Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 121 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN NHƯ THẮNG



KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ




HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của


riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Như Thắng
MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM
ĐỐC THẨM, TÁI THẨM 8
1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng và kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm 8
1.1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng 11
1.1.2. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm 12

1.1.3. Khái niệm kháng nghị tái thẩm 13
1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 14
1.3. Mục đích, ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 20
1.3.1. Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 20
3.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 21
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật TTHS
Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm
1945 đến nay 22
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành BLTTHS Việt Nam năm 1988 22
1.4.2. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về
kháng nghị giám đốc thẩm 24
1.4.3. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về
kháng nghị tái thẩm 28
1.5. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong luật TTHS một số
nước trên thế giới 30
1.5.1. BLTTHS Liên bang Nga 30
1.5.2. Luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 34
1.5.3. BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức 36
Kết luận chương 1 41
Chương 2: KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
THEO QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH 42
2.1. Quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 42
2.1.1. Kháng nghị giám đốc thẩm 42
2.1.2. Kháng nghị tái thẩm 68
2.2. Thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 78
2.2.1. Kết quả đạt được trong kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 78
2.2.2. Một số tồn tại trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 83
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên 87

Kết luận chương 2 91
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG
NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM 92
3.1. Sự cần thiết, định hướng và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật
về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 92
3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm 92
3.1.2. Định hướng, nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm 93
3.2. Hoàn thiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 94
3.3. Các giải pháp khác 100
3.3.1. Tăng cường kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án các cấp 100
3.3.2. Tăng cường giải quyết đơn khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm 101
3.3.3. Tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm 102
3.3.4. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn,
bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ làm công
tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 102
3.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là
giữa Tòa án với VKS trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm 104
3.3.6. Nâng cao nhận thức pháp luật trong nhân dân 105
Kết luận chương 3 106
KẾT LUẬN 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HLPL : Hiệu lực pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TAQS: Tòa án quân sự
TTHS : Tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VKSQS: Viện kiểm sát quân sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 2.1. Số lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Chánh án
Tòa án và Viện trưởng VKS các cấp đã được giải quyết 80
Bảng 2.2. Tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm giữa Chánh án
Tòa án và Viện trưởng VKS các cấp 81
Bảng 2.3. Kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án các cấp 82
Bảng 2.4. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng VKS các cấp 83


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và
công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì việc phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt

tội phạm, nhưng cũng không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ pháp chế
XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
là những định hướng quan trọng của pháp luật TTHS Việt Nam.
Để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, Đảng ta đã có những quan
điểm chỉ đạo về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc
biệt tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Bộ chính trị đã xác định mục tiêu là:
Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao [4].
Trong những năm qua, công tác tư pháp nói chung và công tác giải
quyết án hình sự nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Theo đó, các
hoạt động TTHS được tiến hành một cách minh bạch hơn, khách quan hơn,
quyền lợi của người tham gia tố tụng được đảm bảo hơn, xu thế mở rộng
tranh tụng tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, vẫn còn một số bản án, quyết
định sau khi có HLPL mới phát hiện ra có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc có tình tiết mới
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đó, làm ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, nên phải kháng nghị
giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm.

2
Thực tiễn cho thấy, kháng nghị giám đốc thẩm là một hoạt động để
kiểm tra lại tính hợp pháp, tính đúng đắn của bản án hoặc quyết định của Tòa
án đã có HLPL. Từ đó, Tòa án cấp trên kịp thời sửa chữa những sai lầm trong
việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn Tòa án cấp dưới khắc
phục những sai lầm, thiếu sót và áp dụng thống nhất pháp luật. Vì thế, có thể
nói kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS có vai trò, ý nghĩa đặc

biệt quan trọng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định
của pháp luật, đảm bảo pháp chế XHCN.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công tác kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm vẫn còn nhiều hạn chế như: chất lượng kháng nghị chưa cao,
điều này thể hiện ở một số bản kháng nghị không nêu được căn cứ kháng
nghị, dẫn đến phải rút kháng nghị hoặc không được Hội đồng giám đốc thẩm,
tái thẩm chấp nhận; nhiều trường hợp phát hiện căn cứ kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm chưa kịp thời nên không còn thời hạn kháng nghị; việc kiểm
tra bản án, quyết định đã có HLPL, cũng như việc giải quyết đơn đề nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm chưa triệt để nên số lượng vụ án có kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm còn quá ít… Một trong những nguyên nhân của tình trạng
trên là do nhiều quy định của BLTTHS liên quan đến kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm chưa thật sự phù hợp, chưa cụ thể và rõ ràng, như các quy định
về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; đối tượng kháng nghị; thời
hạn kháng nghị; bổ sung kháng nghị, rút kháng nghị; hệ quả của kháng
nghị… nhưng lại chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, nên trong
quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Mặt khác, trình độ,
năng lực của một số cán bộ làm công tác giám đốc thẩm, tái thẩm có phần hạn
chế, cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động kháng nghị nói trên.
Vì thế, việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận và các quy định của
pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; chỉ ra những hạn

3
chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của những hạn chế
đó, từ đó đề ra những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, là một yêu cầu cấp
thiết trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên

cứu lý luận, nhà khoa học pháp lý, luật gia và cán bộ thực tiễn, nhưng nhiều
vấn đề về mặt lý luận liên quan đến công tác này còn có những quan điểm khác
nhau; mặt khác trong thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc, nên cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn.
Hiện nay, ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã có một số
công trình nghiên cứu được công bố, như các giáo trình đại học giảng dạy về
luật TTHS ở Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, Đại
học Cảnh sát nhân dân đã nghiên cứu khái quát những vấn đề cơ bản về
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm và
đã được công nhận là đề tài cấp Bộ, luận án, luận văn, bình luận khoa học,
sách chuyên khảo. Trong đó phải kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của
TANDTC “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình
sự”, do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên, năm 2005 [37]; luận án Tiến sĩ của tác
giả Phan Thị Thanh Mai với đề tài “Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, năm 2007 [30]; luận văn Thạc sĩ của tác giả Quản Thị Ngọc
Thảo với đề tài “Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, năm
2007 [67]; luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Trượng với đề tài
“Giám đốc thẩm trong TTHS”, năm 1996 [70]; sách chuyên khảo “Giám
đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Đinh Văn Quế, năm 1997 [33]

4
Một số công trình chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp, có liên quan một phần
đến quy định về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã được công bố trên các
tạp chí, báo chuyên ngành. Chẳng hạn, bài viết của các tác giả như: Nguyễn
Văn Hiện,“Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử
giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp”, Tạp chí TAND, tháng
3 năm 1997 [19]; Nguyễn Quang Hiền, “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc
thẩm”, Tạp chí TAND, số 7 năm 2009 [17]; Vũ Gia Lâm, “Về căn cứ kháng

nghị theo thủ tục tái thẩm trong BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Luật học, số 10
năm 2006 [26]; Lê Kim Quế, “Một số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự”, Tạp
chí TAND, số 14 năm 2006 [40]; Nguyễn Văn Trượng, “Thực trạng thi hành
quy định của BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn
thiện”, Tạp chí TAND, số 7 năm 2011 [72]; Đinh Văn Quế, “Vấn đề kháng
nghị giám đốc thẩm về “dân sự” trong vụ án hình sự”, Tạp chí TAND, số 9
năm 2005 [36]; Đinh Văn Quế, “Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo
BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND, số 22 năm 2004 [35]
Qua nội dung các công trình nghiên cứu, các bài viết cũng như các giáo
trình giảng dạy nêu trên cho thấy: các tác giả đã nghiên cứu những vấn đề cơ
bản về giám đốc thẩm, tái thẩm và có những kiến nghị, đề xuất có giá trị về mặt
lý luận và thực tiễn. Nhưng một số công trình có phạm vi nghiên cứu quá rộng,
ngược lại một số công trình chỉ nghiên cứu một số khía cạnh nhất định liên
quan đến kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS. Chẳng hạn, luận án
Tiến sĩ của tác giả Phan Thị Thanh Mai, luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn
Văn Trượng đã nghiên cứu chuyên sâu về lý luận giám đốc thẩm, nhưng không
nghiên cứu về kháng nghị tái thẩm, đề cập rất ít đến thực tiễn kháng nghị giám
đốc thẩm và chủ yếu xem xét đánh giá pháp luật để kiến nghị một số giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về giám đốc thẩm. Ngược lại, đề tài cấp
Bộ “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự” của

5
TANDTC do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên và các công trình nghiên cứu khác
của tác giả này đều mang tính ứng dụng cao, nhưng lại đề cập rất ít về mặt lý
luận, mà chủ yếu là giải thích pháp luật, liên hệ những quy định của pháp luật
với thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám
đốc thẩm, tái thẩm từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp để hoàn thiện các quy
định của pháp luật về giám đốc thẩm, tái thẩm. Một số công trình khoa học
khác chỉ nghiên cứu trên phạm vi hẹp, đã làm sáng tỏ phần nào về mặt lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm,

tái thẩm, như về tính chất giám đốc thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời
hạn, hệ quả pháp lý của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và đưa ra những
giải pháp để hoàn thiện các quy định trên.
Tuy nhiên, một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến công tác kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa được làm rõ, cần phải tiếp tục nghiên cứu
một cách toàn diện và sâu sắc hơn, để đưa ra các khái niệm hoàn chỉnh, đầy
đủ và chính xác về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Mặt khác, như đã
trình bày ở trên, thực tiễn hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
trong TTHS chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, một phần là do các quy định
của pháp luật TTHS liên quan đến vấn đề này còn nhiều bất cập, không còn
phù hợp trong tình hình hiện nay, cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về những vấn đề
pháp lý cơ bản của việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt
Nam như: khái niệm kháng nghị tố tụng, kháng nghị giám đốc thẩm và kháng
nghị tái thẩm; đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; quá trình

6
hình thành, phát triển các quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả pháp lý… của kháng
nghị giám đốc thẩm và tái thẩm; đồng thời đi sâu phân tích hoạt động thực
tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra một số
vướng mắc, bất cập về mặt lý luận và thực tiễn thi hành; nguyên nhân của
những tồn tại đó và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên
cứu của đề tài là các quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và thực tiễn công tác kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp; phương pháp thống kê hình sự; nghiên cứu thực tiễn công tác
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm để làm luận chứng cho các vấn đề khoa
học cần nghiên cứu trong luận văn. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn,
tác giả có nghiên cứu, tham khảo các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
liên quan đến phạm vi đề tài; tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình
đã công bố, tổng kết, đánh giá của các cơ quan chuyên môn và ý kiến của các
chuyên gia có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về lý
luận kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong khoa học luật TTHS Việt Nam

7
như: làm rõ khái niệm kháng nghị tố tụng, đặc biệt là khái niệm kháng nghị
giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm; phân tích khái quát lịch sử hình thành
và phát triển các quy định pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; làm sáng tỏ các quy
định của BLTTHS năm 2003 về căn cứ kháng nghị, thẩm quyền, thời hạn, hệ
quả pháp lý của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; phân tích thực tiễn
công tác kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm để đánh giá. Qua đó chỉ ra
những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; những
hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra

nguyên nhân của những tồn tại, để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các
quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về thực tiễn, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ
hoạt động nghiên cứu và học tập. Những đề xuất, kiến nghị của tác giả luận
văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và
hoạt động thực tiễn áp dụng BLTTHS Việt Nam liên quan đến hoạt động
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Chương 2: Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của
BLTTHS năm 2003 và thực tiễn thi hành
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm

8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM

1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng và kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm
Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam thì nghĩa vụ chứng minh
tội phạm, làm sáng tỏ bản chất của vụ án thuộc về trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng, đó là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Kết
quả của cả quá trình tố tụng được thể hiện qua bản án, quyết định của Tòa án
có HLPL. Khi đó, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và thi hành
bản án, quyết định đó. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, không phải mọi bản án,
quyết định của Tòa án có HLPL đều đảm bảo tính khách quan và đúng quy

định của pháp luật. Vì thế, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
kết án và những người tham gia tố tụng khác, BLTTHS có những quy định về
trình tự, thủ tục xem xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL.
Luật TTHS các nước trên thế giới cũng như Việt Nam đều quy định thủ
tục xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Nhưng khác với
luật TTHS đa số các nước trên thế giới chỉ quy định một thủ tục xem xét lại
bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, đó là thủ tục tái thẩm (như Đức
[80], Hàn Quốc, Na Uy [Dẫn theo 30, tr.15] ) hoặc thủ tục giám đốc thẩm
(như Trung Quốc [82], Đan Mạch [Dẫn theo 30, tr.15] ); luật TTHS Việt
Nam lại quy định hai thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có HLPL là thủ tục
giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng
đặc biệt, để xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị
vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Thủ
tục tái thẩm cũng xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL, nhưng bị kháng

9
nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án
hoặc quyết định đó [48, Điều 272 và 290].
Hiện nay, trong nghiên cứu khoa học pháp lý và trong thực tiễn áp dụng
pháp luật còn có các quan điểm khác nhau về khái niệm giám đốc thẩm như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS,
trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có HLPL về vụ
án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án,
nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm cho việc áp dụng
thống nhất pháp luật [70, tr.23].
Quan điểm thứ hai cho rằng, giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để kiểm
tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án [76, tr.734].
Quan điểm thứ ba cho rằng, giám đốc thẩm trong TTHS là thủ tục do
Tòa án có thẩm quyền xét lại những bản án hoặc quyết định hình sự đã có

HLPL bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm đảm bảo pháp luật
được áp dụng đúng đắn và thống nhất [30, tr.35].
Quan điểm thứ tư cho rằng, giám đốc thẩm là một thủ tục của luật
TTHS nhằm xác định và khắc phục vi phạm, sai lầm nghiêm trọng trong bản
án, quyết định đã có HLPL của Tòa án dựa trên những căn cứ kháng nghị của
người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật [67, tr.14].
Như vậy, hầu hết các quan điểm trên đều cho rằng giám đốc thẩm là
việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có quan điểm
thì cho rằng giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, quan điểm khác thì cho là
một thủ tục tố tụng. Nhìn chung mỗi quan điểm đều có góc độ tiếp cận khác
nhau, với phạm vi nghiên cứu khác nhau; tuy chưa phản ánh đầy đủ các dấu
hiệu đặc trưng của giám đốc thẩm, nhưng ở mức độ nào đó thì mỗi quan điểm
đều có nhân tố phù hợp nhất định.

10
Theo chúng tôi để làm rõ nội hàm khái niệm giám đốc thẩm, thì cần
phân biệt giám đốc thẩm với xét xử lại và giám đốc việc xét xử. Tại Điều 20
BLTTHS quy định: “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử Đối với bản
án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử
phúc thẩm” [48]. Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại những vấn đề,
nội dung đã được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết, nhưng có kháng cáo, kháng
nghị. Còn Tòa án xét xử giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử, mà là
thủ tục tố tụng đặc biệt, kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án,
quyết định đã có HLPL. Theo Điều 21 BLTTHS thì “Giám đốc việc xét xử là
việc Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới, TANDTC
giám đốc việc xét xử của TAND và TAQS các cấp để đảm bảo việc áp dụng
pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất” [48]. Hoạt động giám đốc việc
xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới bao gồm cả hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo của người tham gia tố tụng, cơ quan Nhà nước, tổ

chức xã hội và mọi công dân; kiểm tra, phát hiện các vi phạm pháp luật trong
hoạt động xét xử để sửa chữa, khắc phục kịp thời; kháng nghị bản án, quyết
định đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử. Do
đó, giám đốc thẩm chỉ là một hoạt động của công tác giám đốc việc xét xử và
có phạm vi hẹp hơn giám đốc việc xét xử.
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của
BLTTHS về giám đốc thẩm, tái thẩm, chúng tôi cho rằng: Giám đốc thẩm, tái
thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có
HLPL, nhưng bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án hoặc có tình tiết mới có thể làm
thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có HLPL mà Tòa án
không biết được khi ra bản án, quyết định đó, nhằm đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật.

11
Như vậy, để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì
trước hết phải có kháng nghị của người có thẩm quyền, được ban hành theo
một trình tự, thủ tục chặt chẽ, trên cơ sở căn cứ do BLTTHS quy định. Văn
bản kháng nghị phải có những lập luận, đánh giá về các tình tiết của vụ án
và phải chỉ ra được sai lầm trong áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung của bản án, quyết định đã có HLPL. Đây là văn bản tố tụng
mang tính chất pháp lý và là cơ sở để xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
1.1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng
Theo quan niệm chung nhất được ghi nhận trong Từ điển tiếng Việt của Nhà
xuất bản Từ điển Bách Khoa thì “Kháng nghị là tỏ lòng phản đối” [73, tr.569].
Trong TTHS thì khái niệm kháng nghị gắn liền với việc ra bản án và

các quyết định của Tòa án hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, khi
kháng nghị sẽ bao gồm đối tượng, nội dung kháng nghị và hệ quả của việc
kháng nghị. Trong cuốn “Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng”, tác giả
Nguyễn Duy Lãm đưa ra khái niệm kháng nghị như sau: “Kháng nghị là việc
người có thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án có thẩm quyền,
làm ngừng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án hoặc quyết định để
xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ
án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật” [25, tr.192]. Tuy
nhiên, quan điểm này không hoàn toàn chính xác, vì theo quy định của
BLTTHS thì kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm không mặc
nhiên làm ngừng HLPL của bản án, quyết định bị kháng nghị, trừ khi người
đã kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm ra quyết định tạm đình chỉ thi
hành bản án, quyết định đó. Theo cuốn Từ điển Luật học của Viện khoa học

12
pháp lý - Bộ Tư pháp thì “Kháng nghị trong TTHS là việc VKS cùng cấp và
VKS cấp trên trực tiếp yêu cầu Tòa án xét lại bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có HLPL theo thủ tục phúc thẩm, xét lại bản án hoặc quyết định đã có
HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm” [78, tr.420]. Mặc dù đã đưa
ra khái niệm về kháng nghị trong TTHS, nhưng định nghĩa trên lại không bao
gồm mục đích của kháng nghị và chưa phản ánh đầy đủ chủ thể của kháng
nghị giám đốc thẩm, vì ngoài VKS thì Tòa án cũng có thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm trên và nghiên cứu
thực tiễn về kháng nghị, chúng tôi cho rằng: Kháng nghị trong TTHS là hoạt
động tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện bằng văn bản bày tỏ sự phản
đối bản án, quyết định của Tòa án và đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét
lại bản án, quyết định đó, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy
định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm

Để giám đốc thẩm một vụ án hình sự có nhiều hoạt động tố tụng như
phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL,
kháng nghị giám đốc thẩm, tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị
kháng nghị, xét xử giám đốc thẩm Trong đó, kháng nghị giám đốc thẩm là
hoạt động quan trọng nhất, vì không có kháng nghị giám đốc thẩm thì cũng
không có thủ tục giám đốc thẩm.
Theo quy định của BLTTHS Việt Nam thì kháng nghị giám đốc thẩm
thuộc thẩm quyền của cả Chánh án Tòa án và Viện trưởng VKS, nhằm khắc
phục những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong các bản án hoặc quyết định
đã có HLPL, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống
nhất, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân.
Phạm vi của kháng nghị giám đốc thẩm có thể là kháng nghị toàn bộ hoặc

13
một phần bản án hoặc quyết định có HLPL và việc kháng nghị giám đốc thẩm
phải còn thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 278 BLTTHS.
Khi nghiên cứu về kháng nghị giám đốc thẩm, Ths. Đinh Văn Quế cho
rằng “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có
thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đã có
HLPL để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm” [41, tr.318]. Quan
điểm này đã nêu được một cách khái quát về kháng nghị giám đốc thẩm,
nhưng chưa phản ánh đầy đủ, chính xác các dấu hiệu đặc trưng của kháng
nghị giám đốc thẩm, như về hình thức kháng nghị; căn cứ kháng nghị và mục
đích của kháng nghị giám đốc thẩm.
Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm về hình sự là một quyền năng mang tính đặc thù của Tòa án và
VKS, do người có thẩm quyền thực hiện bằng một văn bản pháp lý, trong đó
nêu rõ lý do của việc kháng nghị và đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm xét lại
bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có vi phạm nghiêm trọng
về thủ tục tố tụng hoặc vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật,

nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật.
1.1.3. Khái niệm kháng nghị tái thẩm
Theo quy định của BLTTHS thì thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái
thẩm đều là thủ tục tố tụng đặc biệt và cùng xét lại bản án hoặc quyết định
của Tòa án đã có HLPL. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản giữa hai thủ tục tố
tụng này là ở căn cứ kháng nghị, nếu kháng nghị giám đốc thẩm dựa trên cơ
sở phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì
kháng nghị tái thẩm dựa vào việc phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi
cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có HLPL. “Chính sự khác biệt
này của hai thủ tục đã quyết định nội dung việc xem xét và phán quyết của
bản án tái thẩm và giám đốc thẩm. Nếu như quyết định tái thẩm liên quan đến

14
nội dung của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực của Tòa án thì bản án
quyết định giám đốc thẩm chỉ xác định có hay không có vi phạm pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án” [67, tr.10].
Khác với thủ tục giám đốc thẩm, kháng nghị tái thẩm chỉ thuộc thẩm
quyền của Viện trưởng VKS, còn Chánh án Tòa án không có thẩm quyền
kháng nghị tái thẩm. Người có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm có thể kháng
nghị một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có HLPL; việc kháng nghị
phải được thể hiện bằng văn bản, nêu rõ lý do của việc kháng nghị và phải còn
thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 295 BLTTHS. Thông qua kháng
nghị tái thẩm, VKS thực hiện hoạt động kiểm sát công tác xét xử của Tòa án.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về kháng nghị và thực tiễn công tác
kháng nghị tái thẩm, chúng tôi cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm về
hình sự là một quyền năng mang tính đặc thù của VKS, do người có thẩm
quyền thực hiện bằng một văn bản pháp lý, trong đó nêu rõ lý do của việc
kháng nghị và đề nghị Hội đồng tái thẩm xét lại bản án, quyết định của Tòa
án đã có HLPL, nhưng có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung của bản án, quyết định đó mà Tòa án không biết được khi ra

bản án hoặc quyết định này, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng
quy định của pháp luật.
1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
(1). Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bao giờ cũng được thể hiện
bằng văn bản
Khác với quy định tại khoản 2 Điều 233 BLTTHS về việc kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm phải được thể hiện bằng văn bản, BLTTHS lại không
quy định về hình thức của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Theo tinh
thần của quy định tại Điều 277 BLTTHS “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm phải nêu rõ lý do và được gửi cho Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định

15
bị kháng nghị, Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm, người bị kết án ” [48] và
khoản 4 Điều 293 BLTTHS “Bản kháng nghị của những người quy định tại
Điều này phải được gửi cho người bị kết án và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị” [48], thì kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm bao giờ cũng thể hiện bằng văn bản. Văn bản kháng nghị phải nêu
được các căn cứ để kháng nghị, trong đó có sự phân tích về các tình tiết của
vụ án liên quan đến nội dung kháng nghị để làm rõ những vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có HLPL hoặc tình tiết mới được phát
hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đó. Từ đó,
người có thẩm quyền quyết định kháng nghị một phần hay toàn bộ bản án hoặc
quyết định đã có HLPL. Đây là văn bản mang tính chất pháp lý, làm cơ sở phát
sinh thủ tục tố tụng đặc biệt, là thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm.
(2). Chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ được thực hiện bởi
những chủ thể có thẩm quyền mà BLTTHS quy định. Thông qua đó, các chủ
thể thực hiện quyền kháng nghị của mình một cách hợp pháp. Theo quy định
tại Điều 275 BLTTHS thì việc kháng nghị giám đốc thẩm do cả Chánh án
Tòa án và Viện trưởng VKS thực hiện; cụ thể là Chánh án TANDTC, Chánh

án TAQS Trung ương, Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án TAQS cấp quân
khu, Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng VKSQS Trung ương, Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh và Viện trưởng VKSQS cấp quân khu, đều có thẩm
quyền kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã
có HLPL [48], nhưng được phân cấp cụ thể. Khác với quy định của
BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã bỏ thẩm quyền kháng nghị giám
đốc thẩm của Phó Chánh án TANDTC và Phó Viện trưởng VKSNDTC. Tuy
nhiên, trong dự thảo sửa đổi BLTTHS lại quy định thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm của những người này đối với bản án, quyết định đã có HLPL
của Tòa án cấp dưới [64, tr.419].

16
Theo Điều 293 BLTTHS thì việc kháng nghị tái thẩm chỉ thuộc thẩm
quyền của Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng VKSQS Trung ương, Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh và Viện trưởng VKSQS cấp quân khu thực hiện
[48]; còn Chánh án Tòa án không có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm.
(3). Đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Mặc dù, BLTTHS không có điều luật nào quy định về đối tượng của
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nhưng theo các Điều 272 và 290
BLTTHS về tính chất của giám đốc thẩm, tái thẩm thì đối tượng của kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có
HLPL. Bản án là văn bản do Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc Hội đồng xét xử
phúc thẩm ban hành nhằm giải quyết một vụ án hình sự cụ thể, trong đó kết
luận về hành vi bị truy tố có phải tội phạm không, người phạm tội là ai, tội
danh, hình phạt, biện pháp chấp hành hình phạt, bồi thường thiệt hại, án phí
Những bản án là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm bao gồm: bản án sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và bản án phúc
thẩm. Theo quy định tại khoản 3 Điều 248 và Điều 240 BLTTHS thì bản án
phúc thẩm có HLPL kể từ ngày tuyên án; còn bản án, quyết định sơ thẩm và
những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị

thì có HLPL kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị [48].
BLTTHS cũng chưa quy định cụ thể về quyết định nào đã có HLPL là
đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, nên trong nghiên cứu
khoa học và thực tiễn áp dụng còn có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tất cả các quyết định của Tòa án có
HLPL đều là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, không kể quyết định
đó là do Hội đồng xét xử, Chánh án, Phó Chánh án hay của Thẩm phán ban
hành [Dẫn theo 37, tr.14].
Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ có quyết định đình chỉ vụ án đã có
HLPL mới là đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm [30, tr.143].

17
Quan điểm thứ ba cho rằng, không phải tất cả quyết định của Tòa án đã
có HLPL đều là đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm mà chỉ một số quyết
định có tính chất như một bản án và những quyết định này theo quy định của
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm mới là đối tượng
của kháng nghị giám đốc thẩm [38, tr.96].
Quan điểm thứ tư cho rằng, các quyết định về hình sự đã có HLPL
được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm: quyết định về áp dụng
pháp luật; quyết định về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt;
quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp như kê biên tạm giữ tài sản, tịch thu
vật và tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm và bồi thường thiệt hại; các
quyết định giám đốc thẩm [12, tr.194].
Nhìn chung các quan điểm trên có nhận thức rất khác nhau về phạm vi
đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm. Theo quan điểm thứ nhất thì đối tượng
của kháng nghị giám đốc thẩm có phạm vi quá rộng; ngược lại quan điểm thứ
hai lại quá hẹp, không phù hợp với thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm; còn
các quyết định theo quan điểm thứ tư đều đã thể hiện trong bản án (trừ quyết
định giám đốc thẩm). Theo chúng tôi, quan điểm thứ ba là phù hợp hơn cả,
nhưng vẫn còn chung chung, chưa nêu được cụ thể quyết định nào đã có

HLPL là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm. Khi nghiên cứu về vấn đề
này, tác giả Nguyễn Văn Hiện cho rằng: “đối tượng kháng nghị giám đốc
thẩm như quy định của BLTTHS là quá rộng dẫn đến việc quá tải cho hoạt
động giám đốc thẩm hoặc bỏ sót nhiều vụ việc nghiêm trọng lẽ ra cần phải
được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm” [21, tr.3].
Qua nghiên cứu quy định của BLTTHS và thực tiễn kháng nghị giám
đốc thẩm, chúng tôi nhận thấy chỉ nên quy định các quyết định của Tòa án đã
có HLPL là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bao gồm:
quyết định đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định

18
giám đốc thẩm và quyết định tái thẩm (trừ quyết định của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC).
(4). Nội dung của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
BLTTHS không có quy định về nội dung của kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm, nhưng qua nghiên cứu thực tiễn công tác này ở TANDTC thì
quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngoài các yếu tố về thể thức
văn bản, còn có các phần chủ yếu như: lý lịch người bị kết án, nhận thấy, xét
thấy và quyết định.
Trong phần lý lịch người bị kết án, kháng nghị phản ánh đầy đủ các vấn
đề thuộc về nhân thân của người đó như: ngày tháng năm sinh, nơi thường
trú, nghề nghiệp, con ai, có vợ, chồng hay con chưa, đặc biệt là có tiền án,
tiền sự hay không, bị tạm giam hay tại ngoại.
Phần nhận thấy tóm tắt nội dung có thật về vụ án, như hoàn cảnh,
nguyên nhân, điều kiện phạm tội; hành vi phạm tội cụ thể của người bị kết án;
hậu quả xảy ra; kết luận của các cơ quan chuyên môn về mức độ tổn hại sức
khỏe của người bị hại, cơ chế hình thành thương tích, nguyên nhân chết
người, giá trị tài sản bị chiếm đoạt Tiếp đó là kết quả giải quyết của Tòa án
cấp sơ thẩm; nội dung kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (nếu có)
và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.

Trong phần xét thấy là những lập luận, đánh giá về các tình tiết của vụ
án phục vụ cho phần quyết định của văn bản kháng nghị, như đánh giá về thủ
tục tố tụng; nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội; hậu quả của vụ án; tính
chất, mức độ của hành vi phạm tội; các tình tiết về tăng nặng, giảm nhẹ, vai trò,
nhân thân của bị cáo trong vụ án; các vấn đề về bồi thường thiệt hại Từ đó, có
nhận định, đánh giá về tội danh, hình phạt, bồi thường thiệt hại mà Tòa án
các cấp đã áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật hay không.
Trên cơ sở những đánh giá, nhận định trong phần xét thấy, người có
thẩm quyền quyết định kháng nghị một phần hay toàn bộ bản án, quyết định

×