Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Hình thức của di chúc theo quy định của bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.76 KB, 94 trang )


1



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








LÊ THỊ DANH









HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2005











LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







Hà Nội năm 2009

4
MỤC LỤC

STT
TÊN MỤC
Trang

Lời cam đoan


Danh mục các thuật ngữ viết tắt


Mở đầu

1
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO
DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC

1.1
Những vấn đề pháp lý cơ bản về thừa kế theo di chúc
6
1.1.1
Một số vấn đề cơ bản về di chúc
6
1.1.2
Thừa kế theo di chúc
12
1.2
Những vấn đề lý luận chung về hình thức di chúc
15
1.2.1
Khái niệm hình thức của di chúc
15
1.2.2
Vai trò của hình thức di chúc đối với việc thực hiện pháp luật
về thừa kế
16
1.2.3
Yêu cầu và các nhân tố tác động đến quy định pháp luật về
hình thức của di chúc
18
1.3
Hình thức của di chúc theo quy định của pháp luật một số

nƣớc trên thế giới
23
1.3.1
Quy định về hình thức của di chúc theo Bộ luật dân sự của
nước Cộng hòa Pháp
23
1.3.2
Quy định về hình thức di chúc theo Bộ luật dân sự Nhật Bản
25
1.3.3
Quy định của Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan về hình
thức của di chúc
26
1.2.4
Quy định về hình thức di chúc theo pháp luật Hoa Kỳ
27

Kết luận Chƣơng 1
32

5
CHƢƠNG 2
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ
HÌNH THỨC DI CHÚC Ở VIỆT NAM

2.1
Hình thức của di chúc theo quy định của Bộ Luật Hồng
Đức
33
2.2

Hình thức của di chúc theo quy định của pháp luật thời
Pháp thuộc
35
2.3
Hình thức của di chúc theo pháp luật Việt Nam trƣớc
năm 2005
36
2.3.1
Hình thức của di chúc theo quy định của Pháp lệnh Thừa kế
năm 1990

36
2.3.2
Hình thức của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự 1995
38
2.4
Hình thức của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
2005
41
2.4.1
So sánh các quy định pháp luật về hình thức di chúc theo Bộ
luật dân sự 1995 và những sửa đổi, bổ sung năm 2005
41
2.4.2
Những bất cập, hạn chế trong việc áp dụng các quy định pháp
luật về hình thức của di chúc
44

Kết luận Chƣơng 2
59









6
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HÌNH THỨC DI
CHÚC TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ PHƢƠNG HƢỚNG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC DI CHÚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1
Thực trạng giải quyết tranh chấp về hình thức di chúc tại
tòa án nhân dân
61
3.1.1
Khái quát tình hình giải quyết tranh chấp về thừa kế tại toà án
61
3.1.2
Những hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp về hình thức
di chúc

63
3.1.3
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại trong quá trình
giải quyết tranh chấp về hình thức di chúc
72

3.2
Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc
trong giai đoạn hiện nay
73
3.2.1
Quan điểm về hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc
trong giai đoạn hiện nay
73
3.2.2
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hình thức di
chúc trong giai đoạn hiện nay
78

Kết luận chung


Danh mục tài liệu tham khảo



7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa kế tài sản là một quan hệ pháp luật dân sự vừa mang tính đạo lý
truyền thống vừa mang tính lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, không phải lúc nào tài
sản thừa kế cũng thuần tuý mang tính lợi ích kinh tế, nó còn ẩn chứa trong đó
những giá trị tinh thần mà sự cao thấp còn do quan niệm và tình cảm của mỗi
người thừa kế đối với người để lại di sản. Chính vì vậy, việc thừa kế tài sản
trong thực tiễn diễn biến rất phức tạp.
Pháp luật dân sự quy định việc thừa kế tào sản có thể thực hiện theo luật

hoặc theo di chúc. Di chúc là sự bày tỏ ý chí của người để lại di sản nhằm
định đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng
của mình cho một hoặc nhiều người sau khi người đó chết. Bộ Luật Dân sự
Việt Nam giành cả một Chương (Chương XXIII) với 28 Điều (từ Điều 646
đến 673) quy định về thừa kế theo di chúc. Trong đó, có quy định về hình
thức di chúc. Mặc dù đã có các quy định về hình thức di chúc nhưng vấn đề
hình thức di chúc vẫn còn nhiều điểm gây tranh luận cả về lý luận lẫn thực
tiễn áp dụng pháp luật.
Qua thực tế hoạt động xét xử, có nhiều vụ án dân sự tranh chấp tài sản
thừa kế liên quan đến Di chúc đặc biệt là hình thức của Di chúc. Người ta tố
cáo nhau đã nguỵ tạo di chúc, lập di chúc giả hoặc thông đồng với người có
trách nhiệm để làm giả di chúc nhằm chiếm đoạt tài sản của người chết hoặc
chiếm đoạt quyền hưởng di sản thừa kế của người khác. Những tranh chấp
này còn dẫn đến nhiều vụ án mạng rất đau lòng khi những người ruột thịt
đánh giết nhau để tranh giành tài sản thừa kế. Vậy, tại sao pháp luật đã quy
định rõ nhưng vẫn xảy ra tranh chấp xung quanh hình thức của Di chúc?
Những vấn đề đã và đang đặt ra cho các nhà làm luật là làm thế nào để
xác định một di chúc hợp pháp:

8
- Tiêu chí xác định người lập di chúc đang ở trong trạng thái minh mẫn,
sáng suốt trong khi lập di chúc là tiêu chí cảm tính của người chứng thực di
chúc?
- Yếu tố nào xác định người lập di chúc hoàn toàn không bị đe doạ hoặc
cưỡng ép (đe doạ, cưỡng ép phải trực tiếp hay là cả gián tiếp)?
- Cách thức công chứng, chứng thực di chúc nói chung và di chúc của
người bị hạn chế về thể chất, người không biết chữ?
- Giá trị thực tế của di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng
thực?
- Việc ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố trong

trường hợp lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc UBND xã, phường, thị
trấn? Người có thẩm quyền công chứng, chứng thực có trách nhiệm gì về sự
trung thực ghi chép đúng, đầy đủ, chính xác ý nguyện bằng lời của người để
lại di chúc? .v.v.và .v.v.
Để giải quyết những bất cập của thực trạng nói trên, đặt ra yêu cầu phải
nghiên cứu sâu về lý luận và thực tiễn các quy định về hình thức di chức theo
pháp luật dân sự Việt Nam.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Hình thức Di chúc theo quy định
của Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều nhà luật học nghiên cứu về vấn đề thừa kế và tài sản thừa kế
theo Bộ Luật dân sự Việt Nam.
Có thể nêu một số công trình đã được công bố trong thời gian gần đây có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài như: “Những quy định chung về
quyền thừa kế trong Bộ Luật dân sự Việt Nam của Thạc sỹ Nguyễn Minh
Tuấn; “Chế định về thừa kế trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam” của Thạc sỹ
Đinh Duy Thanh;”Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt nam theo quy
định của pháp luật từ năm 1945 đến nay” của Tiến sỹ Phùng Trung Tập và

9
đặc biệt là đề tài “Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ Luật Dân sự
Việt Nam” của Tiến sỹ Phạm Văn Tuyết
Kết quả nghiên cứu thể hiện trong những luận án nói trên cho thấy: Các
tác giả tập trung phần lớn vào việc phân tích, trình bày các nội dung của các
quy định có liên quan của Luật thực định về thừa kế nói chung; có chỉ ra một
số cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định pháp luật cũng như một số
vấn đề thực tiễn đặt ra và đề xuất phương hướng khắc phục các quy định pháp
luật về thừa kế; nhưng có thể nói rằng cho đến nay, chưa có một công trình
khoa học pháp lý nào nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về một đề tài có phạm vi hẹp và sâu sắc như đề tài do tác giả lựa

chọn.
Những vấn đề lý luận hoặc là đang bỏ ngỏ hoặc là còn có nhiều ý kiến,
quan điểm khác nhau như:
- Các điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp? Làm thế nào để xác
định đúng đắn điều kiện minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc? Biểu hiện
của hành vi cụ thể hay là cảm tính của người có thẩm quyền chứng thực, công
chứng? Trong khi đó các tranh chấp về thừa kế theo di chúc chỉ phát sinh khi
đến thời điểm mở thừa kế (người để lại di sản thừa kế đã chết)
- Thế nào là di chúc không có giá trị pháp lý vì hình thức trái với quy
định của pháp luật? Trong khi Điều 649 chỉ quy định vẻn vẹn về hình thức di
chúc là : “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được bằng
văn bản thì có thể di chúc miệng ”
Về tổng quan tình hình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề
tài, tác giả chưa có điều kiện thu thập và đánh giá một cách đầy đủ, xin phép
được tiếp tục thu thập và trình bày khi xây dựng và bảo vệ đề cương nghiên
cứu chi tiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ nội dung, cơ sở lý luận và
thực tiễn của các quy định pháp luật về hình thức Di chúc thông qua việc

10
phân tích các quy định của Pháp luật Dân sự hiện hành về Di chúc, hình thức
di chúc, đánh giá thực trạng những tranh chấp dân sự liên quan đến hình thức
di chúc và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc ở
nước ta.
Nhằm mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài dự kiến có các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra như:
+ Khái niệm, đặc điểm hình thức Di chúc;
+ Cơ sở lý luận về hình thức di chúc;

+ Một số vấn đề về công chứng, chứng thực di chúc;
- Đánh giá thực trạng các tranh chấp Dân sự về tài sản thừa kế liên quan
đến hình thức Di chúc.
- Nghiên cứu tham khảo tài liệu của nước ngoài liên quan đến đề tài.
- Đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về hình
thức di chúc.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả vận dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tác giả sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu và có
tính phổ cập như: Phương pháp tiếp cận lịch sử, phương pháp đối chiếu,
phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích kết hợp giải thích và
tổng hợp, khái quát hoá. Đặc biệt, trên cơ sở phân tích các bản án dân sự về
giải quyết các tranh chấp tài sản thừa kế liên quan đến hình thức di chúc sẽ
cho thấy những bất cập hiện nay của pháp luật khi quy định về vấn đề hình
thức di chúc, làm cho đề tài nghiên cứu có tính thực tiễn cao; góp phần đáng
kể làm rõ những lý luận trong quá trình hoàn thiện các quy đinh pháp luật về
hình thức di chúc.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

11
Việc nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của Pháp
luật Dân sự Việt Nam trong khuôn khổ đề tài sẽ không chỉ có ý nghĩa rất quan
trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa rất to lớn trong việc hạn chế các tranh
chấp dân sự liên quan đến hình thức di chúc, hoàn thiện các quy định pháp
luật dân sự về hình thức di chúc.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận về di chúc, thừa kế
theo di chúc và hình thức của di chúc, tạo nền tảng lý luận cho việc phân tích

các quy định pháp luật Việt Nam về hình thức di chúc;
- Luật văn đã khái quát quá trình hình thành và phát triển các quy định
về hình thức di chúc theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đã chỉ
rõ được những bước phát triển trong các quy định pháp luật về di chúc và
hình thức di chúc;
- Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, Luận văn đã đề xuất một
số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 3 chương như sau:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận chung về thừa kế theo di chúc và hình
thức của di chúc
Chƣơng 2. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về hình thức di
chúc ở Việt Nam
Chƣơng 3. Thực trạng giải quyết tranh chấp hình thức di chúc tại toà án
nhân dân và phương hướng hoàn thiện pháp luật về hình thức di chúc ở Việt
Nam hiện nay





12
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO
DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THỪA KẾ THEO
DI CHÚC
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về di chúc và thừa kế theo di chúc
1.1.1.1. Khái niệm di chúc

Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình
thức khác nhau. Trong Kinh Cựu ước – bộ sách lớn nhất, cổ nhất và nguyên
vẹn nhất còn được lưu truyền đến ngày nay, người xưa đã chép lại rằng bản di
chúc của Noe đã được viết bằng tay, rồi được ông đóng con dấu của mình lên
để chứng thực; hay như việc Jacob, bằng lời nói, đã để lại cho Joseph phần tài
sản gấp đôi so với những người con khác của mình [27].
Có thể câu chuyện từ trong kinh sách tôn giáo không thể là một bằng
chứng xác thực cho bất cứ một vấn đề mang tính thực tiễn nào, nhưng ít nhất
từ những mẩu chuyện như thế, ta cũng có thể nhận thấy rằng: ngay trong
lòng thế giới cổ đại, di chúc đã xuất hiện, và xuất hiện với rất nhiều hình thức
đa dạng khác nhau, có thể bằng bản viết tay, cũng có thể chi bằng lời nói.
Điều này là minh chứng cho vị trí, vai trò của di chúc trong đời sống xã hội.
Di chúc là cơ sở quan trọng nhất để thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết và cũng là cơ sở để xác
lập quyền sở hữu di sản của người được hưởng di sản thừa kế đối với di sản
thừa kế.
Trong thực tế cuộc sống tồn tại hai khái niệm “Di chúc” và “Chúc thư”.
Trong thực tế, di chúc được gọi với nhiều thuật ngữ khác nhau như “Di chúc”,
“Chúc thư”, “Chúc ngôn”. Trong đó, “Di chúc” là thuật ngữ dùng để chỉ các
di chúc nói chung, “Chúc thư” là thuật ngữ chỉ về các di chúc viết (di chúc
văn bản), “Chúc ngôn” là thuật ngữ chỉ về các di chúc miệng. Do đó, tất cả
các thuật ngữ này đều là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản

13
của mình cho người khác sau khi chết. Về mặt pháp lý, BLDS 2005 chỉ sử
dụng thuật ngữ Di chúc, không sử dụng trực tiếp thuật ngữ Chúc thư và Chúc
ngôn. Tuy nhiên, BLDS vẫn qui định về Di chúc bằng văn bản và Di chúc
miệng. Theo quy định tại điều 646 Bộ luật dân sự 2005, di chúc được hiểu là
“sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác
sau khi chết”.

Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản định đoạt tài sản của mình
cho người khác sau khi chết. Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện
ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi chúng ta chết”[8].
Luật La Mã quy định trong di chúc không được phép “im lặng bỏ qua”
đối với hàng thừa kế thứ nhất (các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “im
lặng bỏ qua” thì di chúc được coi là vô hiệu cho dù di chúc đó có tuân thủ đầy
đủ các điều kiện khác. Ví dụ ông A có ba người con là B, C, D, ông để lại di
chúc với nội dung: “Tôi cho hai con tôi là B và C mỗi đứa một nửa tài sản”
mà không ghi “truất quyền thừa kế của D” thì di chúc vô hiệu vì đã im lặng
bỏ qua D. Nếu A chết tài sản sẽ được chia theo luật cho B, C, D.
Di chúc được thể hiện dưới hai hình thức: bằng văn bản và bằng lời nói.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói
của dân tộc mình. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe doạ,
do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản,
thì có thể lập di chúc bằng lời nói. Di chúc bằng lời nói chỉ được coi là hợp
pháp, nếu người di chúc bằng lời nói thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước
mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi
chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm lập di chúc
bằng lời nói mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc
bằng lời nói bị huỷ bỏ.
Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau, thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng
nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của

14
người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo
di chúc. Nếu những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc, thì
coi như không có di chúc và di sản được thừa kế theo pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm của di chúc
Theo Điều 646 BLDS 2005, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân

trong việc chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc
có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, di chúc thể hiện ý chí của người để lại di chúc trong việc định
đoạt tài sản của mình. Một trong những ngụyên tắc cơ bản của việc giải quyết
thừa kế theo di chúc là phải tôn trọng ý chí của người để lại di sản. Nếu như
người để lại di sản lập di chúc về việc phân chia di sản cho người khác thì căn
cứ vào nguyện vọng của người để lại di sản được ghi nhận trong bản di chúc,
phần tài sản sẽ phải được ưu tiên phân chia theo ý chí của người để lại di sản.
Đó chính là sự tôn trọng ý chí của người để lại di sản.
Điều 631 Bộ luật dân sự 2005 quy định: Cá nhân có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Mọi cá nhân đều
bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Ý chí của người để lại di sản thừa kế
được thể hiện qua các quyền của người lập di chúc là:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di
sản.
Hai là, di chúc ghi nhận sự chuyển dịch tài sản của người để lại di sản
cho người được hưởng thừa kế sau khi người đó chết.

15
Có thể khẳng định di chúc là một giao dịch dân sự đặc biệt. Bộ luật dân
sự quy định rõ, giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn
phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Một giao dịch dân sự có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại
Điều 122 BLDS. Tính đặc biệt của di chúc được thể hiện ở những khía cạnh

sau đây:
- Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực thực tế khi người để lại di sản thừa kế
chết;
- Việc định đoạt tài sản thừa kế phải tuyệt đối tuân thủ theo nội dung của
di chúc, không được thay đổi hay giải thích nội dung của di chúc;
- Việc kiểm chứng/đối chiếu di chúc là rất khó khăn vì người để lại di
sản thừa kế đã chết.
Ba là, di chúc chỉ được coi là hợp pháp nếu nó đáp ứng đầy đủ các điều
kiện do pháp luật quy định.
Di chúc chứa đựng ý chí đơn phương của người để lại di sản thừa kế. Di
chúc chỉ phát sinh hiệu lực khi người để lại di sản thừa kế chết. Do vậy, luật
pháp yêu cầu di chúc phải đáp ứng những điều kiện nhất định đã được quy
định tại điều 652 Bộ luật Dân sự 2005 thì bản di chúc đó mới được coi là hợp
pháp và chỉ khi là một bản di chúc hợp pháp thì ý chí của người để lại di sản
thừa kế là muốn chuyển dịch tài sản của mình cho ai mới được công nhận và
bảo đảm thực hiện. Trong trường hợp nếu nội dung di chúc không rõ ràng,
hoặc nghi ngờ về tính chính xác thì bản di chúc đó có thể bị huỷ bỏ.
Bốn là, di chúc chỉ có hiệu lực pháp luật từ thời điểm người lập di chúc
chết.
Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất của di chúc với một hợp đồng dân sự.
Nếu hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết hợp đồng thì thời
điểm bắt đầu có hiệu lực của di chúc được xác lập kể từ khi người lập ra nó
chết.
Năm là, Di chúc luôn trong tình trạng có thể bị người lập ra nó huỷ bỏ.

16
Xuất phát từ đặc điểm chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt
khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, do đó, người lập di chúc hoàn toàn
có quyền huỷ bỏ di chúc mà mình đã lập trước đó để định đoạt lại khối tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình. Vì vậy, di chúc đã lập không mang tính cố

định, nó có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào, việc thay đổi này phụ thuộc vào ý
chí của người lập di chúc. Bởi lẽ, di chúc chỉ là hình thức để ghi lại ý chí của
họ. Nói một cách khác đi, người lập di chúc có ý định hình thành quan hệ
thừa kế giữa mình với người có tên trong di chúc.
Sự định đoạt trong di chúc thể hiện ý chí đơn phương, không phụ thuộc
vào một cam kết hay một thoả thuận nào. Do vậy, trong thời gian còn sống,
người lập di chúc có thể thay đổi một, một số hoặc toàn bộ nội dung của di
chúc tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, môi trường, tình cảm hiện tại. Chính vì vậy
pháp luật thừa kế quy định từ thời điểm mở thừa kế, nếu một người để lại
nhiều bản di chúc thì chỉ bản di chúc nào thể hiện ý chí tự nguyện sau cùng
mới được coi là có hiệu lực. Các di chúc lập ra trước đó đều được coi là chưa
từng tồn tại.
Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ
lúc nào. Nếu có người lập nhiều di chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc
trước. Để bảo đảm cho việc thay đổi nội dung di chúc được tiến hành theo
quy định của pháp luật và bảo đảm tính pháp lý của các lần thay đổi, luật pháp
cần quy định chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung di chúc.
Có thể khẳng định rằng, việc xác định các điều kiện có hiệu lực của di
chúc là nội dung quan trọng và truyền thống của chế định thừa kế theo di
chúc. Trước đây, Luật La Mã quy định khá chặt chẽ các điều kiện để một di
chúc có hiệu lực như: người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc (con gái
từ 12 tuổi, con trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng
tội); hình thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết
phải được quan tòa, quan chấp chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy
người làm chứng, người thừa kế phải được chỉ định rõ ràng, chính xác); người

17
được chỉ định trong di chúc phải là người có khả năng trở thành người thừa kế
(thai nhi sinh vào tháng thứ mười một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn bà từ
20 đến 50 tuổi mà không lập gia đình thì không được hưởng thừa kế…).

1.1.1.3. Di chúc hợp pháp và nội dung của di chúc
Đây là nội dung quan trọng nhất trong các quy định về thừa kế theo di
chúc, vì di chúc là căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của người hưởng di
sản thừa kế.
Di chúc hợp pháp:
Phần lớn các tranh chấp liên quan đến thừa kế theo di chúc đều phát sinh
do một trong các bên phủ nhận tính hợp pháp của di chúc. Điều 652 BLDS
quy định rõ điều kiện có hiệu lực của di chúc là:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc không bị
lừa dối đe doạ hay cưỡng ép.
- Nội dung di chúc không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
- Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải lập bằng văn
bản và được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Do vậy, người mắc bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ hành vi của
mình, người dưới 15 tuổi thì không có khả năng hoặc chưa đủ khả năng thể
hiện ý chí trong việc định đoạt tài sản của mình bằng việc lập di chúc, pháp
luật không cho phép những người này lập di chúc thông qua người đại diện
theo pháp luật.
- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.
Nội dung của di chúc:
Cùng với quy định di chúc hợp pháp, BLDS nước ta cũng quy định cụ
thể nội dung di chúc và các trường hợp phát sinh. Đây là căn cứ pháp lý để
xác định nội dung của di chúc

18
Theo Điều 653 của BLDS 2005, di chúc bằng văn bản phải thể hiện các
nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm lập di chúc.

- Họ tên và nơi cư trú của người lập di chúc.
- Họ tên cơ quan, tổ chức, người hưởng di sản.
- Di sản để lại và nơi có di sản.
- Việc chỉ định thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
Di chúc không được viết tắt hoặc bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều
trang thì mỗi trang phải đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người
lập di chúc để tránh trường hợp tự ý thay đổi nội dung di chúc bằng việc đánh
tráo các trang không có chữ ký hoặc điểm chỉ trái với ý chí của người lập di
chúc.
1.1.2. Thừa kế theo di chúc
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công
dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và
bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa
với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do
đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập
quán,tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không
ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo
một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa
hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến
cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm
sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có.
Theo quan điểm của Ăng- ghen: thừa kế “là sự chuyển dịch tài sản của
người chết cho người còn sống”. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản
của người chết để lại theo một trình tự do pháp luật quy định. Pháp luật cho
phép những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải thực
hiện những nghĩa vụ tài sản của người chết.

19
Với tư cách là một chế định của Luật dân sự, thừa kế là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người

khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Thừa kế theo quan hệ
pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của
cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức, có quyền hưởng thừa kế; người
thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di chúc hay theo pháp luật (riêng
đối với đất đai là thừa kế quyền sử dụng). Sự chuyển dịch di sản của người
chết sang người sống sẽ được thực hiện theo hai căn cứ: i) Nếu căn cứ theo ý
chí, nguyện vọng của người chết thì được gọi là thừa kế theo di chúc; ii) Nếu
căn cứ theo các qui định của pháp luật thì được coi là thừa kế theo pháp luật.
Điều này cũng tương đồng với Luật La Mã.
Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc
(testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra hình thức thừa kế theo lệnh
của các quan cũng được thừa nhận trên thực tế. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ
yếu là thừa kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở nên phổ biến hơn.
Trên cơ sở quy định tại Điều 632 BLDS 2005 có thể khẳng định: mọi cá
nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác, trên cơ
sở tôn trọng quyền sở hữu tài sản của cá nhân đối với thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng Bên cạnh đó, mọi
cá nhân đều có quyền để lại tài sản thuộc sở hữu của mình thông qua việc lập
di chúc hoặc để lại thừa kế cho những người thừa kế theo pháp luật. Bên cạnh
quyền để lại tài sản theo pháp luật cũng quy định bình đẳng về quyền thừa kế
theo di chúc hoặc theo pháp luật. Pháp luật dân sự quy định như vậy nhằm
xóa bỏ sự bất bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế, trong việc để lại di
sản do xã hội phong kiến để lại, đảm bảo quyền thừa kế được thực hiện trên
thực tế, củng cố và phát triển tình đoàn kết thương yêu trong nội bộ gia đình.
Một trong những vấn đề quan trọng của pháp luật về thừa kế là thời điểm
mở thừa kế. Khoản 1 Điều 633 BLDS 2005 quy định: Thời điểm mở thừa kế
là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một

20
người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2

Điều 81 của Bộ luật Dân sự.
Như vậy, thời điểm mở thừa kế là thời điểm cá nhân có tài sản thuộc sở
hữu của mình chết. Trong trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết
thì thời điểm mở thừa kế được quy định theo hướng mở để tạo điều kiện cho
tòa án xác định một người là đã chết. Theo quy định tại Điều 81 Bộ luật dân
sự 2005, người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết
định tuyên bố một người là đã chết trong các trường hợp sau đây: a) Sau ba
năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp
luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; b) Biệt tích trong chiến
tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức
xác thực là còn sống; c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm,
kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức
xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; d) Biệt tích
năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này
được tính theo quy định tại khoản 1 Ðiều 78 của Bộ luật này. Tùy từng trường
hợp, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào
các trường hợp quy định tại khoản 1 Ðiều này. Đây là vấn đề cần phải làm rõ
trong việc xác định thời điểm mở thừa kế cũng như xác định tính pháp lý của
di chúc trong trường hợp người bị tuyên bố là đã chết có để lại di chúc.
Trên thực tế, nhiều trường hợp những người được hưởng di sản thừa kế
của nhau như cha - con, vợ - chồng, mà chết cùng một thời điểm hoặc được
coi là chết cùng một thời điểm thì pháp luật quy định: Trong trường hợp
những người được hưởng thừa kế di sản của nhau mà chết cùng một thời điểm
hoặc được coi chết cùng một thời điểm không xác định được người nào chết
trước, chết sau thì những người đó không được hưởng di sản thừa kế của
nhau, phần di sản của người nào sẽ do những người thừa kế của người đó
hưởng (Điều 641 BLDS 2005) do đó, việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý
nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề về thừa kế theo di chúc. Cụ

21

thể là:
* Xác định đi sản, thông thường, người lập di chúc xác định toàn bộ tài
sản thừa kế của mình trong di chúc. Tuy nhiên, có thể do thời điểm lập di
chúc cách xa với thời điểm người đó chết và dẫn đến sự biến động về tài sản
của người đó nhưng họ vẫn không xác định lại tài sản đã liệt kê. Trong các
trường hợp này, tài sản thừa kế được xác định trong di chúc với số tài sản
thực còn vào thời điểm mở thừa kế là khác nhau. Vì vậy, thời điểm mở thừa
kế là mốc thời gian để xác định số di sản thừa kế mà người lập di chúc để lại
sau khi chết.
* Xác định người thừa kế bởi vì pháp luật quy định cá nhân phải còn
sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra còn sống sau thời điểm mở thừa
kế nhưng đã thành thai trước thời điểm này; tổ chức phải còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế.
Thủ tục xác định thời điểm mở thừa kế dựa trên giấy chứng tử của cơ
quan có thẩm quyền hoặc bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật xác định
một người là đã chết.
Thừa kế theo di chúc là việc để lại di sản và việc hưởng di sản theo ý chí
của người chết được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói của người đó
trước khi chết. Thừa kế theo di chúc là một trong hai hình thức thừa kế nhằm
bảo đảm cho cá nhân trước khi chết định đoạt tài sản của mình theo ý muốn
của người đó, tuy nhiên sự định đoạt đó chỉ hợp pháp khi đảm bảo các điều
kiện do pháp luật quy định.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH THỨC CỦA
DI CHÚC
1.2.1. Khái niệm hình thức của di chúc
Hình thức của di chúc có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực thi ý chí
của người lập di chúc. Mong muốn của người để lại di sản thừa kế chỉ được
ghi nhận khi nó thể hiện rõ ràng về mặt nội dung và dưới những hình thức
pháp lý theo quy định của pháp luật.


22
Ngày nay, mỗi nhà nước, mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới lại có
những quy định khác biệt về cùng một vấn đề của quan hệ pháp luật dân sự là
hình thức của di chúc. Sự đa dạng của hình thức di chúc bắt nguồn từ sự
phong phú và đa dạng của cuộc sống con người, từ truyền thống lịch sử của
mỗi quốc gia hay từ đặc điểm riêng biệt của mỗi xã hội. Do đó, nhìn nhận
đúng đắn khái niệm hình thức di chúc có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
hoạt động lập pháp cũng như áp dụng pháp luật vào giải quyết các vấn đề phát
sinh từ di chúc – một vấn đề không chỉ là những quy định pháp lý đơn thuần
mà còn là vấn đề mang ý nghĩa đạo đức truyền thống sâu sắc. Bởi lẽ, các quy
định pháp luật về hình thức di chúc không rõ ràng, không chặt chẽ sẽ trở
thành nguyên nhân của những bất ổn xã hội, ảnh hưởng đến truyền thống tốt
đẹp của từng quốc gia.
Theo hiểu biết chung, hình thức của di chúc là sự biểu hiện ý chí của
người để lại di sản thừa kế ra bên ngoài thế giới khách quan, chứa đựng nội
dung di chúc theo một trình tự, kết cấu nhất định. Hình thức di chúc là
phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc; là căn cứ pháp lý làm
phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho
người được chỉ định trong di chúc””[17,331]
Bộ luật Dân sự quy định di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không
thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Người thuộc
dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc
mình.
1.2.2. Vai trò của hình thức di chúc đối với việc thực hiện pháp luật
về thừa kế
Thứ nhất, hình thức của di chúc là cơ sở xác định cá nhân người thừa kế
phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Điều 635-BLDS 2005 qui định "
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế "
Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản giữa
người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên phải là


23
người còn sống. Việc dịch chuyển di sản từ người chết này sang người chết
khác là không thực hiện được. Tiếp đó là việc người còn sống đó phải còn
sống ở thời điểm mở thừa kế. Có thể người thừa kế đã chết nhưng khi mở
thừa kế thì ông ta còn sống hoặc đã chết hay mất tích nhưng chưa bị tuyên bố
là đã chết hoặc ngày tuyên bố nguời đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó
ông ta việc chuyển giao di sản cho ông ta vẫn được thực hiện và nó sẽ được
tính vào tài sản của người đó. Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố là
đã mất tích hoặc chết nhưng sau đó người đó còn sống trở về thì người đó vẫn
được coi là còn sống và được quyền hưởng di sản sau khi tòa án hủy bỏ tuyên
bố mất tích hoặc đã chết.
Thứ hai, di chúc là căn cứ xác định quyền và nghĩa vụ tài sản của người
nhận di sản thừa kế do người chết để lại. Quyền luôn luôn đi kèm với nghĩa
vụ. Do đó những người thừa kế có quyền thừa hưởng di sản để lại từ người
chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, phần di sản họ được hưởng có thể bằng
nhau hoặc không bằng nhau tùy theo ý chí của người chết. Đồng thời họ có
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo điều 637-BLDS
2005, nghĩa vụ tài sản họ phải thực hiện sẽ tùy theo phần mà họ được hưởng.
Nếu người thừa kế khước từ hoặc không được nhận phần di sản để lại của
người chết thì họ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết.
Thứ ba, hình thức của di chúc là một trong những căn cứ để xác định
tính hợp pháp của di chúc và giải quyết các vấn đề khác liên quan đến thừa kế
Bộ luật dân sự Việt Nam cũng như các nước khác đều yêu cầu di chúc
phải được thể hiện dưới hình thức nhất định, chỉ khi di chúc được thể hiện
dưới hình thức nhất định thì chúng ta mới xác định được chính xác nội dung ý
chí của người để lại di sản thừa kế. Đã có nhiều tranh chấp liên quan đến thừa
kế theo di chúc, mà trong đó xem xét tính hợp pháp của di chúc, phủ nhận di
chúc là rất phổ biến. Điều này cũng là tất yếu, bởi lẽ, thông qua di chúc, việc
định đoạt tài sản của người để lại di chúc là rõ ràng nhất, có liên quan trực


24
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người có tên trong di chúc cũng như
những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác.
1.2.3. Yêu cầu và các nhân tố tác động đến quy định pháp luật về
hình thức của di chúc
1.2.3.1. Yêu cầu của quy định pháp luật về hình thức di chúc
Một trong những điểm cần lưu ý đối với pháp luật về thừa kế theo di
chúc đó là người lập di chúc thường chủ động trong việc lập di chúc căn cứ
vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để lập di chúc định đoạt tài sản của mình
sau khi chết. Do đó, pháp luật về hình thức di chúc phải tạo điều kiện thuận
lợi cho người lập di chúc trong việc tự do thể hiện ý chí và nguyện vọng của
mình thông qua nội dung cũng như hình thức của di chúc.
Pháp luật Việt nam cũng như các nước thường quy định hình thức của di
chúc dưới hai dạng phổ biến, đó là viết (văn bản) và hình thức lời nói (di chúc
miệng) Tuy vậy, pháp luật các nước thường quy định rất chặt chẽ đối với
hình thức di chúc miệng vì việc giải quyết thừa kế theo di chúc ở mức độ nhất
định có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của người có liên quan đến
người lập di chúc.
Thứ nhất, để hạn chế đến mức thấp nhất các tranh chấp phát sinh từ
hình thức của di chúc, pháp luật về thừa kế theo di chúc cần xác định cụ thể
tiêu chí về trạng thái minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc, vì đây là vấn
đề quan trọng nhất khi giải quyết tranh chấp về hình thức của di chúc. Bởi lẽ,
hiệu lực của di chúc chỉ phát sinh khi người lập di chúc chết nên việc “đối
chứng” về trạng thái minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc là điều không thể
thực hiện được. Trên thực tế, nhiều vụ tranh chấp đã xảy ra liên quan đến việc
người thừa kế tố cáo nhau đã ngụy tạo di chúc, lập di chúc giả hoặc thông
đồng với người có trách nhiệm để làm di chúc giả nhằm chiếm đoạt tài sản
của người chết hoặc chiếm đoạt di sản thừa kế của người khác. Những tranh
chấp này đã dẫn đến những vụ án mạng đau lòng khi những người ruột thịt có

hành vi xâm hại tính mạng, sức khỏe của nhau để tranh giành tài sản thừa kế.

25
Đây là nguyên nhân giải thích vì sao pháp luật về hình thức di chúc đã được
quy định cụ thể rõ ràng mà vẫn xảy ra tranh chấp.
Thứ hai, liên quan đến các quy định công chứng, chứng thực di chúc,
đặc biệt là việc lập di chúc của người bị hạn chế về thể chất, người không biết
chữ; việc xác định giá trị thực tế của di chúc bằng văn bản không có công
chứng, chứng thực; việc ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên
bố trong trường hợp lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc uỷ ban nhân dân
cấp xã Vì đây là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các
tranh chấp về hình thức của di chúc.
Thứ ba, về hình thức của di chúc cần phải làm rõ là người lập di chúc
thường xuyên nhắc nhở về việc phân chia di sản khi còn sống có được coi là
di chúc miệng hay không? Vì trên thực tế đã có nhiều trường hợp phân chia di
sản thừa kế bằng lời nói khi còn sống.
Về nội dung này, theo chúng tôi, để xác định việc tuyên bố của người để
lại di sản thừa kế khi còn sống cần căn cứ vào những yếu tố sau đây:
- Người để lại di sản thừa kế phải thường xuyên đề cập đến nội dung
phân chia di sản;
- Những người được hưởng di sản thừa kế không có khiếu nại gì về việc
phân chia di sản;
- Có sự làm chứng của những người sống xung quanh là người để lại di
sản thừa kế đã tuyên bố như vậy.
Như vậy, việc bảo đảm tính thuận tiện cho các quy định pháp luật về
hình thức của di chúc có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là việc bảo đảm cho hình
thức di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực theo quy định của
pháp luật. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người lập di chúc, kể cả đối với
những người không biết chữ, pháp luật cần quy định theo hướng mở, tôn
trọng tối đa quyền tự định đoạt của người lập di chúc.

Bên cạnh tính thuận tiện cho người lập di chúc, pháp luật về hình thức di
chúc còn phải bảo đảm tính đa dạng, đáp ứng các yêu cầu, nguyện vọng khác

26
nhau của người lập di chúc. Cụ thể, trong các quy định pháp luật hiện hành
của nước ta mới chỉ ghi nhận hai hình thức cơ bản là di chúc bằng văn bản và
di chúc miệng. Theo pháp luật các nước, các hình thức di chúc bí mật, di chúc
được ghi âm, ghi hình cũng được coi là những hình thức di chúc khá phổ biến
hiện nay. Nhiều người không muốn lập di chúc bằng văn bản hoặc công
chứng, chứng thực vì họ sợ ảnh hưởng đến việc định đoạt và thể hiện ý chí
của mình trong nội dung của di chúc. Việc ghi nhận tính đa dạng của các hình
thức di chúc kết hợp với các điều kiện pháp lý cụ thể đối với từng hình thức di
chúc sẽ tạo thuận lợi cho người lập di chúc trong việc tự do thể hiện ý chí của
mình đối với phần di sản thừa kế.
1.2.3.2. Các nhân tố tác động đến pháp luật về hình thức của di chúc
Pháp luật ghi nhận hình thức của di chúc chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân
tố khác nhau trong đó phải kể đến một số các nhân tố điển hình có tác động
trực tiếp đến sự phát triển của pháp luật về thừa kế nói chung cũng như là
pháp luật về hình thức của di chúc nói riêng:
Thứ nhất, trình độ phát triển của pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Pháp luật dân sự cũng như pháp luật thừa kế đã được hình thành từ rất
sớm. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc, về hình
thức của di chúc cũng ngày càng được kế thừa và hoàn thiện cho phù hợp với
nhu cầu của con người và sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, trình độ phát
triển của pháp luật về thừa kế sẽ có những tác động tích cực đến việc hoàn
thiện các quy định pháp luật về hình thức di chúc.
Thứ hai, trình độ nhận thức của người dân và truyền thống đạo đức của
dân tộc.
Là nước coi trọng đại hiếu, người Việt Nam thường không đề cập đến
vấn đề thừa kế khi người lập di chúc còn sống. Người lập di chúc không

muốn lập di chúc sớm hoặc có nhiều người quan niệm việc để lại di chúc
không cần phải viết quá chi tiết hoặc “sòng phẳng” vì nó liên quan đến tình
cảm của những người thân trong gia đình.

27
Nhận thức được điều này, dù di chúc được biểu hiện dưới những hình
thức nào thì ý chí của người để lại di sản phải được thể hiện một cách chi tiết,
rõ ràng và cụ thể.
Thứ ba, trình độ khoa học công nghệ
Ngày nay, sự phát triển của khoa học công nghệ cho phép con người thể
hiện ý chí của mình dưới nhiều dạng thức khác nhau, trong đó có chứa đựng
những nội dung là “ý chí cuối cùng của người lập di chúc trong việc định đoạt
tài sản của mình”, như thể hiện trong các trang Blog cá nhân, trong trang thư
điện tử riêng của mình thì cần phải được coi một dạng của hình thức di
chúc.
Việc thừa nhận này là hoàn toàn có cơ sở, bởi lẽ, hình thức văn bản dạng
thư điện tử đã được thừa nhận trong các quy định định luật Việt Nam, nhất là
trong quan hệ thương mại.
Như vậy, sự phát triển của khoa học công nghệ đã mở rộng cách hiểu
hình thức của di chúc, đòi hỏi các quy định pháp luật phải thừa nhận nó, song
thừa nhận ở mức độ như thế nào thì cần phải được cân nhắc thận trọng, bởi
nếu không thì khó có thể xác định được chính xác hình thức của di chúc.
1.2.3.4. Các hình thức của di chúc
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, có hai loại hình thức của di chúc
đó là di chúc miệng và di chúc bằng văn bản.
- Di chúc miệng: Di chúc miệng là hình thức di chúc được lập trong
trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các
nguyên nhân khác (tai nạn, rủi ro) mà không thể lập di chúc bằng văn bản.
Sau 3 tháng kể từ ngày lập di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống,
minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng đương nhiên bị huỷ bỏ.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp khi nó đảm bảo các điều kiện sau:
+ Phải là sự thể hiện ý chí cuối cùng của người để lại di sản trước mặt ít
nhất hai người làm chứng.

×