Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát
triển, hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải
qua nhiều khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng khích lệ. Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân
hàng với vai trò là " đòn bẩy kinh tế " thông qua hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc
đẩy sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của
Nhà nước. Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân
hàng thương mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công
tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thu thập tài liệu và đi
thực tế tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, tôi đã quyết định chọn đề tài : "
Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Ba Đình
".
Mục đích nghiên cứu của tiểu luận này là :
- Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết: Bản chất
của rủi ro tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như tác động
của nó tới bản thân Ngân hàng thương mại và với nền kinh tế.
- Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng
công thương Ba Đình để đánh giá được tình hình rủi ro trong hoạt động tín dụng
của Chi nhánh.
- Đưa ra một số ý kiến nhận xét và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế
rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Để giải quyết từng vấn đề trên, tiểu luận được thiết kế làm 3 chương:
Chương 1 : Tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng
thương mại.
Chương 2 : Thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Chương 3 : Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Ba Đình.
CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định,
đồng thời bên nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thuận.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức
kinh tế và cá nhân thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho
khách hàng vay, tài trợ thuê mua, bảo hành hay chiết khấu....
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các
doanh nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà
nước mà còn tác động đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác. Tín dụng thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo mục tiêu phát
triển của đất nước.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất
mở rộng, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và
hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm,
tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, và các chương trình, dự
án mang tính xã hội khác.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản
xuất mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước
và quốc tế.
Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm
soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp
chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp.
Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một
nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách. Song song với việc này là phải đảm bảo an
toàn tín dụng và đó là mục tiêu lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM
nói chung và của Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng.
II. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm rủi ro
Rất có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và
hoạt động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường.
Tuy nhiên , các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất
trắc không mong đợi , gây ra thiệt hại và có thể đo lường được .
Như vậy , trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động Ngân
hàng nói riêng thì vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế , các nhà quản trị
không thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện
pháp chủ động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường
hiện nay, các nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trước các rủi ro để sớm
đưa ra các giải pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó.
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương
mại
Rủi ro tồn tại trong hoạt động kinh doanh dưới các hình thức khác nhau.
Do đặc điểm đặc thù của hoạt động Ngân hàng làm cho hoạt động này có độ rủi
ro rất lớn. Có các loại rủi ro chủ yếu sau trong hoạt động của NHTM.
* Rủi ro tín dụng:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nguồn thu từ hoạt động tín
dụng luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng và đem lại
phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng.
* Rủi ro lãi suất:
Đây là loại rủi ro mang tính xã hội, nó ảnh hưởng đến hầu hết các tổ chức
kinh tế , các cá nhân trong nền kinh tế quốc dân.
* Rủi ro nguồn vốn:
- Rủi ro do thừa vốn:
Như ta biết, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHTM là nguồn vốn huy
động. Để huy động được vốn Ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Nếu số
vốn này bị ứ đọng, không thể cho vay hoặc đầu tư vào các loại tài sản có thể
sinh lời trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động thì có nghĩa
là các thiệt hại của ngân hàng đang diễn ra.
- Rủi ro do thiếu vốn:
Loại rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu
cho vay và đầu tư, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho người gửi tiền khi
đến hạn.
* Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ
giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngược lại
thì bị lỗ. Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối.
* Rủi ro trong thanh toán:
Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh
toán. Khả năng thanh toán tức là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện tại,
đột xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong
tương lai. Khi ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải quyết
một cách kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa
khả năng thanh toán sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu
nhập của ngân hàng giảm.
* Rủi ro thuần tuý:
Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tai gây ra như: lụt lội, động đất,
hoả hoạn hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng... làm thiệt hại hay phá
huỷ các tài sản của ngân hàng.
* Rủi ro mất khả năng thanh toán;
Đây là loại rủi ro đặc trưng của NHTM liên quan đến sự sống còn của
ngân hàng, nó là hậu quả của một hoặc nhiều loại rủi ro kể trên dẫn đến việc
NHTM bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc
không có đủ tiền nhất thời để chi trả cho nhu cầu rút tiền ồ ạt của khách hàng tại
một thời điểm.
3. Rủi ro tín dụng
* Các hình thức của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc
đúng hạn, đầy đủ.
- Không thu được lãi đúng hạn:
Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó
Ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh.
- Không thu được vốn đúng hạn:
Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng
hơn, một phần do một lượng vốn cho vay lớn bị mất .
- Không thu được đủ lãi:
Khi Ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm
trọng hơn. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến
mức không thể trả đủ lãi cho Ngân hàng.
- Không thu đủ vốn cho vay:
Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và
lúc này Ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này , Ngân hàng sẽ chuyển
khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép
lại một hợo đồng tín dụng không có hiệu quả.
* Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng :
- Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường pháp lý trong nước:
Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh
doanh của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng :
Trong trường hợp này, rủi ro tín dụng xảy ra do các doanh nghiệp thực sự
làm ăn thua lỗ không có khả năng trả được nợ cho ngân hàng.
- Khách hàng gian lận:
Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng không thể tránh khỏi trường hợp
khách hàng cố tình lừa gạt ngân hàng.
+ Khách hàng không gian lận:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh
gay gắt và để tồn tại thì các doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình trong những
quan hệ phức tạp của xã hội. Tuy nhiên, rủi ro vẫn là điều không thể tránh khỏi.
- Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
Ngoài những nguyên nhân trên, rủi ro tín dụng còn xuất phát từ chính bản
thân Ngân hàng.
* Dấu hiệu của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau.
* Tác động của rủi ro tín dụng:
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận Ngân hàng:
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng:
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của Ngân hàng:
- Rủi ro tín dụng đã làm giảm uy tín của Ngân hàng và ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. NHTM gặp nhiều rủi ro là Ngân hàng
hoạt động kém hiệu quả.
- Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản Ngân hàng:
Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đã làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với
dân chúng. Họ lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền để tìm cơ
hội đầu tư có lợi hơn ở một Ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra
khi có quá nhiếu người đến rút tiền tại cùng một thời điểm và Ngân hàng sẽ
không đủ tiền mặt để thanh toán, làm cho khách hàng tin rằng Ngân hàng có
nguy cơ phá sản và sẽ đổ xô đến rút tiền về dẫn đến sự phá sản thực sự của Ngân
hàng.
Hậu quả của sự phá sản Ngân hàng không chỉ bản thân Ngân hàng phải
gánh chịu mà nó còn liên quan đến các Ngân hàng bạn có quan hệ với Ngân
hàng. Điều này sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền gây ra sự phả sản hàng loạt
của các ngân hàng khác ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vừa qua bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ
thống các NHTM đã làm cho nền kinh tế của các nước trong khu vực bị điêu
đứng. Chính điều này đã gây ra những rối loạn về an ninh, chính trị, xã hội... kéo
theo hàng loạt những hậu quả khác như: Thất nghiệp, lạm phát, tệ nạn xã hội
nảy sinh. Đây là những bài học thấm thía có nguồn gốc từ những rủi ro tín dụng
của NHTM.
4. Thực trạng rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt
Nam hiện nay
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để huy
động và sử dụng có hiệu qủa các nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế, bảo vệ
lợi ích hợp pháp của dân cư, tổ chức kinh tế tham gia vào các hoạt động tín
dụng, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh
tiền tệ, ngày 25/5/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước ) đã
ký lệnh số 37 về Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và lệnh số 38 về Pháp lệnh
Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính.
Hiện nay, hầu hết các NHTM Việt Nam đều có nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá
hạn bình quân ở mức trên 5% (cá biệt có một số Ngân hàng ở mức trên 10%),
trong khi đó thông lệ quốc tế chỉ cho phép ở mức 1-2%. Như vậy, vấn đề nợ quá
hạn ở các NHTM Việt Nam là rất đáng lo ngại.
Bên cạnh nợ quá hạn còn có rủi ro tiềm ẩn trong số dư nợ không có vấn
đề. Nếu tách hết số dư nợ quá hạn ra khỏi tổng dư nợ còn lại dư nợ bình thường
hay dư nợ không có vấn đề, nhưng ở một số ngân hàng số dư nợ này vẫn buộc
phải được quan tâm chặt chẽ. Trong số dư nợ bình thường đó vẫn ẩn chứa nhiều
vấn đề không bình thường dễ gây rủi ro tín dụng ví dụ như số dư nợ đã được gia
hạn nhiều lần hay đảo nợ.
Mức dư nợ tín dụng thấp, chất lượng tín dụng kém của các NHTM có
nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên nhân cơ bản là các vấn đề bất cập
trong các vấn đề về tài sản cầm cố, thế chấp. Sự phối hợp giữa các nghành về
các thủ tục công chứng, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng,
xác nhận của các cơ quan quản lý tài sản còn thiếu. Điều này đã gây nhiều khó
khăn cho các NHTM trong hoạt động tín dụng. Giấy tờ nhà đất có thể không đầy
đủ hợp lệ, nếu không cho vay thì ứ đọng vốn còn nếu cho vay thì rủi ro cao, tài
sản bảo đảm khó thu hồi. Hơn nữa, vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn nhiều phức
tạp, bất cập trải qua các thủ tục hành chính rườm rà dưới sự quản lý của nhiều
cơ quan khác nhau gây khó khăn cho việc thu hồi nợ của ngân hàng.
Ngoài những vấn đề bất cập về tài sản thế chấp còn một số nguyên nhân
gây ra tình trạng nợ quá hạn như:
Về phía Ngân hàng: Việc xác định kỳ hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ chưa
phù hợp với phương án vay vốn của khách hàng. Việc kiểm tra kiểm soát các
khoản vay chưa chặt chẽ hoặc chỉ coi trọng tài sản thế chấp mà không quan tâm
đúng mức đến phương án vay vốn của khách hàng.
Về phía khách hàng: Nguồn trả nợ ngân hàng từ phương án vay vốn
không theo đúng tiến độ đã đề ra do : Sử dụng vốn vay sai mục đích để đầu cơ
hay dự đoán sai về thị trường dẫn đến sản xuất ra nhưng không tiêu thụ được,
hàng hoá tồn đọng do đó không thu hồi được vốn trả nợ ngân hàng...
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
Ngân hàng công thương Ba đình được thành lập năm 1961 với tư cách là
một chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước quận Ba Đình, thực hiện cả hai chức
năng quản lý Nhà nước và kinh doanh tiền tệ.
Nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/3/1988 với nội dung đổi mới hoạt
động ngân hàng đã chính thức chuyển hoạt động của NHCT Ba Đình sang thời
kỳ kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp.
Ngày 14/11/1990 Chủ tịch HĐBT ra quyết định 402/CT về việc thành lập
Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Ba Đình trở thành
một Chi nhánh của NHCT Thành phố Hà Nội.
Tháng 4/1993 NHCT đổi mới cơ chế tổ chức và quản lý từ mô hình ba
cấp sang mô hình hai cấp , NHCT Ba Đình hoạt động với tư cách là Chi nhánh
trực thuộc thẳng NHCT Việt Nam.
Trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt của cơ chế thị trường, NHCT Ba
Đình đã đứng vững vàng và luôn chứng tỏ là một Chi nhánh hoạt động có hiệu
quả của hệ thống NHCT Việt Nam. Cùng với thời gian, NHCT Ba Đình đã từng
bước hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức lẫn hoạt động nghiệp vụ.
Trong quá trình hoạt động, NHCT Ba Đình đã luôn bám sát các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản chỉ đạo của ngành ngân
hàng nắm bắt kịp thời những thông tin của thị trường kết hợp với hoàn cảnh
thực tế để có chiến lược kinh doanh phù hợp. Ngân hàng đã thực hiện mục tiêu
tăng trưởng vốn huy động cả bằng VND và ngoại tệ tạo điều kiện thay đổi cơ
cấu vốn huy động nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn đa dạng của khách hàng.
Chính sách khách hàng cũng là một trong những biện pháp quan trọng làm tăng
hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng luôn phục vụ khách hàng một
cách thuận tiện, nhanh chóng, có chính sách ưu tiên, ưu đãi hợp lý, tích cực tìm
kiếm khách hàng đến vay vốn cả trong địa bàn và những vùng lân cận. Đồng
thời Ngân hàng cũng luôn có những biện pháp đầu tư mua sắm thiết bị, cải tiến
kỹ thuật nghiệp vụ, phát triển các dịch vụ ngày càng hiện đại , thuận tiện và
chính xác. Chính vì vậy NHCT Ba Đình đã mở rộng được thị trường cho vay và
thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng .
Đến cuối năm 1999, số khách hàng đến giao dịch với Chi nhánh đạt gần
1.400 người tăng so với năm 1998 trên 100 khách hàng và tổng số tài khoản
hoạt động là 3.386 tài khoản. Số khách hàng có quan hệ tín dụng với Chi nhánh
là 705 bao gồm 128 DNNN, 18 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 559 hộ tư
nhân cá thể, trong đó có 60 khách hàng có dư nợ từ 1-5 tỷ VND, 18 khách hàng
có dư nợ từ 5-10 tỷ VND và 19 khách hàng có số dư nợ trên 10 tỷ VND.
Trong những năm qua, NHCT Ba Đình luôn chứng tỏ là một Chi nhánh
trong hệ thống NHCT Việt Nam đã tìm ra hướng đi đúng đắn, phát triển vững
chắc, đạt hiệu quả kinh doanh cao. Những thành công mà Ngân hàng đã đạt
được đặc biệt trong hoạt động tín dụng đã góp phần tích cực vào sự phát triển
kinh tế thủ đô, nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn hệ thống NHCT
Việt Nam .
II. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
BA ĐÌNH
Có thể nói trong những năm qua nền kinh tế nước ta liên tục phải đối mặt
với nhiều khó khăn thử thách. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực giữa
năm 1997 đã để lại hậu quả nặng nề làm tốc độ tăng trưởng của một số ngành
chậm lại, thị trường trầm lắng, sức mua giảm sút, xu hướng cung vượt cầu xuất
hiện ở nhiều loại hàng hoá. Đất nước lại phải chịu nhiều thiên tai liên tiếp đặc
biệt là trong năm 1999, hạn hán lớn ở đầu năm và lũ lụt cuối năm ở các tỉnh
miền trung gây ra nhiều thiệt hại nặng nề trên lĩnh vực kinh tế xã hội.
Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng nói
chung và hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình nói riêng. Song dưới sự chỉ
đạo sát sao của các cấp , các nghành, kết hợp với sự linh hoạt trong xử lý nghiệp
vụ và có chiến lược kinh doanh thích hợp, NHCT Ba Đình đã đạt được những