Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Những điều căn bản về Thuế và bản chất của Thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.67 KB, 50 trang )

Nhng iu cn bn v Thu v bn cht ca Thu
Chng 1
Lí LUN CHUNG V THU
I. NGUN GC V BN CHT THU
1.1. Ngun gc ca thu
Lch s phỏt trin ca xó hi loi ngi ó chng minh rng, thu ra i l mt
tt yu khỏch quan, gn lin vi s ra i, tn ti v phỏt trin ca nh nc. duy
trỡ s tn ti ca mỡnh, nh nc cn cú nhng ngun ti chớnh chi tiờu, trc ht
l chi cho vic duy trỡ v cng c b mỏy cai tr t trung ng n a phng,
thuc phm vi lónh th m nh nc ú ang cai qun; chi cho cỏc cụng vic ban
u thuc chc nng ca nh nc nh: quc phũng, an ninh, chi cho xõy dng v
phỏt trin cỏc c s h tng; chi cho cỏc vn v phỳc li cụng cng, v s nghip,
v xó hi trc mt v lõu di.
cú ngun ti chớnh ỏp ng nhu cu chi tiờu chung, nh nc thng s
dng ba hỡnh thc ng viờn ú l: quyờn gúp ca dõn, vay ca dõn v dựng quyn
lc nh nc bt buc dõn phi úng gúp. Trong ú, hỡnh thc quyờn gúp tin v ti
sn ca dõn v hỡnh thc vay ca dõn l nhng hỡnh thc t nguyn, khụng mang
tớnh n nh v lõu di, thng c nh nc s dng cú gii hn trong mt s
trng hp c bit, b sung cho nhng nhim v chi t xut hoc cp bỏch.
ỏp ng nhu cu chi tiờu thng xuyờn, nh nc dựng quyn lc buc dõn phi
úng gúp mt phn thu nhp ca mỡnh cho ngõn sỏch nh nc. õy l hỡnh thc c
bn nht huy ng tp trung ngun ti chớnh cho t nc.
Hỡnh thc nh nc dựng quyn lc buc dõn úng gúp ỏp ng nhu cu chi
tiờu ca mỡnh - chớnh l thu.
V quan h gia nh nc v thu, Mỏc ó vit: "Thu l c s kinh t ca b
mỏy nh nc, l th on n gin kho bc thu c tin hay sn vt m ngi
dõn phi úng gúp dựng vo mi vic chi tiờu ca nh nc"
1
. ng ghen cng ó
vit: " duy trỡ quyn lc cụng cng, cn phi cú s úng gúp ca cụng dõn cho
nh nc, ú l thu".


2
Thu luụn gn cht vi s hỡnh thnh v tn ti ca h thng nh nc, ng
thi thu cng phỏt trin cựng vi s phỏt trin ca h thng nh nc.
1
Mác- Ăng Ghen tuyển tập- Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1961, tập 2
2
Ăng Ghen: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ t hữu và Nhà nớc - Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962
1
Thuế xuất hiện từ khá lâu, từ lúc nhà nước bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên khoa
học về thuế chỉ ra đời vào cuối thời kỳ phong kiến, đầu thời kỳ chủ nghĩa tư bản.
Các lý thuyết về thuế được xây dựng trên các học thuyết kinh tế dựa trên cơ sở một
nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tùy theo mức độ thị trường hoá các quan hệ kinh
tế đặc thù của mỗi quốc gia, mà các chính phủ vận dụng các lý thuyết vào hệ thống
chính sách thuế của mình một cách thích hợp. Việc suy tôn học thuyết này hay học
thuyết khác chỉ mang tính lịch sử, không mang tính đối kháng và điều quan trọng
nhất cho các nhà hoạch định chính sách thuế các quốc gia là tìm ra những ứng dụng
hiệu quả nhất, để thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của thuế trong cơ chế thị
trường mà không quá chú trọng vào trường phái lý thuyết nhất định.
1.2. Bản chất của thuế
Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất
của Nhà nước quy định bản chất của thuế. Về mặt lý luận, bản chất của nhà nước
vốn mang tính giai cấp. Không có một nhà nước phi giai cấp mà chỉ có nhà nước
của giai cấp nào mà thôi. Vì vậy, suy cho cùng bản chất thuế cũng mang tính giai
cấp. Có thể hiểu được điều này, thông qua nội dung cuộc nói chuyện của Chủ tịch
Hồ Chí Minh với đại biểu nhân dân địa phương tại Thanh Hoá, ngày 13-6-1957,
như sau:
“…Trước kia phải nộp thuế, nay dân chủ cũng phải nộp thuế. Trước ta nộp
thuế là nộp cho Tây, chúng lấy mồ hôi nước mắt của nhân dân ta mà làm giàu cho
chúng nó, để xây dựng bộ máy áp bức bóc lột đồng bào ta. Nhưng nay ta đóng thuế

là để làm lợi cho ta.

Tóm lại, muốn xây dựng nước nhà, Chính phủ phải có tiền, tiền đó do đồng
bào góp lại. Trước hết là đồng bào nông dân đông nhất, rồi đến công thương. Nếu
không có tiền thì Chính phủ không xây dựng được. Vì vậy, đồng bào phải giúp
Chính phủ, nghĩa là đồng bào phải nộp thuế”
- Trong chế độ phong kiến, hệ thống thuế khoá nhằm huy động sự đóng góp
tiền bạc của dân chúng để nuôi dưỡng quân đội, tổ chức bộ máy công quyền, quan
lại để cai trị trong cả nước. Người dân được hưởng rất ít các phúc lợi công cộng từ
phía nhà nước.
- Đến khi giai cấp tư sản nắm được chính quyền, giai đoạn đầu họ chủ trương
xây nhà nước tự do, không can thiệp vào hoạt động kinh tế của các lực lượng kinh tế
thị trường. Nhà nước chỉ đảm nhận nhiệm vụ giữ gìn an ninh, quốc phòng. Thuế
khóa chỉ đóng vai trò huy động nguồn lực tài chính tối thiểu để nuôi sống bộ máy
nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu công cộng khác. Nhưng khi bước vào những
năm 29- 33 của thế kỷ XX, nền kinh tế của các nước tư bản lâm vào khủng hoảng.
Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, nhà nước tư sản phải can thiệp vào hoạt
2
động kinh tế bằng cách lập ra các chương trình đầu tư lớn và thực hiện tái phân phối
thu nhập xã hội thông qua các công cụ tài chính. Trong số các công cụ trên thì thuế
là công cụ quan trọng và sắc bén để nhà nước thực hiện điều chỉnh nền kinh tế.
- Hệ số huy động thuế
Mặc dù, thuế được coi là công cụ chủ yếu để huy động tập trung nguồn lực tài
chính cho nhà nước, nhưng không có nghĩa là nhà nước có thể quy định mức động
viên thuế cao để tăng thu về thuế bằng mọi giá, mà mức độ động viên thuế chỉ có
một giới hạn nhất định. Nếu nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá mức phần
thu nhập từ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cho ngân sách nhà nước, thì phần
GDP còn lại dành cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào
đó, nếu họ nhận thấy rằng công sức bỏ vào kinh doanh, vào làm việc được bù đắp
không thoả đáng thì họ sẽ nghỉ không kinh doanh hoặc chuyển sang kinh doanh

ngầm và tìm mọi cách để trốn thuế. Như vậy, có thể thấy rằng, khả năng thu thuế tối
đa cho ngân sách nhà nước là khoản thu nhập mà các doanh nghiệp và người dân sẵn
sàng giành ra để trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng
trên giác độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản
ánh thông qua tỷ lệ phần trăm của GDP được động viên vào ngân sách nhà nước
được gọi là hệ số huy động thuế hay hệ số gánh nặng thuế.
Hệ số huy động thuế không chỉ là cơ sở chính để tham khảo việc các quốc gia
xây dựng chính sách thuế của họ mà còn là một dấu hiệu để so sánh mức độ huy
động thuế giữa các quốc gia khác nhau. Hệ số huy động thuế này bao nhiêu thì ảnh
hưởng trực tiếp đến thu nhập sau thuế và gián tiếp đến mức tiêu dùng và tiêu chuẩn
sống của nhân dân. Đó là điều mà các quốc gia cần cân nhắc. Trong giai đoạn kinh
tế thị trường hội nhập quốc tế, hệ số huy động thuế có thể phản ảnh xu thế dịch
chuyển dòng vốn, lao động giữa các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, để gia tăng sự
phồn vinh trong cộng đồng dân cư, tất cả các quốc gia xem thuế là nguồn thu chính,
phải đưa ra một mức thuế hợp lý trong chính sách thuế của mình. Độ lớn của hệ số
huy động thuế vì thế trở thành một trong những dấu hiệu quan trọng để đánh giá
việc hoàn thiện hơn của một nền kinh tế.
Nếu gọi T là tổng số thuế có thể thu được vào Ngân sách Nhà nước thì hệ số
huy động thuế là: T/GDP X 100
Hệ số này được dùng để chỉ ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa
các khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Nếu Nhà nước động viên thuế chưa đạt
tới giới hạn khả năng thu thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào tay Nhà nước chưa
đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên vượt quá giới hạn khả năng thu thuế thì sẽ làm
giảm khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp, do đó làm giảm số
thuế thu được trong tương lai.
Hệ số huy động thuế bình quân hàng năm từ năm 1992 thường là 17% và luôn
có khuynh hướng luôn gia tăng. Hệ số huy động thuế giữa các quốc gia khác nhau
tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế nước đó đang trong giai đoạn nào. Ví
3
dụ: Hệ số này ở Đài loan trong năm 1996 là 19,8%, trong khi đó Mỹ là 22,5% và

Nhật là 17,5%
3
.
Trong chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu duy trì tỷ lệ động viên từ GDP vào ngân
sách khoảng từ 18 đến 19%. Như vậy tính trên GNP khả năng chúng ta chỉ đạt đến
gần 17% bởi phần FDI trong nước lớn, trong khi phần đầu tư ra nước ngoài chúng
ta còn hạn chế, vì vậy gánh nặng thuế của chúng ta vẫn thuộc nhóm thấp trên thế
giới.
- Bản chất nhà nước và các nội dung sử dụng tiền thuế
Hệ số huy động thuế do còn gọi là độ lớn của gánh nặng thuế đánh vào cộng
đồng, vì vậy mặt nào đó thể hiện sức chịu đựng của nhân dân trong việc huy động
thuế của nhà nước. Hệ số huy động thuế của một quốc gia tăng, chứng tỏ tốc độ
tăng tiết kiệm của khu vực dân cư sẽ giảm và tất yếu phần đầu tư trong khu vực tư
nhân sẽ khó có khả năng gia tăng. Trong trường hợp hệ số huy động tăng, nhưng chi
tiêu chính phủ hợp lý, đầu tư của Chính Phủ hiệu quả, thì sự tăng trưởng của nền
kinh tế vẫn bình ổn. Tuy nhiên, theo đánh giá thông thường, đầu tư trong khu vực
nhà nước thường kém hiệu quả hơn trong đầu tư của lĩnh vực tư nhân, vì vậy việc
tăng mức huy động thuế quá cao sẽ làm cho nền kinh tế giảm bớt nhịp độ phát triển.
Thông thường việc huy động tiền thuế là do cơ quan thuế đảm nhận. Mức huy
động cao sẽ gây khó khăn cho việc hành thu và dưới con mắt người dân, cơ quan
thuế sẽ khó được thông cảm. Tuy nhiên, việc huy động thuế có thực sự trở thành
gánh nặng hay không, còn tùy thuộc vào việc sử dụng tiền thuế của nhà nước đó.
Việc sử dụng tiền thuế của các nhà nước trong các thời kỳ tập trung vào các nội
dung chủ yếu sau:
Thời kỳ mới xây dựng nhà nước: tiền thuế chủ yếu dùng để mua hàng hoá và
dịch vụ để cung ứng cho các hoạt động công cộng thiết yếu như: an ninh, quốc
phòng, y tế, giáo dục. Trong thời kỳ này mức thu thường thấp vì kinh tế đang trong
tình trạng bất ổn và đời sống nhân dân đang còn nhiều khó khăn. Mức huy động tuy
thấp, nhưng để bảo đảm cho các nhiệm vụ chi tiêu này, tỷ lệ huy động trên GDP

cũng không thấp.
Thời kỳ ổn định nhà nước: ngoài việc đảm bảo chi cho các nhiệm vụ thiết yếu
của đất nước như trên, nhà nước còn sử dụng tiền thuế để trợ giúp thêm cho một
nhóm người không còn khả năng lao động, đặc biệt là những người đã đóng góp
vào thành quả xây dựng nhà nước - gọi chung là đối tượng xã hội.
Thời kỳ phát triển thêm chức năng kinh tế: Khi thực hiện chức năng điều tiết
kinh tế thị trường, các nhà nước thường sử dụng tiền thuế để điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Một số nhà nước dùng tiền thuế để phát triển các ngành sản xuất độc quyền
nhà nước, tuy nhiên phần lớn để làm động lực cho các thành phần kinh tế khác phát
3
Guide to ROC taxes, Taxation and tariff commission, Ministry of Finance the Republic of China, Page 6.
4
triển, các nhà nước dùng tiền thuế tài trợ cho các dự án kinh tế có mục tiêu để thu
hút các thành phần kinh tế khác tham gia theo định hướng của mình.
Thời kỳ phát triển nhà nước phúc lợi: Sau khi ổn định các nhiệm vụ công cộng
khác, nhiều nhà nước đứng ra tổ chức các dịch vụ công cộng để gia tăng phúc lợi
cho cộng đồng, thông qua việc huy động tiền thuế. Tuy nhiên, hiệu quả của các dịch
vụ công vẫn là một vấn đề cần lưu tâm. Các quốc gia phát triển có mức huy động
cao, có khi lên đến 35% song do nhờ mở rộng dịch vụ công đến nhiều lĩnh vực khác
nhau để phục vụ miễn phí cho cộng đồng, vì vậy cũng rất ít khi bị kêu ca về gánh
nặng thuế.
Có thể nói bản chất của một nhà nước không thể hiện ra trong các tôn chỉ nhà
nước đó đưa ra, mà nó thể hiện rất cụ thể qua việc sử dụng tiền thuế của nhà nước
đó trong việc điều hành đất nước. Việc đánh giá một nhà nước có thật sự do dân, vì
dân hay không, chỉ có thể đoán chắc trong việc nhận định và đánh giá mục đích và
hiệu quả của việc sử dụng tiền thuế mà người dân đóng góp.
1.3. Phí và Lệ phí
Theo nhiều quan điểm khác nhau và trong từng quốc gia khác nhau, khái niệm
phí và lệ phí tồn tại với những nội hàm khác nhau. Trong bối cảnh thực tế của Việt
Nam, phí và lệ phí vẫn còn là một nguồn thu bên cạnh thuế, góp phần không nhỏ

vào việc đảm bảo hỗ trợ chi tiêu cho ngân sách nhà nước trong giai đoạn chuyển
đổi. Tuy nhiên, khi nền kinh tế thị trường thực sự phát triển và đặc biệt khi đất nước
hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quan điểm về phí và lệ phí sẽ có
nhiều thay đổi. Để có sự phân định, phần phí và lệ phí này chỉ được hiểu trong
khuôn khổ pháp luật Việt Nam.
1.3.1. Khái niệm Phí
Phí là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá
nhân khác cung cấp dịch vụ được nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
Theo Pháp lệnh Phí và Lệ phí được ban hành năm 2002, Phí bao gồm hai loại:
Phí thuộc ngân sách nhà nước và phí không thuộc ngân sách nhà nước
Phí thuộc ngân sách nhà nước là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả
khi được một tổ chức nhà nước cung cấp dịch vụ không mang tính kinh doanh được
Nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
Phí không thuộc ngân sách nhà nước là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân
phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ mang tính kinh doanh
được Nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
5
1.3.2. Khái niệm Lệ phí
Lệ phí là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được cơ quan nhà
nước hoặc một tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước theo
danh mục cho phép quy định.
1.3.3. Đặc thù Phí và Lệ phí Việt Nam
Phí không thuộc ngân sách nhà nước là loại phí phổ biến ở tất cả các quốc gia
trên thế giới. Thực chất chúng là giá của dịch vụ. Tuy nhiên, với nhiều quốc gia,
như Việt Nam, khi nguồn thu thuế còn hạn hẹp, chưa đáp ứng đủ cho việc hoàn trả
gián tiếp cho người nộp thuế thông qua tất cả các loại dịch vụ công cần thiết, Nhà
nước phải tính đến việc thu ở người trực tiếp sử dụng dịch vụ công một khoản bổ
sung để duy trì dịch vụ. Khoản bổ sung này không phải là giá của dịch vụ theo cơ
chế thị trường, mà chỉ là một phần của nó, phần còn lại thông qua con đường hoàn
trả gián tiếp tiền thuế từ ngân sách nhà nước. Mặt khác, để nâng cao ý thức của

người dân trong việc sử dụng hiệu quả các dịch vụ công, nhiều nhà nước cũng triển
khai thu phí thuộc ngân sách nhà nước với mức thu không đáng kể. Khi ngân sách
nhà nước đã được bảo đảm đầy đủ thông qua nguồn huy động từ thuế, số lượng và
mức thu các loại phí sẽ giảm dần, tiến đến chỉ còn một số loại phí và lệ phí thu trên
các quan hệ có yếu tố nước ngoài, như là một sự bảo đảm cho thương hiệu dịch vụ
công nội địa.
II. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẾ
2.1. Khái niệm về thuế
Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới vẫn
chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế, bởi lẽ giác dộ nghiên cứu có nhiều
khác biệt. Nhìn chung, các nhà kinh tế khi đưa ra khái niệm về thuế mới chỉ nhìn
nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế mà mình muốn khai thác hoặc tìm hiểu,
chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế. Chẳng hạn theo các nhà
kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: " Để duy trì quyền lực công cộng,
cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước đó là thuế
khoá "
4
. Và với quan điểm này, thuế chỉ là sự đóng góp của công dân để duy trì
quyền lực nhà nước. Cũng từ luận điểm này, Mác phát triển thêm rằng trong một
nhà nước có giai cấp (một giai cấp giành được quyền thống trị) thì thuế thực ra là
khoản đóng góp bắt buộc để duy trì quyền lực của giai cấp đó. Khi những giai cấp
không phải là giai cấp cai trị, nghĩ rằng việc bắt buộc nộp thuế chỉ dùng để bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp cai trị, thì họ sẽ không coi thuế là nghĩa vụ công dân và sẽ
bằng nhiều cách để tránh thuế và trốn thuế. Quan điểm này đã hỗ trợ rất nhiều cho
các nhà kinh tế có quan điểm xã hội trong việc củng cố lập trường đấu tranh giai
cấp.
Bên cạnh đó, cũng có các quan điểm khác nhau về thuế, được nhìn nhận trên
các bình diện khác. Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher
4
M¸c - ¡ng Ghen. TT.T2- NXB Sù thËt - Hµ Néi- 1962. Tr.522

6
Pass và Bryan Lowes, đứng trên giác độ đối tượng chịu thuế đã cho rằng : "Thuế là
một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các
cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ
(thuế gián thu) và trên tài sản".
Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong cuốn
sách "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ, dựa trên cơ sở đối giá như sau: "thuế là
một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hoá, dịch
vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ
không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là
tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật"
5
. Trong các quan điểm
này, người ta chỉ nhìn nhận thuế trên giác độ các đối tượng nộp thuế và đối tượng
chịu thuế, không nói đến việc sử dụng tiền thuế để làm gì, chỉ thể hiện việc đánh
thuế như là một nghĩa vụ công dân của các doanh nghiệp và hộ gia đình với đất
nước mà mình đang kinh doanh hoặc đang sinh sống. Các quan điểm này cũng chỉ
phù hợp với giai đoạn phát triển của thuế trong thời đoạn lịch sử nhất định lúc đó.
Trên giác độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức phân
phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành
các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên giác độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà
mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước.
Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử
dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực
công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước.
Ở nước ta, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế. Theo từ
điển tiếng Việt - Trung tâm từ điển học (1998) thì thuế là khoản tiền hay hiện vật mà

người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp v.v
buộc phải nộp cho nhà nước theo mức quy định.
Những khái niệm về thuế nêu trên mới nhấn mạnh một chiều theo quan niệm
của từng góc độ khác nhau, nên chưa thật đầy đủ và chính xác được bản chất của
thuế. Đến nay, tuy chưa có một định nghĩa về thuế thống nhất, nhưng các nhà kinh
tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ được bản chất của thuế thì định nghĩa về thuế phải
nêu bật được các khía cạnh sau đây:
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa nhà
nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp;
5
Economic. Makkollhell and Bruy-M.1993 tr.14- TiÕng Nga
7
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan
và có ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo
mệnh lệnh của nhà nước;
- Các các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã
được pháp luật quy định.
- Và việc sử dụng tiền thuế phải dành cho mục đích chung.
Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển xã hội, việc quy định thuế phải được sử
dụng chung cũng là một vấn đề cần xem xét. Có những loại thuế được thu chỉ nhằm
một mục đích định trước và trao cho một số đối tượng quy định.
Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác nhau,
nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn đang được
áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường, điển hình là khái niệm về
thuế của Gaston Jèze đưa ra trong Giáo trình Tài chính công. Dựa vào định nghĩa
này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về thuế phù hợp
với giai đoạn hiện nay như sau:
Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa
vụ bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với nhà nước; không mang tính chất đối
khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để trang trải cho

các nhu cầu chi tiêu công cộng.
2.2. Đặc điểm của thuế
Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế
nêu trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được
sử dụng để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công
cộng. Tuy nhiên, thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, tiền phạt,
giá cả.v.v. Điều này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản của thuế trong kinh tế thị
trường như sau:
- Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền
Theo phương thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc, thuế
là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp thuế bằng
hiện vật đã tồn tại từ thời xa xưa hoặc khác với chế độ giao nộp sản phẩm trong nền
kinh tế phi thị trường. Nhiều quan điểm cho rằng, đây chính là sự khác biệt cơ bản
và đầu tiên của thuế trong nền kinh tế thị trường và thuế trong các nền kinh tế khác.
Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi hàng hoá bằng tiền đã làm cho thuế phát
triển, và ngược lại, việc bắt buộc nộp các khoản thuế bằng tiền đã góp phần thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường bằng cách đòi hỏi người nộp thuế trong
trường hợp không có tiền phải đổi những tài sản hiện vật của mình ra thành tiền để
thanh toán nợ thuế.
8
Tuy nhiên, hình thức trả thuế bằng hiện vật cũng không hoàn toàn mất đi trong
hệ thống chính sách thuế đương đại. Một số quốc gia vẫn duy trì hình thức này dưới
dạng thanh toán thuế bằng tặng vật với một số hiện vật qúy, như khi đào được cổ
vật phải nộp thuế cho nhà nước với một tỷ lệ hiện vật tùy theo quy định cụ thể. Kỹ
thuật này giúp Nhà nước sưu tập được những di sản quốc gia quý giá từ dân chúng
để bảo tồn tập trung những giá trị văn hoá của dân tộc, nhân loại.
- Luôn gắn liền với quyền lực nhà nước
Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ cơ bản
của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp - Đạo luật gốc của một quốc gia.
Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế nào cũng chỉ có

một cơ quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc Hội - Cơ quan quyền lực Nhà
nước tối cao. Mặt khác tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước
không thể thực hiện thu thuế một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên những cơ sở pháp
luật nhất định đã được xác định trong các văn bản pháp luật do các cơ quan quyền
lực Nhà nước ban hành. Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc
hình thành qũy ngân sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống
kinh tế - xã hội nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc
cơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các
nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: cấm mọi
sự thu thuế để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được Quốc hội chấp
thuận. ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế nào nếu không được
Quốc hội chấp thuận thì không được áp dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp
năm 1791 quy định Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có nhiệm
vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do yêu cầu
điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông qua hình thức ban
hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế. Đây là quan điểm “No Tax, No Law” mà
nhiều nước áp dụng. Nghĩa là, công dân không phải nộp bất kỳ loại thuế nào nếu
loại thuế đó chưa được ban hành dưới dạng Luật.
Theo quan điểm này, công dân không có quyền từ chối trả thuế, cũng không có
quyền tự ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của mình, mà chỉ có quyền chấp
hành. Trường hợp đối tượng nộp thuế nào cố tình không chấp hành sẽ bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật để buộc họ phải
làm tròn nghĩa vụ nộp thuế của mình theo luật định.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các hình thức
động viên tài chính cho Ngân sách Nhà nước khác.
- Luôn gắn liền với thu nhập
Đặc điểm này thể hiện rõ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện thu
thuế thông qua quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân,

9
mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao
bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một sự cấp phát hoặc những
quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Thuế, cho dù dưới bất kỳ hình thức nào đều
buộc người trả thuế phải lấy một khoản thu nhập của mình ra thanh toán cho Nhà
nước mà không cần biết mình đã chuẩn bị được khoản thu nhập đó hay chưa.
Với đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính tự
nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc, nhưng chỉ áp dụng đối với
những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
- Không hoàn trả trực tiếp và được sử dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng.
Tính chất không hoàn trả trực tiếp được thể hiện trên các khía cạnh:
Thứ nhất, Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối
giá. Về mặt pháp lý, thuế không là giá cả của dịch vụ cung cấp. Vì vậy, người nộp
thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế bằng cách viện cớ là Nhà nước
sử dụng tiền thuế không có hiệu quả. Họ cũng không thể đòi hỏi số tiền thuế do họ
nộp phải phân bổ cho dịch vụ công này hay hoạt động khác. Mặt khác, họ cũng
không thể từ chối nộp thuế với lý do số thuế thu được tài trợ cho các khoản chi tiêu
trái với những nguyên tắc của nó.
Thứ hai, Các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được dùng phục vụ
trực tiếp cho người nộp thuế. nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển
giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng
những dịch vụ và hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế
không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp
cho mình mới nộp thuế cho Nhà nước. Người nộp thuế sẽ nhận được một phần các
hàng hoá, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng, phần giá
trị mà người nộp thuế được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản thuế
mà họ đã nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này của thuế giúp ta phân định rõ thuế với
các khoản phí, lệ phí và giá cả.
Khái niệm chi tiêu công cộng ngày nay không chỉ được hiểu theo nghĩa bó hẹp
trong các khoản chi tiêu cho việc duy trì bộ máy nhà nước. Trên thực tế, nhà nước

hiện nay còn thực hiện nhiều chức năng kinh tế, xã hội, văn hoá và tất yếu các hoạt
động này cũng chỉ được chi trả bằng thuế.
2.3. Phân biệt thuế với Phí, Lệ phí.
Thuế và Phí, Lệ phí đều là nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, từ
các khái niệm của thuế, phí và lệ phí, người ta đưa ra một số dấu hiệu đặc trưng để
phân biệt giữa Thuế với Phí và Lệ phí như sau:
• Xét về mặt giá trị pháp lý.
10
Thuế có giá trị pháp lý cao hơn lệ phí, phí. Thuế được ban hành dưới dạng văn
bản pháp luật như: Luật, Pháp lệnh do Quốc hội và ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua. Trình tự ban hành một Luật thuế phải tuân theo một trình tự chặt chẽ và
nhất thiết phải được Quốc hội thông qua. Trong khi đó lệ phí, phí sau khi được Ủy
ban Thường vụ cho phép sẽ được ban hành đưới dạng Nghị định, Quyết định của
chính phủ; Quyết định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
Nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
• Xét về mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế - xã hội thì thuế và Phí, lệ phí
được xem xét ở 3 giác độ sau:
- Cùng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, nhưng thuế là nguồn thu quan
trọng nhất cho ngân sách nhà nước.
- Ðiều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng phát
triển kinh tế. Thuế có tác động lớn đến toàn bộ qúa trình phát triển kinh tế - xã hội
của một quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận rất quan trọng cấu thành chính
sách tài chính quốc gia. Trong khi đó lệ phí, phí không có những tác dụng nói trên,
nó chỉ có tác dụng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn
này không phải dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu mọi mặt của Nhà nước, mà trước hết
dùng để bù đắp các chi phí hoạt động của các cơ quan cung cấp cho xã hội một số
dịch vụ công cộng như: dịch vụ công chứng, dịch vụ đăng ký quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng tài sản, dịch vụ hải quan
- Ngoài dấu hiệu là thuế được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà
nước, thuế còn được phân biệt với lệ phí, phí ở chổ các cá nhân và pháp nhân có

nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước nhưng không trên cơ sở được hưởng những lợi ích
vật chất tương ứng mang tính chất đối giá. Thực chất thuế mang tính đóng góp
nhiều hơn. Trong khi đó hình thức lệ phí, phí nói chung mang tính tự nguyện và có
tính chất đối giá. Các khoản phí, ngược lại với thuế, nó có nét giống như giá cả.
Như vậy, phí là đối khoản cụ thể của việc sử dụng các dịch vụ do tổ chức công
cộng cung cấp để trang trải trực tiếp cho các chi phí trong việc cung cấp này. Một
số nước quy định các khoản phí này sau khi thu được sẽ phân bổ cho các tổ chức
cung cấp dịch vụ. Trong khi đó lệ phí là khoản tiền nhận được tại thời điểm cung
cấp dịch vụ, nên có tính chất của một khoản thù lao. Lệ phí về cơ bản giống với phí
vì chúng đều gắn với dịch vụ cung cấp. Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau ở
hai điểm: Thứ nhất, lệ phí không chỉ thu của người sử dụng dịch vụ thực tế, mà còn
của cả người sử dụng dịch vụ tiềm năng; thứ hai, giữa giá trị dịch vụ nhận được và
giá phải trả không nhất thiết bằng nhau. Tính bắt buộc của lệ phí và phí chỉ xảy ra
khi chủ thể nộp lệ phí, phí thừa hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung
cấp.
- Bên cạnh đó, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp
thuế. Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế thể hiện ở chỗ Nhà nước thu thuế
từ các cá nhân và pháp nhân trong xã hội nhưng không bị ràng buộc bởi trách
nhiệm phải hoàn trả lại cho từng người nộp cụ thể. Người nộp thuế suy cho cùng sẽ
11
nhận được các lợi ích vật chất từ việc sử dụng các dịch vụ công cộng do Nhà nước
sử dụng các khoản chi của ngân sách Nhà nước để thực hiện các chính sách kinh tế
xã hội chung cho cả cộng đồng. Tuy nhiên, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết
tương đồng với khoản tiền thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Tính chất này của
thuế cho phép chúng ta phân biệt thuế với lệ phí, phí và các khoản thu mà Nhà
nước tập trung vào ngân sách Nhà nước nhưng ràng buộc trách nhiệm hoàn trả cho
đối tượng nộp dưới các hình thức như vay nợ, tạm ứng cho ngân sách Nhà nước.
• Xét về tên gọi và mục đích.
Mục đích của từng loại phí rất rõ ràng, thường phù hợp với tên gọi của nó. Nói
một cách chính xác hơn, tên gọi của loại lệ phí nào phản ánh khá đầy đủ mục đích

sử dụng loại lệ phí đó.
Mỗi một Luật thuế đều có mục đích riêng. Tuy nhiên, đa số các sắc thuế có tên
gọi không phản ánh đúng mục đích sử dụng, mà thường phản ánh đối tượng tính
thuế. Nói chung mục đích của việc sử dụng của các loại thuế thường là tạo nguồn
qũy ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi ngân sách Nhà nước, thực hiện
chức năng quản lý xã hội của Nhà nước.
III. CHỨC NĂNG, VAI TRÒ CỦA THUẾ
3.1. Chức năng của thuế.
Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiện công dụng vốn có
của nó. Ðối với một phạm trù kinh tế - xã hội thì chức năng phản ánh sự tác động
của nó - là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc tính vốn có của phạm
trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn định tương đối của nó trong suốt
thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có
của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên, thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận
động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế,
chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:
3.1.1. Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính hay chức năng
phân phối thu nhập.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ
của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm
vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật
thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được
nhu cầu chi ngày càng tăng phụ thuộc vào các công việc Nhà nước đảm nhiệm.
Để huy động nguồn lực vật chất cho mình, Nhà nước có thể sử dụng nhiều hình
thức khác nhau như: phát hành thêm tiền; phát hành trái phiếu để vay trong nước và
12
ngoài nước; bán một phần tài sản quốc gia; thu thuế Trong các hình thức nêu trên
thì thuế là công cụ chủ yếu và có vai trò quan trọng nhất. Vì so với các hình thức

huy động khác, sử dụng công cụ thuế có những ưu điểm:
- Thuế là một công cụ phân phối lại có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối tượng
nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và các hoạt động
khác có làm phát sinh hành vi điều tiết thuế.
- Phương thức huy động của thuế là sử dụng phương pháp chuyển giao thu
nhập bắt buộc. Chính vì vậy, nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung một cách
nhanh chóng, thường xuyên và ổn định.
- Thông qua thu thuế, một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân trong nước tạo ra, đã tập trung vào Nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công
cộng và thực hiện các biện pháp kinh tế - xã hội.
- Tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ khác còn thể
hiện ở chỗ: thuế kết hợp hài hoà giữa phương pháp cưỡng bức và kích thích vật chất
nhằm tạo ra sự quan tâm của các đối tượng nộp thuế tới chất lượng sản xuất và hiệu
quả kinh doanh.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các
pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng,
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ
pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các
quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà
nước.
Ngay từ khi ra đời thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện huy động nguồn
lực tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy động tập
trung nguồn lực tài chính của thuế. Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho
thuế ở tất cả các dạng Nhà nước, trong tiến trình phát triển của xã hội. Về mặt lịch
sử, chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên, phản
ánh nguyên nhân sự ra đời của thuế.
Thông qua chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế mà các

quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành, để đảm bảo cơ sở vật chất cho
sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề
để Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân. Do đó chức năng này còn được gọi là chức năng phân phối của
thuế.
13
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường
chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế
ngày càng được nâng cao. Thông qua thuế, một phần đáng kể tổng sản phẩm quốc
nội được tập trung vào Ngân sách Nhà nước. Thuế trở thành nguồn thu có tỷ trọng
lớn nhất trong tổng thu Ngân sách Nhà nước của tất cả các nước có nền kinh tế thị
trường. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ
thống thuế, số thu từ thuế và phí thường chiếm tới trên 90% tổng số thu Ngân sách
Nhà nước.
Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách
quan cho sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện chức
năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế đã tự động làm xuất hiện chức
năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế.
3.1.2. Chức năng điều tiết
* Điều tiết kinh tế
Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng những
khuyết tật vốn có của nó. Chính đó là lý do biện minh cho sự can thiệp của Nhà
nước vào quá trình hoạt động của nền kinh tế thị trường. Nhà nước thực hiện điều
tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô bằng cách đưa ra những chuẩn mực mang tính định
hướng lớn trên diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy để hướng các hoạt động kinh
tế - xã hội theo các mục tiêu Nhà nước đã định và tạo hành lang pháp lý cho các
hoạt động kinh tế - xã hội thực hiện trong khuôn khổ luật pháp.
Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế tự động xuất hiện trong quá
trình thực hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế, nhưng
phải đến những năm đầu của thế kỷ XX thì chức năng này mới được nhận thức đầy

đủ và sử dụng rộng rãi và gắn liền với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà
nước.
Nhà nước thực hiện quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội bằng nhiều
biện pháp như giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp và kinh tế, trong đó
biện pháp kinh tế làm gốc. Nhà nước cũng sử dụng nhiều công cụ để quản lý điều
tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng. Trong đó, thuế là
một công cụ thuộc lĩnh vực tài chính và là một trong những công cụ sắc bén nhất
được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối
tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả
năng của người nộp thuế. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang
tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay không kinh doanh,
mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể trong việc xác định phạm vi hoạt
động kinh doanh của mình.
14
Dựa trên cơ sở xác định mục tiêu và đối tượng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng
của nền kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể, Nhà nước điều chỉnh thuế để tạo ra
những thay đổi trong nền kinh tế quốc dân theo hướng mong muốn bao gồm: điều
chỉnh chu kỳ kinh tế; cơ cấu ngành, khu vực và từng vùng lãnh thổ; lưu thông tiền
tệ; giá cả; tiền lương; phân phối thu nhập; các mối quan hệ kinh tế đối ngoại; bảo vệ
môi trường Như vậy, nội dung điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân
rất rộng, nó bao hàm hầu hết các quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Dưới đây là
một số nội dung điều tiết cơ bản của thuế đối với nền kinh tế quốc dân:
- Điều chỉnh chu kỳ nền kinh tế
Đây là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sử dụng công cụ
thuế điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường thì sự phát triển theo
chu kỳ là điều không thể tránh khỏi. Theo chu kỳ, thị trường sẽ phát triển, đến một
thời điểm cung vượt cầu, mọi hoạt động của nền kinh tế sẽ bị đình trệ và bước vào
suy thoái. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, Nhà nước đã sử dụng thuế để

điều chỉnh quá trình đó. Trong những năm khủng hoảng và suy thoái kinh tế, Nhà
nước có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều kiện ưu đãi về thuế thuận lợi nhằm
kích thích nhu cầu tiêu dùng để tăng đầu tư và mở rộng sức sản xuất. Điều đó có thể
đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng nhanh chóng. Ngược lại, trong thời kỳ phát
triển quá mức, có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế, thu hẹp đầu tư,
Nhà nước có thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đặt ra. Để có thể điều
tiết chu kỳ kinh tế hiệu quả, thông thường các Nhà nước dựa vào việc áp dụng các
loại thuế có mức độ ổn định tự động cao, điển hình là thuế đánh trên thu nhập theo
biểu thuế lũy tiến. Tuy nhiên, cũng có Nhà nước dùng biện pháp điều chỉnh chính
sách cho từng thời kỳ bằng cách hạ hay tăng thuế suất đánh vào những hoạt động
chủ yếu để tác động đến toàn bộ nền kinh tế.
- Thuế góp phần hình thành cơ cấu ngành hợp lý
Trong từng giai đoạn phát triển nền kinh tế nhất định, mỗi quốc gia có một cơ
cấu kinh tế hợp lý nhất định, nhằm khai thác tốt nhất nguồn tài nguyên của mình
trên cơ sở lợi thế so sánh tuyệt đối. Trong điều kiện kinh tế hội nhập quốc tế, việc bố
trí cơ cấu ngành cũng còn phụ thuộc vào việc lợi thế so sánh tương đối của kinh tế
trong nước và với các quốc gia khác có quan hệ thương mại. Việc điều chỉnh cơ cấu
kinh tế hợp lý không chỉ được phó mặc toàn bộ cho các quy luật thị trường diễn biến
tự do, theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân, mà còn đòi hỏi phải được điều
chỉnh bởi Nhà nước, để phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội từng thời
kỳ. Bằng việc ban hành hệ thống chính sách thuế, Nhà nước sẽ quy định đánh thuế
hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thấp vào các ngành nghề,
các mặt hàng cụ thể. Thông qua đó Nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển của
những ngành kinh tế quan trọng hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa chúng, đảm
bảo sự cân đối giữa các ngành nghề trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc điều chỉnh cơ
cấu phải được xem xét rất thận trọng. Bởi lẽ, thuế sẽ làm méo mó các quan hệ kinh
tế khi áp dụng. Việc xác định điều chỉnh không đúng, sẽ tạo cơ hội tăng trưởng của
15
các ngành kinh tế kém hiệu quả và kém cạnh tranh, làm cho hợp lực của toàn bộ nền
kinh tế bị triệt tiêu ít nhiều.

- Điều chỉnh tích luỹ vốn
Đây là một nội dung quan trọng của điều chỉnh thuế. Tham gia hoạt động sản
xuất, kinh doanh trong thị trường, tất cả các nhà đầu tư đều mong muốn chiếm hữu
và bổ sung vốn từ lợi nhuận để mở rộng hoạt động kinh doanh. Đây luôn là mục
đích cơ bản của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Để góp phần hạn
chế tăng trưởng nóng của các nền kinh tế, làm giảm hiệu quả sử dụng tài nguyên;
hoặc để thúc đẩy nền kinh tế đang trì trệ, Nhà nước cần sử dụng thuế để điều chỉnh
sự tích luỹ, tạo sự thay đổi trong chu kỳ kế tiếp. Trong nền kinh tế thị trường, việc
đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước không được xem là hoạt động chi tiêu Chính
Phủ
6
. Do đó, tăng thuế đồng nghĩa với việc tăng chi tiêu Chính Phủ và giảm cơ hội
tích lũy vốn của các doanh nghiệp (kể cả của doanh nghiệp nhà nước). Sự phát triển
nền kinh tế luôn đòi hỏi phải tăng nhanh vốn đầu tư cơ bản, để phát triển nền kinh tế
quốc dân, Nhà nước cần phải khuyến khích tích luỹ và tích tụ trong các doanh
nghiệp, để tạo ra nguồn vốn đầu tư. Việc thay đổi các chính sách thuế của Nhà nước
có thể ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ tích luỹ vốn và, do đó tác động đến quá trình
đầu tư phát triển kinh tế.
- Bảo hộ nền sản xuất trong nước
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tất
yếu dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trên thị trường nội
địa. Đặc biệt, khi một đất nước đã tham gia hội nhập kinh tế tài chính quốc tế, các
doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Trong quá trình cạnh
tranh này, sẽ có doanh nghiệp phát triển, nhưng cũng có những doanh nghiệp lụn
bại. Việc phát triển hay phá sản của các doanh nghiệp hoàn toàn do hiệu quả hay
hậu quả của các hoạt động kinh doanh bản thân doanh nghiệp mang lại. Những
ngành sản xuất kém hiệu quả sẽ dần được thay thế bởi những ngành sản xuất hoạt
động có hiệu quả hơn. Những nhà đầu tư kém cỏi dù trong nước hay nước ngoài sẽ
nhường chỗ cho những nhà đầu tư có khả năng quản lý và tiềm lực tài chính hơn.
Những vùng kinh tế phát triển sẽ thay thế dần những vùng kinh tế chậm phát triển

để hợp lực thành sức mạnh của cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh và
thu hút đầu tư đó, một yếu tố thúc đẩy không kém phần quan trọng là can thiệp của
Nhà nước. Nhà nước có định hướng phát triển nhất định cho các vùng kinh tế, để
tránh sự mất cân đối theo ngành, vùng, tạo nên sự phát triển bền vững và ổn định.
Nhà nước về mặt nào đó cũng phải có trách nhiệm hơn với các nhà đầu tư là các
công dân của mình, để giúp họ có thể kinh doanh có hiệu quả ngay trên đất nước
của họ. Vì vậy, xu thế bảo hộ cho các nhà đầu tư trong nước, cũng như khuynh
hướng bảo hộ những ngành nghề sản xuất truyền thống của dân tộc là một yêu cầu
tất yếu buộc mọi nhà nước đều phải quan tâm.
6
Cam kÕt gia nhËp WTO cña ViÖt Nam
16
Khi chưa tham gia hội nhập kinh tế, để thực hiện được chính sách bảo hộ này,
các nhà nước có thể áp dụng nhiều giải pháp và chính sách khác nhau. Có thể sử
dụng các biện pháp cấm đoán, áp dụng hạn ngạch, giảm thuế, miễn thuế Ðối với
những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy
định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc
phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích
xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích
hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc
hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với
các loại hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, khi đã tham gia hội nhập, nhiều giải
pháp phi thuế lẫn thuế đều bị cấm áp dụng, nếu không muốn bị áp dụng các biện
pháp đối kháng hoặc trả đủa. Trong bối cảnh hội nhập, chỉ việc sử dụng công cụ
thuế một cách hợp lý, mới có thể bảo hộ được các doanh nghiệp nội địa phù hợp
với yêu cầu chung.
* Điều tiết tiêu dùng
Nhà nước trong vai trò hướng dẫn xã hội đến những giá trị tốt đẹp, phải định
hướng các khuynh hướng tiêu dùng. Nhà nước hướng dẫn tiêu dùng có thể bằng

nhiều biện pháp kể cả hành chính, xã hội và kinh tế. Tuy nhiên, giải pháp hữu hiệu
nhất có thể áp dụng trong một đất nước cởi mở, dân chủ theo nền kinh tế thị trường
là áp dụng chính sách thuế. Việc áp dụng các mức thuế gián thu phân tầng như thuế
nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ làm giảm cầu với những
hàng hoá, dịch vụ mà nhà nước cho là cần hạn chế hoặc nên ưu đãi. Thông qua điều
chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà gây nên áp lực tăng giá
hàng nhập khẩu, giảm khả năng cạnh tranh so với hàng sản xuất trong nước, từ đó
điều chỉnh khối lượng hàng hoá đưa ra thị trường và đưa vào để thực hiện bảo hộ
nền sản xuất trong nước và bảo vệ lợi ích của thị trường nội địa. Mặt khác, tác động
đánh thuế nhập khẩu cũng gây nên phản ứng của người tiêu dùng trong nước tạo
nên sự lựa chọn của họ trong tiêu dùng. Ngoài ra người ta còn sử dụng công cụ thuế
để kích thích việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hay ít nhất là giảm đến mức
thấp nhất tính kém hiệu quả của sản xuất trong nước. Chẳng hạn, trong trường hợp
cần hạn chế xuất khẩu những hàng hoá mà giá cả của chúng bị ấn định bởi giá cả
bất lợi của thị trường thế giới, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, trường hợp
này có thể sử dụng thuế xuất khẩu để kích thích chuyển các nguồn lực từ sản xuất
hàng xuất khẩu sang sản xuất hàng hoá tiêu dùng nội địa. Việc phân tầng các mức
thuế gián thu này, phù hợp với các nguyên tắc thị trường, dù cho mức độ hội nhập
của quốc gia đó cao hay thấp. Điều cần chú ý là tránh phân biệt đối xử với hàng
hoá, dịch vụ trong và ngoài nước kể cả trên việc áp dụng thuế suất nhập khẩu hay
thuế nội địa, vì việc này vi phạm các cam kết quốc tế khi đã tham gia hội nhập.
* Điều tiết xã hội
Hệ thống chính sách thuế trong nền kinh tế thị trường hội nhập được áp dụng
thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư,
17
trong và ngoài nước nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi
và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.
Sự phân hoá giàu nghèo trong một nền kinh tế hội nhập sẽ có nguy cơ diễn ra
cao hơn. Điều này do một bộ phận người lao động có điều kiện thích nghi với các
ngành nghề chiếm ưu thế trong giai đoạn hội nhập. Nhưng ngược lại cũng có một

bộ phận người lao động bị thải ra ngoài vì không đáp ứng kịp các yêu cầu của hội
nhập. Sự phân hoá này về lâu dài vẫn duy trì và mở rộng, cho dù thu nhập tuyệt đối
của toàn xã hội được nâng cao. Đây chính là động lực để người lao động năng nổ,
cải thiện kỹ năng và nâng cao trình độ tay nghề. Nhưng đây cũng chính là nguyên
nhân tạo ra những hố ngăn cách xã hội. Thực hiện chính sách công bằng theo quan
điểm cào bằng sẽ làm triệt tiêu động lực làm việc của người lao động, ngược lại sẽ
làm cho mâu thuẩn xã hội ngày càng tăng cao, ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của đất nước. Trong bối cảnh đó, thuế, đặc biệt là các loại thuế thu nhập giữ
vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng và làm giảm khoảng cách phân
hoá giàu nghèo.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp
luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế
suất Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của
pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế
thị trường.
Khi nền kinh tế có mức thất nghiệp cao thì cùng với việc mở rộng các khoản
chi tiêu của Chính phủ, thuế cần phải được cắt giảm để tăng tổng cầu và việc làm.
Trong thời kỳ nền kinh tế lạm phát thì cùng với việc cắt giảm các khoản chi tiêu của
Chính phủ, thuế lại được gia tăng để giảm tổng cầu và hạn chế sự gia tăng của nền
kinh tế. Nghĩa là, trên phương diện nào đó, thuế cũng được dùng để mở rộng hoặc
thu hẹp các cơ hội việc làm.
* Những phương pháp Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế:
Tác động điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế chỉ đem lại hiệu quả thiết thực
khi công cụ thuế được Nhà nước áp dụng theo các phương pháp điều chỉnh thích
hợp. Việc can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào chính sách thuế bằng cách phân biệt
đối xử về thuế với các đối tượng muốn điều tiết là phương thức phổ biến với các
nước chưa đạt mức độ thị trường hoá cao, đặc biệt là chưa hội nhập kinh tế. Với
những quốc gia có nền kinh tế thị trường hội nhập kinh tế thế giới, việc điều tiết
thông qua công cụ thuế cần thực sự hợp lý và được ban hành hợp pháp trong các văn

bản quy phạm pháp luật. Trong thực tiễn thế giới có rất nhiều phương thức Nhà
nước sử dụng công cụ thuế để tác động đến nền kinh tế. Dưới đây là một số phương
pháp điều chỉnh chủ yếu của thuế :
- Xác định mối quan hệ hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu.
18
Tất cả các loại thuế đều có thể được phân chia thành thuế trực thu và thuế gián
thu. Sự cần thiết áp dụng các loại thuế gián thu và trực thu trong quá trình sử dụng
công cụ thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế được quyết định bởi tính đặc thù của mỗi
loại thuế cụ thể.
Thuế trực thu hay thuế gián thu đều có những nét đặc trưng riêng, có ưu điểm
và nhược điểm riêng của mỗi loại thuế. Vì vậy, tuỳ theo đặc điểm trình độ phát triển
kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kỳ mà người ta có thể lựa chọn coi trọng
loại thuế gián thu hơn thuế trực thu và ngược lại.
Thông thường thuế gián thu được đánh trên hàng hoá, dịch vụ, có diện đánh
thuế rộng và ít bị hạn chế, nên có thể áp dụng thuế suất thấp, nhưng mang lại số thu
lớn cho Ngân sách Nhà nước. Áp dụng thuế gián thu thì khả năng thất thu thuế ít và
ít gây tác động tiêu cực hơn thuế trực thu. Bằng việc đánh thuế gián thu, Nhà nước
có thể tác động tới nhu cầu tiêu dùng xã hội, qua đó tác động tới sản xuất, kinh
doanh. Do đó, vai trò của thuế gián thu không chỉ điều tiết khả năng tiêu dùng mà
còn hiệu chỉnh quy mô và tốc độ hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, thuế
trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập thu được của pháp nhân hoặc thể nhân, nó làm
giảm ngay khả năng sử dụng thu nhập kiếm được của thể nhân và pháp nhân đó, gây
cảm giác mất mát ngay cho người nộp thuế. Mặt khác, thuế trực thu buộc phải tính
đến việc khấu trừ các chi phí mà thể nhân hoặc pháp nhân bỏ ra để tìm kiếm thu
nhập, vì vậy việc khấu trừ rất phức tạp, dễ bị khai gian, trốn thuế khó kiểm soát.
Việc điều chỉnh mức độ động viên thuế gián thu dễ dàng mà ít bị dân chúng
phản ứng do đã được thông qua hành vi tiêu dùng. Hơn nữa thủ tục thu nộp cũng dễ
dàng, dễ quản lý và chi phí quản lý thấp hơn so với thuế trực thu. Trong khi đó, do
phải tính đến các yếu tố khấu trừ cụ thể của từng hoạt động và gia cảnh của từng
người nên thuế trực thu được quy định rất phức tạp. Việc quản lý thuế trực thu rất

khó khăn, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và có trình độ chuyên môn,
quản lý kinh tế cao, kèm theo việc áp dụng các phương tiện quản lý có kỹ thuật hiện
đại với một hệ thống pháp luật đầy đủ, có hiệu lực và quan hệ giao tiếp công vụ tốt.
Mặt khác số thu về thuế gián thu có tính chất ổn định hơn thuế trực thu vì thuế
gián thu đánh vào tiêu dùng, nên ngay cả khi kinh tế đi xuống người ta vẫn phải mua
sắm và chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu, do vậy Nhà nước vẫn thu được thuế mà
không giảm sút đáng kể. Còn thuế trực thu thông thường được xây dựng trên nguyên
lý ổn định tự động cao và đánh vào thu nhập theo hình thức lũy tiến, nên thường bị
biến động. Nếu tình hình kinh tế phát triển tốt, thu nhập sẽ khá hơn và từ đó thuế
trực thu sẽ tăng. Ngược lại, thì sự suy giảm kinh tế có thể làm giảm đi số lượng thu
nhập từ thuế trực thu một cách rõ rệt. Tuy đây là nhược điểm về số thu, nhưng lại là
ưu điểm để vực dậy nền kinh tế sau khủng hoảng, nhờ tạo điều kiện tăng tích lũy để
bổ sung vốn nhằm tái đầu tư cho nền kinh tế.
Các hình thức thuế trực thu có vai trò khác nhau trong phân phối thu nhập và
điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Thuế thu nhập cá nhân giữ vị trí quan trọng để điều tiết thu
nhập của dân cư. Mặc dù có thể tác động đến hành vi tiết kiệm của người dân,
19
nhưng khả năng kích thích hiệu quả đầu tư của thuế thu nhập cá nhân lại rất thấp.
Trong trường hợp đó, để bổ khuyết, người ta sử dụng thuế thu nhập công ty tác động
tới sự tích luỹ vốn và mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh.
Chính vì vậy, Nhà nước không thể chỉ áp dụng một loại thuế nào đó để đạt
được các mục tiêu điều tiết vĩ mô nền kinh tế, mà bắt buộc phải sử dụng nhiều loại
thuế khác nhau, cũng như kết hợp chặt chẽ giữa thuế trực thu và thuế gián thu. Xử lý
tốt mối quan hệ giữa thuế trực thu và thuế gián thu để hệ thống chính sách thuế của
Nhà nước thực hiện tốt chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mỗi một tương quan
theo tỷ lệ giữa chúng sẽ đáp ứng những mục tiêu, yêu cầu nhất định của Nhà nước
trong hoạt động quản lý của mình. Việc xác định một mối quan hệ cụ thể nào đó
thông thường phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức thu nhập của dân cư và
quy mô tích luỹ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ý nghĩa của những loại thuế cơ bản
trong sự kết hợp của từng nước cũng có sự khác nhau. Trong điều kiện năng suất,

chất lượng và hiệu quả kinh doanh thấp, thu nhập thực tế của dân cư không cao thì
thuế thu nhập không thể trở thành nguồn thu chủ yếu cuả Ngân sách Nhà nước. Khi
đó nguồn thu chủ yếu của thuế sẽ chuyển từ thuế trực thu sang thuế gián thu. Điều
đó đã được minh chứng rằng, trong điều kiện suy thoái kinh tế, không phải ngẫu
nhiên mà một vài quốc gia đã áp dụng phương pháp hạ thấp thuế thu nhập cá nhân
và thuế thu nhập công ty để kích thích đầu tư phát triển nền kinh tế. Ngược lại, trong
điều kiện nền kinh tế có quá ít người làm công và quá ít hoạt động sản xuất, nhưng
nhờ có nguồn tài nguyên hoặc lượng thu nhập đã tích lũy được trong quá khứ dồi
dào nên tiêu dùng lớn, cần phải đề cao vai trò của thuế gián thu để đảm bảo cân đối
ngân sách.
- Tác động đến đối tượng điều chỉnh
Thông thường để điều tiết một loại đối tượng nào đó, nhà nước cũng có thể đưa
đối tượng đó trở thành đối tượng nộp thuế hoặc không là đối tượng nộp thuế của một
loại thuế nhất định. Việc quy định là đối tượng nộp thuế hoặc không là đối tượng
nộp thuế được áp dụng rộng rãi trong nền kinh tế thị trường chưa hội nhập đầy đủ.
Phương pháp này trở nên vô hiệu, khi đất nước hội nhập đầy đủ. Cho dù, nguyên tắc
đối xử quốc gia chỉ mới áp dụng cho đối tượng là hàng hoá, dịch vụ chưa áp dụng
cho pháp nhân và thể nhân, nhưng trên thực tế, những hình thức phân biệt đối xử
giữa các thể nhân và pháp nhân vẫn có thể bị khiếu kiện. Vì vậy, phương thức này
không còn phù hợp trong giai đoạn đến.
- Thay đổi thuế suất
Thuế suất hay định suất thuế là linh hồn của mỗi loại thuế. Thay đổi thuế suất
tức là thay đổi mức thu thuế hay đại lượng thu thuế tính trên một đơn vị đối tượng
tính thuế. Thông qua việc thay đổi đại lượng thuế trên một đối tượng tính thuế, Nhà
nước tiến hành phân phối lại thu nhập được tạo ra giữa các chủ thể kinh tế, giữa các
ngành, các vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội, làm thay đổi lợi ích kinh tế của
họ.
20
Mục đích của Nhà nước điều tiết thuế đối với nền kinh tế quốc dân là tạo ra
quỹ tài chính tập trung, tạo sự cân bằng mong muốn trong nền kinh tế và kích thích

kinh tế tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trước hết phụ thuộc vào mức
đầu tư, mà mức đầu tư được quyết định bởi đại lượng tiết kiệm và khối lượng tích
luỹ đã đạt đến mức độ nhất định. Rõ ràng, biểu thuế cao hay thấp đã tác động đến
hành vi tiết kiệm và tích luỹ, do đó ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ đầu tư. Mối
quan hệ giữa việc hình thành một nguồn tài chính tập trung dồi dào để mở rộng chi
tiêu Chính Phủ với việc gia tăng tiết kiệm và tăng trưởng đầu tư trong khối dân cư
bao giờ cũng là một mối quan hệ trái chiều, cần hiệu chỉnh hợp lý thông qua các
mức thuế suất của các loại thuế.
Nếu Nhà nước sử dụng hệ thống chính sách thuế có các mức thuế suất quá cao
sẽ cản trở quá trình hình thành những điều kiện cần thiết tạo mức tiết kiệm đủ để
đảm bảo cho việc đầu tư trong các thành phần kinh tế. Nếu Nhà nước sử dụng hệ
thống chính sách thuế có các mức thuế suất thấp sẽ làm tăng thu nhập của dân cư và
doanh nghiệp, do đó làm tăng mức tiết kiệm và tích luỹ vốn, nhưng đồng thời sẽ xảy
ra hiện tượng bội chi ngân sách, ảnh hưởng đến ổn định xã hội.
Thay đổi thuế suất được coi là một phương pháp quan trọng trong quá trình
Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế. Thông qua việc quy định
đánh thuế với thuế suất cao hay thấp vào các ngành nghề, mà Nhà nước tác động và
làm thay đổi mối quan hệ giữa cung, cầu trên thị trường nhằm góp phần thực hiện
điều tiết vĩ mô, đảm bảo sự giữa các ngành nghề trong nền kinh tế.
Tuy nhiên việc thay đổi thuế suất trong thực tiễn cũng gặp những khó khăn
nhất định về kinh tế - kỹ thuật. Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Một trong những điều
kiện đó là ổn định biểu thuế. Sự thay đổi thường xuyên hệ thống thuế suất sẽ làm trở
ngại đến việc lựa chọn và quyết định đầu tư của các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Thứ hai, hệ thống thuế suất thường được xây dựng trên cơ sở xem xét và tính toán
có căn cứ khoa học và thực tiễn. Sự thay đổi thậm chí một thuế suất cũng có thể kéo
theo sự thay đổi của cả hệ thống. Thứ ba, hệ thống thuế suất chính là thể hiện mức
độ động viên một phần tổng sản phẩm xã hội vào Ngân sách Nhà nước, tức là phản
ánh thực trạng nền kinh tế và mức độ lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Chính vì những nguyên nhân trên, mà ngoài phương pháp thay đổi thuế suất,

Nhà nước khi sử dụng công cụ thuế để tác động điều tiết vĩ mô nền kinh tế còn sử
dụng nhiều phương pháp khác.
- Áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế:
Ưu đãi thuế tức là hình thức cho người nộp thuế được hưởng những điều kiện
thuận lợi khi nộp thuế. Thông qua thực hiện ưu đãi thuế, Nhà nước đã điều tiết nền
kinh tế một cách linh hoạt, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của cục diện nền kinh tế
để đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Tác dụng kích thích của các hình thức ưu đãi
thuế được xem như một hình thức Nhà nước cấp phát vốn trực tiếp cho các doanh
21
nghiệp và các tầng lớp dân cư. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý, Nhà nước có thể tăng
hoặc giảm quy mô và mức độ của các ưu đãi thuế để kích thích tăng tích luỹ và tích
tụ vốn trong các doanh nghiệp và dân cư.
Các hình thức ưu đãi thuế rất đa dạng: quy định mức thu nhập tối thiểu không
phải nộp thuế; cho phép loại trừ một số khoản chi phí trong thu nhập chịu thuế; miễn
hoặc giảm một phần hay toàn bộ số thuế phải nộp; cho hoãn nộp thuế; cấp tín dụng
thuế để tái đầu tư. Hiện nay, trên thế giới hình thức cấp tín dụng thuế để tái đầu tư
được sử dụng rất rộng rãi.
Tuỳ theo phạm vi sử dụng, có thể phân chia các loại ưu đãi thuế thành hai
nhóm khác nhau: ưu đãi thuế mang tính chất ngành, vùng lãnh thổ và ưu đãi thuế
mang tính chất cá biệt. Việc cấp ưu đãi thuế mang tính chất cá biệt được sử dụng
nhằm giải quyết nhiệm vụ điều chỉnh trong phạm vi hẹp, gắn liền với lợi ích của
từng chủ thể kinh doanh. Tuy có những ưu điểm nhất định, nhưng ưu đãi thuế mang
tính cá biệt cũng tạo ra sự không công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các chủ
thể kinh tế, gây hậu quả tâm lý xấu đối với người nộp thuế và tạo ra những tiền đề
trốn thuế, do đó làm mất tính trung lập của thuế.
Trong giai đoạn hội nhập, các ưu đãi thuế có thể bị xem là một khoản trợ cấp.
Tuỳ theo các lĩnh vực được ưu đãi, đối tượng được ưu đãi và cách ưu đãi mà các ưu
đãi thuế này có thể bị xem là các khoản trợ cấp bị cấm hoặc các khoản trợ cấp đặc
thù sẽ bị áp dụng biện pháp đối kháng theo Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối
kháng (SCM). Tuy nhiên, nếu áp dụng biện pháp thông qua hình thức dùng thuế suất

áp dụng chung có thể sẽ tránh được những phiền phức trong thực thi các cam kết.
Ngoài các phương pháp điều chỉnh của thuế kể trên, trong thực tiễn Nhà nước
còn sử dụng một số phương pháp điều chỉnh thuế khác như sử dụng biểu thuế phân
biệt, thay đổi hình thức nộp thuế. Mỗi phương pháp điều chỉnh của thuế đều có
những ưu, nhược điểm nhất định và giữ vị trí khác nhau trong quá trình điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Việc áp dụng phương pháp này hay phương pháp khác hoặc tất cả
các phương pháp là phụ thuộc vào trạng thái kinh tế và mục tiêu của Nhà nước trong
từng thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước.
3.1.3. Mối quan hệ giữa hai chức năng
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.
Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự
vận động và phát triển của chức năng điểu tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế
cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập.
Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can
thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà
nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để
tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở
rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại.
22
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu
thuẩn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng
phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có
nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình
kinh tế xã hội. Mặc khác, việc tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại
một cách qúa mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu qủa là làm giảm động lực phát
triển kinh tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết.
Ðó là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một
cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự
tác động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch

định, xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước trong từng
giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội nhất định.
3.2.Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường.
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà
nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà
nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy ngân
sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua
việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ
quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá
các chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân
tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự
thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế
được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
3.2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Với chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân, thuế bằng nhiều cách hình
thành nên nguồn tài chính tập trung lớn nhất phục vụ cho chi tiêu công cộng, đó là
ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước được tập hợp từ nhiều nguồn thu khác
nhau, nhằm đảm bảo yêu cầu chi tiêu chung cho nhu cầu công cộng. Trong tất cả các
nguồn, thông thường số thu về thuế chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số thu ngân
sách nhà nước. Đây là nguồn thu ổn định nhất được kế hoạch hoá tốt trên cơ sở dự
báo kế hoạch và tiềm năng phát triển kinh tế của đất nước trong một năm. Hầu như
mọi khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước đều dựa vào sự đóng thuế của người
dân. Vì vậy, xã hội có trách nhiệm phải tôn trọng người nộp thuế, những người
23

thông qua hành vi của mình đóng góp tài chính cho nhà nước một cách trực tiếp và
gián tiếp.
3.2.2. Thuế là công cụ điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường là có sự chênh lệch
lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Kinh tế thị
trường càng phát triển thì khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày
càng có xu hướng gia tăng. Sự phát triển mọi mặt của một đất nước là thành quả của
sự nỗ lực của cả cộng đồng, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp
nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi thành viên sẽ
thiếu công bằng và tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân
cư và gây ra bất ổn xã hội. Chính vì vây, Nhà nước cần phải can thiệp vào quá trình
phân phối thu nhập, của cải của xã hội. Thuế là công cụ quan trọng mà Nhà nước sử
dụng để tác động trực tiếp vào quá trình này.
Việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư được thực hiện một phần
thông qua thuế gián thu mà đặc biệt là hình thức thuế tiêu thụ đặc biệt. Loại thuế này
có đối tượng chịu thuế chủ yếu là các hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cao cấp, đắt tiền.
Các hàng hoá, dịch vụ này thông thường chỉ có những người có thu nhập cao trong
xã hội mới có thể sử dụng và hoặc sử dụng nhiều, qua đó điều tiết bớt một phần thu
nhập của họ.
Các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân với việc sử dụng thuế
suất luỹ tiến là loại thuế có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo
công bằng xã hội.
3.2.3. Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản
xuất, kinh doanh
Vai trò này được xuất hiện trong quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong
thực tế. Để đảm bảo thu được thuế và thực hiện đúng các quy định của các luật thuế
đã ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm
vững số lượng, quy mô các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh
doanh, mặt hàng họ được phép kinh doanh cũng như các định mức chi tiêu đặc thù
và các phương thức hạch toán riêng có. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ

phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm mọi biện pháp tháo
gỡ. Đồng thời, cũng qua công tác thu thuế, cơ quan thuế cập nhật được nhiều kiến
thức quản lý kinh tế để phục vụ tốt hơn cho việc kiểm tra, kiểm soát sau này. Như
vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện
các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về
mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
3.2.4. Thuế góp phần thức đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển
Thuế trong cơ chế thị trường không chỉ đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu của
ngân sách nhà nước, mà còn là một công cụ làm đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất, kinh
24
doanh phát triển. Theo quan điểm công bằng, bất kỳ một tổ chức, cá nhân khi đã
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế của mình với đất nước, họ được quyền thụ
hưởng và cung ứng những lợi ích công cộng nhất định và được tạo thuận lợi nhất
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, phụ thuộc vào chủ
trương kinh tế đất nước, mà nhà nước có thể dùng thuế để tác động, tạo thuận lợi
hơn cho hoạt động kinh doanh ở một số ngành, vùng để khuyến khích sản xuất,
kinh doanh phát triển nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý hơn.
IV. PHÂN LOẠI THUẾ
4.1. Khái niệm phân loại thuế.
Thời kỳ đầu khi Nhà nước ra đời sản xuất hàng hoá chưa phát triển, thuế
thường được thu bằng hiện vật. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất xã hội, kinh tế hàng hoá - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế được thu
bằng tiền là chủ yếu. Thuế thu bằng tiền, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị
được hình thành và ngày càng phát triển có tính hệ thống, các loại thuế khác nhau
lần lượt ra đời làm cho thuế ngày càng đa dạng, phong phú linh hoạt hơn.
Tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh của mỗi nước mà hệ thống chính sách thuế bao
gồm nhiều hay ít các loại thuế khác nhau. Để định hướng xây dựng và quản lý hệ
thống chính sách thuế, người ta tiến hành sắp xếp các loại thuế có cùng tính chất
thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Có thể đưa ra khái niệm chung về phân loại thuế như sau:

Phân loại thuế là sự sắp xếp các sắc thuế trong một hệ thống chính sách thuế
thành những nhóm khác nhau theo các tiêu thức nhất định.
Để phân loại thuế người ta dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau. Từ thực tế sử
dụng tiêu thức phân loại thuế ở nước ta và thế giới, chúng ta thấy các tiêu thức để
phân loại thuế rất đa dạng và tuỳ thuộc vào mục tiêu quản lý của mỗi quốc gia mà
người ta có thể đưa ra các tiêu thức khác nhau như: phân loại thuế dựa theo phương
thức đánh thuế, phân loại thuế dựa theo cơ sở tính thuế, phân loại thuế dựa theo
phạm vi điều chỉnh của sắc thuế, phân loại thuế theo tên gọi của sắc thuế, theo tính
chất thuế suất
4.2. Các cách phân loại thuế
4.2.1. Dựa theo phương thức đánh thuế.
Các loại thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của các tổ chức, cá nhân
trong xã hội. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào phương thức đánh thuế là đánh một cách trực
tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại: thuế
trực thu và thuế gián thu.
- Thuế trực thu.
25

×