay không
mà còn giúp kiểm toán viên hiểu được bản chất của các số liệu cũng như sự biến

động của chúng trên báo cáo tài chính được kiểm toán.
Tham quan nhà xưởng:
Một vòng tham quan nhà xưởng, quan sát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng sẽ cung cấp cho kiểm toán viên những điều mắt thấy tai nghe
về quy trình sản xuất kinh doanh của khách hàng và nó cũng cho phép kiểm toán
viên gặp các nhân vật chủ chốt và cung cấp cho kiểm toán viên một cái nhìn tổng
thể về công việc kinh doanh của khách hàng (đặc biệt là công tác bảo vệ tài sản).
Điều này tạo điều kiện cho việc thuyết minh số liệu kế toán, phát hiện những vấn đề
cần quan tâm như sản xuất trì trệ, sản phẩm ứ đọng, máy móc lạc hậu hay không
được phát huy hết công suất…, do đó kiểm toán viên dự đoán được những tài khoản
trọng yếu trên báo cáo tài chính. Ngoài ra, kiểm toán viên cũng có được những nhận
định ban đầu về phong cách quản lý của Ban giám đốc, tính hệ thống trong việc sắp
đặt công việc…
Nhận diện các bên liên quan:
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên nên xác định tất cả
các bên có liên quan với khách hàng. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 550,
các bên liên quan được hiểu là: Các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức
của công ty khách hàng hay bất kỳ công ty chi nhánh, một cá nhân hay tổ chức nào
mà công ty khách hàng có quan hệ và các cá nhân tổ chức đó có khả năng điều
hành, kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các chính sách kinh doanh doặc
chính sách quản trị của công ty khách hàng. Kiểm toán viên phải xác định các bên
liên quan và nhận định sơ bộ về mối quan hệ này ngay trong giai đoạn lập kế hoạch
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
14
Khóa luận tốt nghiệp
thông qua phỏng vấn Ban giám đốc, xem sổ theo dõi cổ đông, sổ theo dõi khách
hàng… từ đó bước đầu dự đoán các vấn đề có thể phát sinh giữa các bên liên quan
để có thể hoạch định một kế hoạch kiểm toán phù hợp.
Dự kiến nhu cầu chuyên gia bên ngoài:
Thuật ngữ chuyên gia chỉ một người hoặc một văn phòng có năng lực, hiểu

biết và kinh nghiệm cụ thể trong một lĩnh vực riêng ngoài lĩnh vực kế toán và kiểm
toán. Kiểm toán viên có thể thấy rằng không ai trong nhóm kiểm toán có chuyên
môn hoặc khả năng về lĩnh vực nào đó để thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết
nhất định, ví dụ như khi đánh giá về các tác phẩm nghệ thuật, vàng bạc đá quý, hoặc
khi cần tư vấn pháp lý về các hợp đồng… khi đó kiểm toán viên có thể quyết định
sử dụng chuyên gia bên ngoài để có được các ý kiến tư vấn từ họ. Khi sử dụng
chuyên gia, kiểm toán viên phải đánh giá khả năng chuyên môn, hiểu mục đích và
phạm vi công việc của họ cũng như sự phù hợp của việc sử dụng tư liệu đó cho các
mục tiêu dự định. Kiểm toán viên cũng nên xem xét mối quan hệ giữa chuyên gia
với khách hàng, những yếu tố có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của chuyên gia
đó.
1.2.2.2 Thu thập thông tin về các nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Việc thu thập các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng giúp cho
kiểm toán viên nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến các
mặt hoạt động kinh doanh này, những thông tin này được thu thập trong quá trình
tiếp xúc với Ban giám đốc công ty khách hàng bao gồm bốn loại sau:
-Gấy phép thành lập và điều lệ công ty:
Việc nghiên cứu những tài liệu này giúp kiểm toán viên hiểu được về quá
trình hình thành, mục tiêu hoạt động và các lĩnh vực kinh doanh hợp pháp của đơn
vị cũng như nắm bắt được những vấn đề mang tính chất nội bộ của đơn vị như cơ
cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các phòng ban, thủ tục phát hành cổ phiếu, trái
phiếu…
-Các báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra của năm
hiện hành hay trong vài năm trước:
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
15
Khóa luận tốt nghiệp
Các báo cáo tài chính cung cấp dữ liệu về tình hình tài chính và kết quả hoạt
động kinh doanh của đơn vị, giúp kiểm toán viên nhận thức được tổng quát về vấn
đề đó và dựa trên cơ sở đó, áp dụng các kỹ thuật phân tích các báo cáo này để nhận

thức được xu hướng phát triển của khách hàng. Đây là tài liệu quan trọng nhất trong
một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra việc xem xét các báo cáo kiểm toán,
các biên bản kiểm tra, thanh tra (nếu có) sẽ giúp kiểm toán viên nhận thức rõ hơn về
thực trạng hoạt động của đơn vị khách hàng và dự kiến phương hướng kiểm tra.
-Biên bản các cuộc họp cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc:
Đây là những tài liệu chính thức và tóm lược về những vấn đề quan trọng
nhất đã được thảo luận và quyết định chính thức trong các cuộc họp đó. Các biên
bản này thường chứa đựng những thông tin quan trọng như: Công bố về cổ tức, phê
chuẩn việc hợp nhất hoặc giải thể các đơn vị trực thuộc, xét duyệt mua bán, chuyển
nhượng các tài liệu quan trọng…
Qua việc nghiên cứu các biên bản này, kiểm toán viên sẽ xác định được
những dữ kiện có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành và trình bày trung thực
các thông tin trên báo cáo tài chính.
-Các hợp đồng và cam kết quan trọng:
Các hợp đồng và cam kết quan trọng như: Hợp đồng mua bán hàng… là mối
quan tâm hàng đầu ở các bộ phận cá biệt của cuộc kiểm toán và đặc biệt là trong
suốt các giai đoạn khác nhau của cuộc khảo sát chi tiết. Trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán, việc xem xét sơ bộ các hợp đồng đó sẽ giúp kiểm toán viên tiếp
cận với các hoạt động chính của khách hàng, hình dung những khía cạnh pháp lý có
ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị khách hàng.
1.2.2.3 Thực hiện thủ tục phân tích
Thủ tục phân tích, theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 là “quá trình
đánh giá các thông tin tài chính được thực hiện thông qua việc nghiên cứu các mối
quan hệ đáng tin cậy giữa các dữ liệu tài chính và dữ liệu phi tài chính. Nó bao hàm
cả việc so sánh số liệu trên sổ với các số liệu ước tính của kiểm toán viên”. Sau khi
đã thu thập được các thông tin cơ sở và thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
16
Khóa luận tốt nghiệp
hàng, kiểm toán viên tiến hành thực hiện các thủ tục phân tích đối với các thông tin

đã thu thập để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các
thủ tục kiểm toán sẽ được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán. Các thủ tục
phân tích được kiểm toán viên sử dụng gồm hai loại cơ bản:
-Phân tích ngang: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các trị số của cùng
một chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Các chỉ tiêu phân tích được sử dụng để phân tích
ngang bao gồm:
+So sánh số liệu kỳ này với số liệu kỳ trước hoặc giữa các kỳ với
nhau. Nhờ đó kiểm toán viên thấy được những biến động bất thường và xác định
được các lĩnh vực cần quan tâm.
+So sánh số liệu thực tế với số liệu dự toán hoặc số liệu ước tính của
kiểm toán viên.
+So sánh dữ kiện của công ty khách hàng với dữ kiện của ngành.
-Phân tích dọc: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ tương quan
của các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau trên báo cáo tài chính. Các tỷ suất tài
chính thường dùng trong phân tích dọc có thể là các tỷ suất về khả năng thanh toán,
các tỷ suất về khả năng sinh lời…
1.2.2.4 Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro
Nếu ở các bước trên, kiểm toán viên mới chỉ thu thập được các thông tin
mang tính khách quan về khách hàng thì ở bước này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào
các thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một chiến lược,
kế hoạch kiểm toán phù hợp.
Đánh giá tính trọng yếu:
Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay độ lớn) và bản chất của các sai phạm
(kể cả bỏ sót) của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là từng nhóm mà trong
bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác
hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm.
Trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên phải đánh giá mức độ trọng
yếu để ước tính mức độ sai sót của báo cáo tài chính có thể chấp nhận được, xác
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
17

Khóa luận tốt nghiệp
định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên báo cáo
tài chính để từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi các khảo sát (thử nghiệm)
kiểm toán. Ở đây, kiểm toán viên cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ báo cáo
tài chính và phân bổ mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính:
-Ước tính ban đầu về tính trọng yếu:
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán viên
tin rằng ở mức đó các báo cáo tài chính có thể bị sai nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến
các quyết định của người sử dụng hay nói cách khác đó chính là những sai sót có
thể chấp nhận được đối với toàn bộ báo cáo tài chính. Việc ước lượng ban đầu về
tính trọng yếu giúp kiểm toán viên lập kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán
thích hợp. Cụ thể là nếu các kiểm toán viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp,
nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên báo cáo tài chính càng cao, thì số lượng
bằng chứng phải thu thập càng nhiều và ngược lại. Việc ước lượng ban đầu về tính
trọng yếu là một việc làm mang tính chất xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Do đó ước lượng ban đầu về tính trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong
suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán viên thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá
cao hoặc quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng ban
đầu về tính trọng yếu bị thay đổi.
-Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục:
Sau khi kiểm toán viên đã có được ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho
toàn bộ báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ mức ước lượng này cho từng
khoản mục trên báo cáo tài chính. Đó chính là sai số có thể chấp nhận được đối với
từng khoản mục. Mục đích của việc phân bổ này là để giúp kiểm toán viên xác định
được số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản
mục ở mức chi phí thấp nhất có thể mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên báo
cáo tài chính không vượt qua mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Cơ sở để
tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát, kinh nghiệm kiểm toán của kiểm toán viên và chi phí kiểm toán đối
với từng khoản mục. Trong thực tế, rất khó dự đoán về khả năng xảy ra sai sót cũng

Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
18
Khóa luận tốt nghiệp
như chi phí kiểm toán cho từng khoản mục nên công việc này mang tính chủ quan
và đòi hỏi sự xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Do vậy công ty kiểm toán
thường phân công các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao nhiều kinh
nghiệm để thực hiện công việc này.
Đánh giá rủi ro:
Trên cơ sở mức trọng yếu được xác định cho toàn bộ báo cáo tài chính và
phân bổ cho từng khoản mục, kiểm toán viên cần đánh giá khả năng xảy ro sai sót
trọng yếu ở mức độ toàn bộ báo cáo tài chính cũng như đối với từng khoản mục để
phục vụ cho việc thiết kế các thủ tục kiểm toán và xây dựng chương trình cho từng
khoản mục. Công việc này gọi là đánh giá rủi ro kiểm toán. Theo chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam số 400, rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm
toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm
toán còn có những sai sót trọng yếu. Kiểm toán viên cần đánh giá ba loại rủi ro
kiểm toán sau:
-Rủi ro cố hữu: Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng
khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ
hoặc tính gộp, mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát nội bộ. Để đánh giá rủi ro
cố hữu, kiểm toán viên dựa vào các yếu tố ảnh hưởng sau:
+Bản chất kinh doanh của khách hàng: Rủi ro cố hữu thường bị tăng
lên bởi những đặc thù của ngành nghề kinh doanh mà nó có thể tạo nên khó khăn
cho kiểm toán hoặc những khoản không chắc chắn do đó có thể làm tăng những
gian lận hoặc những sai sót trên báo cáo tài chính.
+Tính trung thực của Ban giám đốc: Ban giám đốc không thể xem là
hoàn toàn trung thực trong mọi trường hợp. Khi Ban giám đốc bị kiểm soát bởi một
hoặc một số ít các cá nhân thiếu tính trung thực thì khả năng các báo cáo tài chính
bị báo cáo sai nghiêm trọng sẽ tăng lên rất cao, do vậy việc rủi ro cố hữu được đánh
giá ở mức cao.

Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
19
Khóa luận tốt nghiệp
+Kết quả các lần kiểm toán trước: Đối với các tài khoản được phát
hiện có sai phạm trong các lần kiểm toán của năm trước, rủi ro cố hữu được xác
định ở mức cao.
+Hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn: Trong
các hợp đồng kiểm toán lần đầu, kiểm toán viên thường thiếu hiểu biết và kinh
nghiệm về các sai sót của đơn vị khách hàng nên họ thường đánh giá rủi ro cố hữu
cao hơn so với hợp đồng kiểm toán gia hạn.
+Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên: Các nghiệp vụ kinh tế
này có khả năng bị vào số sai nhiều hơn là các nghiệp vụ diễn ra hàng ngày do
khách hàng thiếu kinh nghiệm trong hạch toán các nghiệp vụ đó, do đó rủi ro cố
hữu đối với các tài khoản chưa các nghiệp vụ này thường được đánh giá cao.
+Các ước tính kế toán: Rủi ro cố hữu của các tài khoản phản ánh các
ước tính kế toán (dự phòng các khoản phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn
kho…) thường được đánh giá là cao vì việc vào sổ đúng đắn các khoản mục này
không những đòi hỏi sự hiểu biết về bản chất các khoản mục, lý thuyết liên quan mà
còn cả kinh nghiệm và sự phát xét chủ quan của người có trách nhiệm.
+Số lượng tiền của các số dư tài khoản: Các tài khoản có số dư bằng
tiền lớn thường được đánh giá là rủi ro cố hữu cao hơn so với tài khoản có số dư
bằng tiền nhỏ.
Kiểm toán viên cần đánh giá lần lượt các yếu tố trên và quyết định mức rủi
ro cố hữu thích hợp đối với từng khoản mục trên báo cáo tài chính.
-Rủi ro kiểm soát: Đây là loại rủi ro liên quan đến sự yếu kém của hệ thống
kiểm soát nội bộ. Rủi ro kiểm soát là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do hệ
thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động hoặc hoạt động
không hiệu quả do đó đã không phát hiện và ngăn chặn các sai phạm này. Rủi ro
kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá đối với từng khoản mục trên báo cáo tài
chính thường qua việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đối với

khoản mục này. Rủi ro kiểm soát sẽ luôn xuất hiện và khó tránh khỏi do những hạn
chế cố hữu của bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào. Việc đánh giá hệ thống kiểm
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
20
Khóa luận tốt nghiệp
soát nội bộ được thực hiện theo một trình tự nhất định và có thể khái quát thành bốn
bước cơ bản sau:
+Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết hệ
thống kiểm soát nội bộ trên giấy tờ làm việc. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên
tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng trên hai mặt chủ yếu:
Thiết kế kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế kiểm soát và thiết kế về bộ
máy kiểm soát; hoạt động liên tục và có hiệu lực của kiểm soát nội bộ.
+Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch cho các khoản
mục trên báo cáo tài chính: Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400, “sau khi
hiểu được hệ thống kế toán và kiểm toán nội bộ, kiểm toán viên phải thực hiện đánh
giá ban đầu về rủi ro kiểm soát theo các cơ sở dẫn liệu cho số dư của mỗi tài khoản
trọng yếu”. Rủi ro kiểm soát được đánh giá thông qua những hiểu biết về hệ thống
kiểm soát nội bộ. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành hữu hiệu
thì rủi ro kiểm soát được đánh giá thấp và ngược lại.
+Thực hiện thử nghiệm kiểm soát: Mục đích của thử nghiệm này là
thu thập bằng chứng về sự hữu hiệu của các quy chế và thủ tục kiểm soát để giảm
bớt các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ. Thử nghiệm kiểm soát được
thực hiện với những phương pháp khác nhau tùy thuộc từng trường hợp cụ thể.
Phương pháp kiểm tra tài liệu hoặc thực hiện lại các thủ tục kiểm soát được áp dụng
nếu các thủ tục để lại các dấu vết trực tiếp trên tài liệu như các chữ ký phê duyệt,
hóa đơn lưu… Nếu các thủ tục kiểm soát không để lại dấu vết trong tài liệu kiểm
toán viên tiến hành quan sát các hoạt động liên quan đến kiểm soát nội bộ hoặc
phỏng vấn nhân viên đơn vị về các thủ tục kiểm soát.
+Lập bảng đánh giá kiểm soát nội bộ theo những thông tin và các tiêu
chuẩn đánh giá về một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt được tổng hợp qua các bước

trên. Bảng đánh giá kiểm soát nội bộ thường phản ánh các thông tin sau: Các mục
tiêu của kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục hay chu trình nghiệp vụ, các
thông tin mô tả thực trạng kiểm soát nội bộ do kiểm toán viên thu thập, nguyên tắc
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
21
Khóa luận tốt nghiệp
thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát, đánh giá về kiểm soát nội bộ đối với
từng khoản mục hay chu trình nghiệp vụ.
-Rủi ro phát hiện: Là khả năng xảy ra các sai sót hoặc gian lận mà không
được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ và cũng không được
kiểm toán viên phát hiện thông qua các phương pháp kiểm toán. Rủi ro phát hiện
được xác định từ ba loại rủi ro là rủi ro kiểm toán mong muốn , rủi ro cố hữu và rủi
ro kiểm toán. Vì ba loại rủi ro này thay đổi đối với từng khoản mục trên báo cáo tài
chính nên rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập cũng thay
đổi theo. Rủi ro phát hiện trong mối quan hệ với ba loại rủi ro trên được thể hiện
qua mô hình sau:
DAR = IR x CR x DR
Hay DR = DAR / (IR x CR)
Trong đó: DAR: Rủi ro kiểm toán
IR: Rủi ro cố hữu
CR: Rủi ro kiểm soát
DR: Rủi ro phát hiện
Các loại rủi ro kiểm toán có thể được đánh giá cụ thể bằng các con số theo tỷ
lệ phần trăm hoặc được đánh giá một cách khái quát theo yếu tố định tính như thấp,
trung bình hay cao.
1.2.3 Thiết kế chương trình kiểm toán
1.2.3.1 Chương trình kiểm toán
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300, chương trình kiểm toán là toàn
bộ những chỉ dẫn cho kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán tham gia vào công việc
kiểm toán và là phương tiện ghi chép theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện kiểm

toán. Chương trình kiểm toán chỉ dẫn mục tiêu kiểm toán từng phần hành, nội dung,
lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cụ thể và thời gian ước tính cần thiết
cho từng phần hành. Chương trình kiểm toán được thiết kế phù hợp sẽ đem lại rất
nhiều lợi ích:
Bùi Thị Thanh Vân Kiểm toán 47A
22

×