Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

ÁP dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 96 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THANH





ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VỀ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC
TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THANH




ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VỀ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC
TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập






HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC
4
1.1.
Tổng quan về di chúc theo pháp luật dân sự
4

1.2.
Điều kiện có hiệu lực của di chúc
5
1.2.1.
Di chúc do cá nhân lập
5
1.2.1.1.
Điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp
5
1.2.1.2.
Những yêu cầu khác đối với di chúc
15
1.2.2.
Hiệu lực của di chúc
18
1.2.2.1.
Thời điểm có hiệu lực của di chúc 19

1.2.2.2.
Xác định mức độ có hiệu lực của di chúc
22
1.2.3.
Hiệu lực di chúc chung của vợ chồng
27
1.2.4.
Những hạn chế về quyền định đoạt của người lập di chúc
(theo Điều 669 Bộ luật Dân sự)
32

Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ HIỆU LỰC CỦA

DI CHÚC TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
37
2.1.
Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp về thừa kế
theo di chúc
37
2.2.
Các trường hợp tranh chấp về thừa kế theo di chúc và
nguyên nhân của nó
41
2.2.1.
Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc
41
2.2.2.
Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế
theo di chúc
43
2.2.3.
Tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc với nhau
45
2.3.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di chúc
45
2.3.1.
Tranh chấp về hiệu lực của di chúc do di chúc miệng nhưng
không có hai người làm chứng ghi chép như quy định, tuy là
di chúc có điều kiện nhưng Tòa án vẫn xử theo di chúc
46
2.3.2.
Tranh chấp về hiệu lực của di chúc miệng và di chúc bằng

văn bản
48
2.3.3.
Tranh chấp di sản do các thừa kế có ý kiến khác nhau về
di chúc
51
2.3.4.
Tranh chấp về hiệu lực của di chúc do di chúc đã lập không
đúng thủ tục mà pháp luật quy định
53
2.3.5.
Tranh chấp do người lập di chúc đã định đoạt cả tài sản của
người khác
55
2.3.6.
Tranh chấp thừa kế do di chúc bị hư hỏng không xác định
được nội dung
56
2.3.7.
Tranh chấp di sản thừa kế do người làm chứng di chúc
không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
57

Chương 3: HƯỚNG HOÀN THIỆN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HIỆU
LỰC CỦA DI CHÚC
60
3.1.
Về vấn đề nội dung của di chúc
60
3.1.1.

Về quyền của người lập di chúc
60
3.1.2.
Về quyền thừa kế
61
3.1.3.
Về người không được quyền hưởng di sản
62
3.1.4.
Về người thừa kế
63
3.2.
Về vấn đề hình thức của di chúc
64
3.2.1.
Về việc từ chối nhận di sản của người thừa kế
64
3.2.2.
Về sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với việc
lập di chúc của người tròn mười lăm tuổi nhưng chưa đủ
mười tám tuổi
65
3.2.3.
Đối với di chúc có chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu
66
3.2.4.
Về người làm chứng
67
3.2.5.
Về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

67
3.2.6.
Về di chúc có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc
chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
68
3.2.7.
Quy định lại các loại di chúc
69
3.3.
Về hiệu lực của di chúc
70
3.3.1.
Về thời điểm mở thừa kế và thời điểm có hiệu lực của di chúc
70
3.3.2.
Về mức độ hiệu lực của di chúc
71
3.3.3.
Bỏ Điều 660 Bộ luật Dân sự: Di chúc bằng văn bản có giá
trị như di chúc được công chứng, chứng thực
72
3.3.4.
Về thay thế di chúc
72
3.3.5.
Về di chúc bị thất lạc, hư hại
73
3.3.6.
Về việc giải thích di chúc
74

3.4.
Hiệu lực di chúc chung vợ chồng
75
3.4.1.
Về những định hướng chung
75
3.4.2.
Các kiến nghị cụ thể
78
3.5.
Về Điều 669 của Bộ luật Dân sự: Cách tính 2/3 của một suất
thừa kế theo pháp luật
86
3.6.
Sự thống nhất giữa văn bản luật và văn bản hướng dẫn thực
hiện luật
88

KẾT LUẬN
89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự
Việt Nam. Khi xã hội càng phát triển, các mối quan hệ kinh tế và xã hội cũng
phát triển đa dạng, nếu như trước đây vấn đề thừa kế được điều chỉnh bởi các

quy phạm đạo đức, phong tục tập quán thì hiện nay đã chịu sự điều chỉnh trực
tiếp của các quy phạm pháp luật về thừa kế.
Chế định thừa kế tuy là một chế định khá hoàn chỉnh trong Bộ luật Dân
sự năm 2005 nhưng vẫn còn có những thiếu sót, hạn chế. Theo thống kê của
ngành Tòa án trong những năm gần đây, số vụ việc tranh chấp về thừa kế luôn
có số lượng lớn và phức tạp trong các tranh chấp về dân sự - điều này là hoàn
toàn bình thường trong giai đoạn quá độ chuyển giao giữa hai thời kỳ cũ và
mới như ở Việt Nam. Hoàn thiện các quy định về thừa kế là cơ sở để luật đi
vào thực tiễn đời sống, là căn cứ để giải quyết các vấn đề liên quan đến thừa kế.
2, Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện nay đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về thừa kế được công bố. Các công trình khoa học này thường tập trung
nghiên cứu một vấn đề trong thừa kế như: thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo
di chúc, về di sản thừa kế, thừa kế thế vị, về người thừa kế không được hưởng
di sản,…
Các công trình tiêu biểu có thể kể đến là: "Thừa kế theo pháp luật của
công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay", của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, Nhà
xuất bản Tư pháp, 2004; "Luật Thừa kế Việt Nam", của Tiến sĩ Phùng Trung
Tập, Nhà xuất bản Hà Nội, 2008; "Hoàn thiện quy định về thừa kế trong Bộ
luật Dân sự", của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật học, số Đặc san về
sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự, tháng 11/2003); "Di chúc và vấn đề hiệu lực
của di chúc", của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật học, số 6/1995; "Di
sản thừa kế và thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế", của
Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Tạp chí Luật học, số 11/2007;…
Những công trình nói trên chỉ đề cập đến các vấn đề theo hướng
nghiên cứu cụ thể mà chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện vấn đề: Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn
xét xử của Tòa án. Do vậy, học viên chọn đề tài Áp dụng pháp luật dân sự về
hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án để làm luận văn Cao
học Luật của mình với tính chất chuyên sâu và không có sự trùng lặp với bất

kỳ công trình khoa học nào khác về vấn đề này đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài
* Mục đích:
Luận giải để chứng minh những điểm hoàn thiện và chưa hoàn thiện
của quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc.
Vấn đề áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực
tiễn xét xử của Tòa án: những vướng mắc, khó khăn,
Đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung để góp phần hoàn thiện các quy định
về điều kiện có hiệu lực của di chúc.
* Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có nhiệm vụ phân tích những quy định phù hợp, chưa phù
hợp hoặc chưa đồng bộ của Bộ luật Dân sự với các quy định hướng dẫn thực
hiện Luật; Thống kê những tranh chấp, khó khăn vướng mắc trong quá trình
áp dụng các quy định pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc thừa kế. Qua
đó đưa ra được những giải pháp hoàn thiện.
* Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn chỉ nghiên cứu và phân tích các điều kiện có hiệu lực của di
chúc theo pháp luật Việt Nam.
4. Phương pháp tiếp cận vấn đề
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành;
coi trọng phương pháp kết hợp lôgic với lịch sử, tổng hợp, so sánh, phương
pháp chuyên gia; tổng kết thực tiễn,
5. Những điểm mới của luận văn
Trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của những quy định pháp luật về
điều kiện có hiệu lực của di chúc, luận văn đề cập đến thực trạng áp dụng
pháp luật giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, qua đó đề xuất hướng
hoàn thiện của pháp luật về hiệu lực di chúc. Luận văn sẽ bám sát thực tế áp
dụng luật - cụ thể là việc áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc
trong thực tiễn xét xử của Tòa án để đưa ra nhận xét cụ thể hơn về tình hình

thực hiện pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc, góp phần hoàn thiện
chế định thừa kế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các điều kiện có hiệu lực của di chúc
Chương 2: Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong
thực tiễn xét xử của Tòa án
Chương 3: Hướng hoàn thiện của pháp luật về hiệu lực của di chúc.

Chương 1
CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC

1.1. Tổng quan về di chúc theo pháp luật dân sự
Điều 646 Bộ luật Dân sự quy định: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của
cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết" [17].
Di chúc còn được gọi là chúc thư do cá nhân còn sống tự nguyện lập
ra với mục đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người
còn sống khác, sau khi người lập di chúc chết. Người lập di chúc dựa vào ý
chí và tình cảm của mình (mang tính chủ quan) định đoạt cho người khác
được hưởng di sản sau khi qua đời. Do tính chất chủ quan của ý chí và mục
đích chuyển dịch tài sản của người lập di chúc cho người khác hưởng sau khi
chết đã phản ánh tính độc lập và tự định đoạt của người lập di chúc.
Di chúc theo quy định của pháp luật dân sự phải nhằm chuyển tài sản
của người lập di chúc cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Xét về
tính chất của giao dịch dân sự, di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phường, hoàn
toàn độc lập, tự định đoạt ý chí của cá nhân người lập di chúc mà không có
bất kỳ ý kiến của ai, do vậy di chúc là giao dịch dân sự một bên. Giao dịch
này là loại giao dịch đặc biệt, tuy các điều kiện của chủ thể lập di chúc, ý chí
của chủ thể, nội dung và hình thức của di chúc đều phù hợp với quy định của

pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc nhưng di chúc chỉ phát sinh
hiệu lực thi hành sau khi người để lại di chúc chết.
Người được hưởng thừa kế theo di chúc chỉ có quyền nhận tại sản của
người lập di chúc kể từ khi người lập di chúc chết. Người thừa kế theo di chúc
nhận di sản và là chủ sở hữu của di sản được hưởng và thừa kế theo di chúc là
căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của người thừa kế.
Tuy nhiên, di chúc thể hiện ý chí chủ quan của người lập, do đó ý định
của người lập di chúc nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi
chết có thể không thể thực hiện được do tài sản được định đoạt trong di chúc
đã không còn vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di chúc đó hoặc
những người thừa kế được chỉ định thừa kế theo di chúc đã chết trước, chết
cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều không có quyền hưởng di
sản,… tại các trường hợp này, mục đích nhằm chuyển tài sản của người lập di
chúc cho người thừa kế không đạt được. Phần của di chúc không thể thực hiện
được là phần di chúc vô hiệu.
1.2. Điều kiện có hiệu lực của di chúc
1.2.1. Di chúc do cá nhân lập
Di chúc là một loại giao dịch đặc biệt, chỉ có hiệu lực khi người lập ra
nó đã chết nên việc lập di chúc không thể thực hiện bằng cách ủy quyền cho
người khác thay mình lập. Trước hết, di chúc muốn được coi là hợp pháp thì
phải đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch đã được quy định tại
Điều 122.
Ngoài ra, nó còn phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của di chúc,
quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự.
1.2.1.1. Điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp
a) Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể
Người lập di chúc theo quy định tại Điều 647 Bộ luật Dân sự phải là
người từ đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 có thể lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng
ý. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc.

Pháp luật nước ta công nhận người từ đủ mười tám tuổi trở lên là
người thành niên. Vì vậy không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo,…người
từ đủ mười tám tuổi không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không
thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình đều có quyền lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế. Lập di chúc là việc chủ sở hữu
tài sản quyết định chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho những người cụ
thể sau khi mình chết. Điều đó đòi hỏi người lập di chúc phải có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, có sự phù hợp giữa nhận thức lý trí của một người với
hành vi mà họ thực hiện.
Theo quy định của pháp luật thì người đã thành niên có quyền lập di
chúc (trừ những người không có năng lực hành vi dân sự) nhưng pháp luật lại
không quy định rõ người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại
Điều 23 Bộ luật Dân sự "Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền,
lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên
bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự" khi lập di chúc có phải hỏi ý
kiến và phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người đó
hay không? Vì theo khoản 2 Điều 23 Bộ luật Dân sự quy định: " giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày" [17].
Như vậy, nếu theo quy định tại khoản 1 Điều 647 Bộ luật Dân sự thì
những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 23 Bộ
luật Dân sự vẫn có quyền lập di chúc với tư cách của người có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, nếu xét theo quy định tại khoản 1 Điều 647 Bộ
luật Dân sự thì: một người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã bị hạn
chế theo bản án có hiệu lực pháp luật thì khi người đó xác lập giao dịch dân
sự phải có sự đồng ý của người đại diện. Như vậy, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự theo bản án có hiệu lực, khi lập di chúc mà không có sự đồng
ý của người đại diện theo pháp luật thì di chúc do người đó lập ra có hiệu lực

hay không có hiệu lực pháp luật? Không thống nhất về cách hiểu sẽ gây ra
những sai sót trong việc xác định chủ thể có quyền lập di chúc và tính hợp
pháp khi định đoạt ý chí của người lập di chúc.
Về nguyên tắc, chỉ những người đủ mười tám tuổi trở lên mới có quyền
lập di chúc. Tuy nhiên, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
(người có năng lực hành vi dân sự một phần) - dù chưa thành niên nhưng đã có
sự nhận thức nhất định, trong một số trường hợp, họ có thể đã có tài sản riêng, có
thể lập di chúc nhưng với điều kiện là "lập thành văn bản và phải được cha, mẹ
hoặc người giám hộ đồng ý". Sự đồng ý này chưa được một văn bản pháp luật
nào quy định hay giải thích cụ thể nên có nhiều cách hiểu khác nhau.
Theo ý kiến cá nhân em, sự đồng ý ở đây được hiểu là sự đồng ý cho
họ lập di chúc. Còn về nội dung di chúc, họ được toàn quyền quyết định. Vì
nếu hiểu theo nghĩa: sự đồng ý với việc định đoạt trong nội dung của di chúc
thì vô hình chung, pháp luật đã can thiệp đến quyền định đoạt, đến ý chí tự
nguyện của người lập di chúc - trong khi ý chí tự nguyện là một trong những
điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp.
Tuy nhiên, để có sự rõ ràng, thống nhất trong cách hiểu của người
dân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải có quy định cụ thể: Sự
đồng ý hay không đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với việc lập di
chúc của người từ tròn mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được
thể hiện trước khi di chúc được lập bằng một văn bản riêng. Nếu di chúc đã
được lập mà những người nói trên không có ý kiến gì thì coi như họ đã đồng
ý cho lập và vì vậy, di chúc được coi là hợp pháp. Cha, mẹ hoặc người giám
hộ có quyền giám sát và chỉ có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố di
chúc vô hiệu nếu họ phát hiện có hành vi lừa dối, cưỡng ép người chưa thành
niên trong việc lập di chúc mà không được tự mình hủy bỏ di chúc.
b Người lập di chúc tự nguyện
Tự nguyện hiểu theo nghĩa khái quát: là việc thực hiện theo ý mình,
do mình mong muốn, không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ chủ thể nào khác.
Người lập di chúc phải tự nguyện khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa

hoặc cưỡng ép.
Tự nguyện của người lập di chúc được hiểu là sự thống nhất giữa ý
chí và sự bày tỏ ý chí của họ. Sự thống nhất trên chính là sự thống nhất giữa
mong muốn chủ quan - mong muốn bên trong của người lập di chúc với hình
thức thể hiện ra bên ngoài sự mong muốn đó. Vì vậy, việc phá vỡ sự thống
nhất giữa mong muốn bên trong và việc thể hiện ra bên ngoài làm mất đi tính
tự nguyện của người lập di chúc. Sự thống nhất này có thể bị phá vỡ trong
trường hợp người lập di chúc bị cưỡng ép, đe dọa hoặc di chúc do họ lập trên
cơ sở bị lừa dối. Di chúc sẽ không được coi là hợp pháp nếu không có sự
thống nhất giữa các vấn đề đã được thể hiện trong nội dung của bản di chúc
với ý chí chủ quan của người lập ra nó. Cụ thể, sẽ bị coi là không có sự thống
nhất nói trên nếu di chúc được lập ra trong những trường hợp sau:
- Di chúc được lập ra khi người lập di chúc không còn minh mẫn,
sáng suốt
Khi người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt để làm chủ
được hành vi của mình thì không thể có sự thống nhất giữa mong muốn về ý
chí với sự biểu đạt ý chí ấy. Trong trường hợp này, người lập di chúc bị coi là
không còn năng lực hành vi dân sự trong khi lập di chúc.
- Di chúc được lập ra dưới sự tác động của người khác
Tính thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí luôn có khả năng bị phá vỡ
do nhiều nguyên nhân khác nhau. Sự tác động của người khác tới việc lập di
chúc của một người sẽ làm cho di chúc không còn sự tự nguyện của họ. Vì
vậy, di chúc sẽ bị coi là không có tính tự nguyện khi được lập trong những
trường hợp sau đây:
+ Người lập di chúc bị đe dọa:
Đe dọa là hành vi cố ý của một người nhằm làm cho người khác lo sợ
mà phải thực hiện một việc nào đó theo mục đích của người đe dọa. Điều 132
Bộ luật Dân sự quy định: "Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên
hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình

hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình" [17]. Về mặt chủ quan, hành vi
đe dọa bao giờ cũng là hành vi cố ý nhằm đạt được mục đích nhất định. Mục
đích của người có hành vi đe dọa thường là nhằm mang lại lợi ích cho chính
người đó nhưng cũng có nhiều trường hợp người đe dọa người lập di chúc chỉ
nhằm đưa lại lợi ích cho người khác.
Tuy nhiên, nếu sự đe dọa của một người đối vối người lập di chúc
không khiến người lập di chúc sợ, vẫn lập di chúc theo đúng suy nghĩ và ý
định của mình thì di chúc đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Sự đe dọa phải
nghiêm trọng đến mức làm cho người bị đe dọa bị tê liệt ý chí, mất bình tĩnh,
sợ hãi và buộc phải lập di chúc theo đúng yêu cầu của người đe dọa. Sự đe
dọa thường hướng tới một hoặc nhiều vấn đề như: sức khỏe, tài sản, tính
mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm của người bị đe dọa hoặc thân nhân của
người đó.
Như vậy, hành vi đe dọa chỉ được coi là căn cứ để xác định di chúc vô
hiệu khi hành vi đó là sự đe dọa đến một trong những nội dung trên với tính
chất cố ý, nhằm đạt được một mục đích nhất định và phải nghiêm trọng đến
mức người bị đe dọa buộc phải lập di chúc theo yêu cầu của người đe dọa mà
không còn sự lựa chọn nào khác.
+ Người lập di chúc bị lừa dối:
Điều 132 Bộ luật Dân sự quy định: "Lừa dối trong giao dịch là hành vi
cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch
về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã
xác lập giao dịch đó" [17].
Sự lừa dối chỉ được coi là căn cứ để tuyên di chúc vô hiệu khi sự lừa
dối đó đã làm cho người lập di chúc suy nghĩ theo nó, tin vào thông tin lừa dối
và vì thế nội dung của di chúc được định đoạt trên sự tác động của hành vi lừa
dối. Nếu sự lừa dối đó không dẫn đến việc người bị lừa dối lập di chúc trái với
mong muốn thực sự của mình, vẫn định đoạt theo ý chí độc lập của mình, không
suy nghĩ theo sự lừa dối của người đó thì di chúc vẫn được coi là hợp pháp.
Bản chất của lừa dối là gì? Về mặt khái niệm, lừa dối là thủ đoạn có

tính toán trước của người này đối với người khác nhằm làm cho người bị lừa
dối hiểu sai vấn đề mà quyết định một việc gì đó theo mục đích của người lừa
dối. Có thể người lừa dối dùng những lời lẽ giả dối, những mưu mô, thủ đoạn,
thông tin không đúng sự thật khiến cho người khác thiết lập một giao dịch
theo ý của mình mà nếu như không có những hành động, thông tin đó, người
bị lừa dối sẽ không bao giờ thiết lập giao dịch ấy.
Như vậy, chỉ bị coi là lừa dối khi một người thực hiện một hành vi cố
ý (có sự tính toán trước); Hành vi lừa dối có thể là một hành động nhưng cũng
có thể là việc không hành động. Sự im lặng đôi khi bị coi là một sự lừa dối
nếu một người biết được sự thật nhưng lại im lặng, không nói ra sự thật đó
nhằm mục đích để người lập di chúc định đoạt theo hướng có lợi cho mình
hoặc cho người khác theo ý muốn của mình. Người nói trên chỉ bị coi là lừa
dối trong trường hợp người đó biết sự thật, đồng thời biết được việc lập di
chúc của người để lại di sản nhưng không nói sự thật với người lập di chúc vì
mục đích tư lợi. Trong những trường hợp khác sẽ không bị coi là lừa dối.
Việc xác định sự im lặng (không nói sự thật) của một người có phải là lừa dối
hay không có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thực tế. Nó là căn cứ để xem
xét hiệu lực của di chúc đồng thời cũng là căn cứ để xác định có tước quyền
hưởng di sản hay không (nếu người im lặng là người thừa kế di sản).
+ Người lập di chúc bị cưỡng ép:
Cưỡng ép có thể cưỡng ép về thể chất (đánh đập, giam giữ, ) hoặc về
tinh thần (dọa làm một việc có thể làm mất danh dự, uy tín của người lập di
chúc, ). Hành vi cưỡng ép rất gần với hành vi đe dọa.
Trong thực tế đã có rất nhiều trường hợp từ cưỡng ép chuyển hóa
sang đe dọa, ngược lại, trong hành vi đe dọa thường hàm chứa sự cưỡng ép.
Tuy nhiên, bên cạnh sự tương đồng đó, hai hành vi này cũng có nhiều điểm
khác biệt: nếu sự đe dọa là tác động làm cho người bị đe dọa sợ hãi thì hành
vi cưỡng ép thường là việc dựa vào hoàn cảnh đặc biệt của người để lại di sản
để dồn ép người đó phải miễn cưỡng lập di chúc theo mục đích của người
cưỡng ép. Ví dụ: Biết được anh rể có con riêng, em vợ cưỡng ép anh rể phải

lập di chúc để lại một phần di sản thừa kế cho mình, nếu không sẽ thông báo
cho cơ quan, gia đình biết sự thật này.
Tóm lại, những di chúc được lập ra do bị tác động của sự lừa dối,
cưỡng ép, đe dọa hoặc do người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt
đều là những di chúc không phản ảnh một cách trung thực về ý chí tự nguyện
của người lập ra nó. Vì vậy chúng đều bị coi là di chúc không hợp pháp.
Trong những trường hợp này, di chúc đương nhiên sẽ bị coi là vô
hiệu. Trong trường hợp một người đưa đến cho người lập di chúc một thông
tin không chính xác (không đúng sự thật) nhưng không cố ý làm cho người
lập di chúc hiểu sai lệch, không có mục đích lừa dối, nhưng từ thông tin ấy,
người lập di chúc đã hiểu sai lệch và đã quyết định vấn đề theo hướng sai lệch
đó thì di chúc đó có bị coi là vô hiệu hay không?
Theo học viên, vì một thông tin không đúng sự thật mà người lập di
chúc hiểu sai lệch và đã lập một di chúc khác với ý chí chủ quan trước đó của
mình cũng nên coi là thiếu tính tự nguyện của người lập di chúc. Nếu trường
hợp này xảy ra khi giao kết hợp đồng dân sự hoặc thiết lập các giao dịch khác
thì đương nhiên hợp đồng hoặc giao dịch đó bị coi là vô hiệu vì được thiết lập
do sự nhầm lẫn (nếu có đơn khởi kiện). Khi quy định điều kiện để di chúc
được coi là hợp pháp, Điều 652 Bộ luật Dân sự không quy định về nhầm lẫn.
Vì thế, nếu di chúc được lập ra trong trường hợp nói trên có thể coi là di chúc
được lập ra do sự nhầm lẫn của người lập di chúc để xác định di chúc đó vô
hiệu hay không, hay coi đó là không minh mẫn, sáng suốt. Tình trạng "không
minh mẫn, sáng suốt" theo học viên, được đánh giá trên cơ sở nhận thức lý trí,
vì vậy không thể coi trường hợp này là "không minh mẫn, sáng suốt" được vì
sự nhầm lẫn trên hoàn toàn do nhận thức chủ quan của người lập di chúc.
Bên cạnh đó, vì di chúc chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết nên
việc xác định sự sai lệch trên có đúng là nhầm lẫn của người lập di chúc hay
không, hay ý chí của người lập di chúc là như thế, là một việc không thể xác
định được, có lẽ vì vậy mà các nhà làm luật không đưa yếu tố "nhầm lẫn" vào
Điều 652 Bộ luật Dân sự.

c) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Nội dung của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc về
việc định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế. Người lập di chúc
chỉ định người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, phân định di sản
thừa kế, đưa ra các điều kiện để chia di sản thừa kế…Ý chí của người lập di
chúc phải phù hợp với ý chí của Nhà nước, không trái pháp luật, tuân thủ các
quy định tại điểm 3 Điều 8 Bộ luật Dân sự (sử dụng di sản vào mục đích bất
hợp pháp, chuyển giao tài sản cho các tổ chức bất hợp pháp…). Vi phạm các
điều đó, di chúc sẽ bị vô hiệu.
Ví dụ: Một di chúc sẽ bị coi là bất hợp pháp nếu trong di chúc đó
người lập di chúc đã định đoạt tài sản của mình cho tổ chức phản động hoặc
định đoạt tài sản của người khác,
Ngoài ra, di chúc hợp pháp phải còn là di chúc có nội dung phù hợp
với đạo đức xã hội.
Đạo đức xã hội là một hình thái ý thức xã hội, luôn phụ thuộc vào tồn
tại xã hội trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định. Vì vậy, đạo đức xã hội
không mang tính cố định. Mỗi một thời đại, thậm chí trong cùng một xã hội
thì mỗi một giai cấp khác nhau sẽ có một quan niệm khác nhau về đạo đức.
Tuy vậy, không ai có thể phủ nhận được mối quan hệ hữu cơ giữa đạo đức và
pháp luật. Đạo đức là cơ sở xã hội của pháp luật. Một nền pháp luật được hình
thành nếu không phù hợp với đạo đức xã hội thì tính khả thi của nó sẽ bị hạn
chế rất nhiều. Ngược lại, pháp luật là phương tiện để nâng đạo đức thành ý
chí của một Nhà nước. Đạo đức xã hội là những trật tự công cộng, những
thuần phong mỹ tục được hình thành từ một cơ sở kinh tế nhất định đã và
đang được một cộng đồng người thừa nhận, tôn trọng. Với cơ sở kinh tế và
chế độ chính trị của Nhà nước ta hiện nay, đạo đức xã hội là việc giữ gìn bản
sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp,
tình đoàn kết tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam.
Việc lập di chúc có nội dung không trái pháp luật của một người mới
chỉ là việc họ thực hiện bổn phận của một công dân. Ngoài bổn phận công

dân, họ còn phải thực hiện bổn phận làm người. Đạo làm người đòi hỏi các cá
nhân khi lập di chúc phải luôn hướng tới phong tục tập quán truyền thống
nhân bản và tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết trong cộng đồng gia đình
cũng như trong cộng đồng dân tộc. Vì vậy nếu nội dung di chúc có nội dung
trái với đạo đức xã hội cũng sẽ bị coi là không hợp pháp.
Điều 653 Bộ luật Dân sự quy định về nội dung của di chúc như sau:
- Di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc. Việc ghi rõ ngày,
tháng, năm lập di chúc là căn cứ để xác định di chúc nào được lập trước, di
chúc nào được lập sau trong trường hợp một người để lại nhiều bản di chúc
thì bản di chúc lập sau cùng có hiệu lực thi hành.
- Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc. Với tư cách là chủ thể
lập di chúc, người lập di chúc phải ghi rõ họ, tên và nơi cư trú của mình, để có
căn cứ xác định di chúc đó do ai lập ra, người đó có quyền lập di chúc hay
không có quyền lập di chúc và việc đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ
hợp pháp cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lập di chúc.
Chủ thể lập di chúc luôn luôn phải được xác định thông qua các yếu tố họ,
tên, nơi cư trú của người đó. Ngược lại, nếu không biết rõ người lập di chúc là
ai thì di chúc đó vô hiệu do không xác định được người để lại di sản là ai.
- Di chúc phải ghi rõ ai là người được hưởng di sản, là cá nhân hay tổ
chức, nơi cư trú của cá nhân được chỉ định hưởng di sản, trụ sở của pháp
nhân. Người lập di chúc còn có quyền xác định rõ các điều kiện để cá nhân,
cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.
- Người lập di chúc phải ghi rõ di sản để lại bao gồm những tài sản gì,
ở đâu. Di sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc quyền sở
hữu của người lập di chúc (riêng đất đai là quyền sử dụng).
- Người lập di chúc có quyền chỉ định người thực hiện nghĩa vụ nào
đó vì lợi ích chung hoặc riêng nhưng theo nguyên tắc của pháp luật thừa kế
thì nghĩa vụ giao cho người thừa kế thực hiện không thể lớn hơn giá trị phần
di sản mà người thừa kế được hưởng.
- Nếu người lập di chúc định đoạt phần tài sản dùng vào việc thờ

cúng, phải ghi rõ đó là loại tài sản nào, ở đâu, giao cho ai quản lý di sản dùng
vào việc thờ cúng, chỉ rõ nghĩa vụ của người quản lý di sản này.
- Nội dung của di chúc nếu có phần liên quan đến tài sản dùng để di tặng
thì người được di tặng là ai, ở đâu, được di tặng tài sản gì? bao nhiêu? ở đâu?
Những yếu tố này cần phải được xác định cụ thể trong nội dung của di chúc.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 653 Bộ luật Dân sự còn quy định: "Di chúc
không được viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì
mỗi trang phải được đánh sống thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người
lập di chúc".
d) Hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật
Hình thức của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di
chúc (nội dung của di chúc); là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế
theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong
di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di
chúc. Vì vậy, chỉ những di chúc lập ra đúng với hoàn cảnh mà pháp luật đã dự
liệu cũng như phù hợp với thủ tục, trình tự mà pháp luật đã quy định đối với
từng loại di chúc tương ứng thì di chúc đó mới được coi là đã thỏa mãn các
điều kiện này.
1.2.1.2. Những yêu cầu khác đối với di chúc
Bộ luật Dân sự của nước ta còn quy định một số vấn đề khác mà quá
trình lập di chúc phải tuân theo nhằm tăng cường tính xác thực của di chúc,
qua đó bảo vệ ý nguyện đích thực của người để lại di sản.
a) Yêu cầu đối với người chứng nhận, chứng thực và người làm chứng
di chúc
Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn là những người đại diện cho các cơ quan đó trong
việc chứng nhận, chứng thực di chúc nhằm xác nhận về một di chúc là do
chính người để lại tài sản tự nguyện lập ra trong trạng thái tinh thần minh
mẫn, sáng suốt. Vì vậy, để tăng cường tính khách quan, bảo đảm độ trung
thực trong việc chứng nhận, chứng thực di chúc, người chứng nhận, chứng

thực phải là người không có liên quan gì đến việc hưởng di sản cũng như đến
người thừa kế của người lập di chúc. Điều 659 Bộ luật Dân sự đã quy định về
những người không được công chứng, chứng thực di chúc.
Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn không được công chứng, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật;
3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
Nếu việc chứng nhận, chứng thực di chúc nhằm mục đích tạo cơ sở
pháp lý để ghi nhận một sự kiện thực tế thì làm chứng trong di chúc cũng là
việc góp phần nâng cao tính khách quan của di chúc. Muốn vậy, người làm
chứng phải là người đã thành niên và có đủ năng lực hành vi dân sự, đồng
thời không có liên quan gì đến việc hưởng di sản của người lập di chúc. Điều
654 Bộ luật Dân sự quy định.
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những
người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi
dân sự.
Như vậy, người làm chứng cho việc lập di chúc có thể là cha, mẹ, vợ
hoặc chồng, con của người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của
người lập di chúc nhưng không thể là người chứng nhận, chứng thực di chúc
được. Bởi vì, trong mỗi trường hợp ấy, những người này mang một tư cách
khác nhau: khi chứng nhận, chứng thực, họ mang tư cách là người đại diện
một cơ quan nhà nước, còn khi làm chứng cho việc lập di chúc, họ hoàn toàn
mang tư cách cá nhân.
b) Yêu cầu đối với việc xác định sự minh mẫn, sáng suốt của người
lập di chúc

Về nguyên tắc, tất cả các di chúc đều được coi là do người để lại di
sản lập ra trong khi minh mẫn, sáng suốt. Vì vậy, người nào khởi kiện vì cho
rằng di chúc được lập ra khi người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng
suốt thì phải chứng minh điều đó trước Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Khi
có đầy đủ cơ sở để khẳng định thiếu sự minh mẫn, sáng suốt nói trên và đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận thì di chúc mới được coi là
vô hiệu. Thực tế thì những di chúc đã thông qua thủ tục chứng nhận, chứng
thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì ít khi xảy ra tranh chấp này.
Tranh chấp về tính minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc thường chỉ xảy
ra đối với những di chúc tự lập không có chứng nhận, chứng thực. Vì vậy,
muốn tránh sự tranh chấp nói trên thì tốt nhất người để lại di sản nên lập di
chúc thông qua thủ tục có chứng nhận, chứng thực. Nếu không thể lập di chúc
theo thể thức nói trên thì người lập di chúc cần nhờ người làm chứng xác
nhận vào di chúc về tình trạng minh mẫn, sáng suốt của mình.
c) Yêu cầu đối với sự kiện được coi là điều kiện trong di chúc có điều kiện
Điều 125 Bộ luật Dân sự quy định:
1. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện
phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra,
giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ.
2. Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ
giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của
một bên hoặc của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra;
Nếu có sự tác động của một bên hoặc của người thứ ba cố ý thúc
đẩy cho điều kiện để làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự
xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra [17].
Quy định trên chỉ áp dụng đối với các giao dịch dân sự là hợp đồng
hay được áp dụng cả với các giao dịch là hành vi pháp lý đơn phương?
Về mặt bản chất, điều luật trên vẫn có thể áp dụng đối với giao dịch là
hành vi pháp lý đơn phương hay nói cụ thể hơn là đối với di chúc, vì trong di
chúc cũng như trong các giao dịch một bên nói chung không cần có sự thỏa

thuận nên người có ý chí đơn phương vẫn có quyền bằng ý chí ấy đưa ra các
điều kiện. Vì lẽ đó nếu người lập di chúc có xác định về một sự kiện là điều
kiện của di chúc thì chỉ khi nào sự kiện đó xuất hiện thì di chúc mới có hiệu lực.
Mặt khác, nếu người lập di chúc có đưa ra một điều kiện đối với người
hưởng di sản thì chỉ khi nào người đó đáp ứng được các điều kiện này mới
được hưởng di sản theo di chúc. Tất nhiên, các điều kiện mà người lập di chúc
đưa ra chỉ được coi là điều kiện để di chúc có hiệu lực pháp luật hoặc để
người thừa kế được hưởng di sản theo di chúc đã lập khi các điều kiện đó đã
đáp ứng được các yêu cầu theo tinh thần và nguyên tắc chung của pháp luật.
Đó là:
- Các sự kiện để được coi là điều kiện trong di chúc phải mang tính
khách quan: Sự kiện khách quan là những sự kiện nằm ngoài ý chí của con
người. Vì vậy yêu cầu này đòi hỏi việc các sự kiện nói trên có xuất hiện trong
thực tế hay không, khi nào xuất hiện, xuất hiện ở mức độ nào phải hoàn toàn
nằm ngoài ý chí của người lập di chúc. Đồng thời, các sự kiện đó phải là
những tình tiết trong tương lai (chỉ xuất hiện sau khi di chúc được lập thậm
chí, sau khi người lập di chúc chết).
- Nếu điều kiện đó là công việc phải làm thì phải là những công việc
có thể thực hiện được và phải hợp pháp.
Một công việc có thể thực hiện được hay không thường do hai yếu tố
sau đây quyết định: một là do đặc tính của bản thân công việc nên công việc
đó không thể thực hiện được; hai là do công việc đó trái đạo đức xã hội và đã
bị pháp luật cấm làm. Vì vậy yêu cầu này đòi hỏi nếu sự kiện được xác định
trong di chúc là một công việc phải làm thì công việc đó phải phù hợp với
pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng
trong thực tế có thể người lập di chúc dự liệu về một sự việc bất hợp pháp
nhưng sự dự liệu lại vẫn được coi là hợp pháp. Ví dụ, trong di chúc, người để
lại tài sản có dự liệu rằng nếu em trai họ xâm phạm đến sức khỏe của các con
mình thì tài sản mà họ được thừa kế sẽ thuộc về em gái (cô ruột của các con).
1.2.2. Hiệu lực của di chúc

Một di chúc muốn có hiệu lực, trước hết phải được thừa nhận là hợp
pháp. Một di chúc hợp pháp chưa hẳn đã là di chúc có hiệu lực, trong một số
trường hợp, di chúc hợp pháp sẽ có hiệu lực trong từng thời điểm khác nhau.
Cụ thể.
1.2.2.1. Thời điểm có hiệu lực của di chúc
- Đối với di chúc do một người lập ra: Theo quy định tại Điều 667 Bộ
luật Dân sự, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa
kế là thời điểm người có di sản để lại theo di chúc chết hoặc người này được
xác định là đã chết theo bản án tuyên bố chết có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, di chúc chỉ được áp dụng trong việc chia di sản của người
lập di chúc kể từ thời điểm người lập di chúc chết. Nếu người lập di chúc
chưa chết thì cũng chưa có việc chia di sản của người đó. Quy định này là
nguyên tắc pháp luật nhằm bảo vệ quyền của người lập di chúc khi còn sống,
sau khi người lập di chúc chết thì tài sản của người này là di sản được chuyển
dịch theo trình tự hưởng di sản của người được thừa kế theo di chúc.
Thừa kế di sản nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng là quan hệ
pháp luật dân sự, do vậy quan hệ thừa kế theo di chúc cũng phải thỏa mãn các
điều kiện của chủ thể trong quan hệ tài sản. Theo nguyên tắc này, nếu người
thừa kế theo di chúc đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc thì phần di sản liên quan đến phần của di chúc chỉ định người đó được
hưởng bị vô hiệu, không có hiệu lực pháp luật.
Người thừa kế được hiểu theo tư cách chủ thể của quan hệ, do vậy cơ
quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế của người để lại di chúc thì phần di sản liên quan đến phần của di
chúc chỉ định cho các chủ thể này được hưởng bị vô hiệu, không thi hành được.
Điểm b khoản 2 Điều 667 Bộ luật Dân sự quy định:
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có
người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một
trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc
không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên

quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật [17].
Di chúc không có hiệu lực trong trường hợp nếu di sản để lại cho
người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di chúc.
Trường hợp này thường xảy ra trong đời sống xã hội và trong thời điểm di
chúc được lập thì tài sản vẫn còn nhưng sau một thời gian tài sản đó lại do
chính người lập di chúc chi tiêu, chuyển giao quyền sở hữu cho người khác
hoặc tài sản bị tiêu hủy, mà sau đó người lập di chúc không sửa lại di chúc,
do vậy phần di chúc liên quan đến tài sản không còn vào thời điểm mở thừa
kế của người lập di chúc không có hiệu lực thi hành. Nhưng nếu di sản để lại
cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần của di chúc về phần di sản còn
lại vẫn có hiệu lực. Trong trường hợp người lập di chúc định đoạt tài sản cho
nhiều người thì mỗi người được hưởng phần di sản còn lại tương ứng với nội
dung của di chúc.
Theo khoản 4 Điều 667 Bộ luật Dân sự: Khi di chúc có phần không
hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần
đó không có hiệu lực pháp luật.
Căn cứ xác định bản di chúc sau cùng của người để lại di sản là dựa
vào ngày, tháng, năm di chúc đó được lập ra. Tuy nhiên, trong trường hợp di
chúc lập sau cùng không có giá trị pháp lý do đã vi phạm các điều kiện có
hiệu lực của di chúc thì di chúc lập trước đó có giá trị pháp lý không. Di chúc
lập sau cùng bị vô hiệu do đã vi phạm điều kiện có hiệu lực của di chúc được
quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự về di chúc hợp pháp thì coi như không
có di chúc này và di chúc được lập trước đó có hiệu lực thi hành. Cách hiểu
này dựa trên căn cứ di chúc không có hiệu lực pháp luật, không thể thi hành
được và giá trị pháp lý của di chúc này không tồn tại, coi như không có di
chúc này; di chúc được lập trước đó vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý vì chưa có
di chúc nào thay thế và di chúc này được coi là di chúc sau cùng.
- Về di chúc chung của vợ chồng và hiệu lực của di chúc do vợ chồng
lập chung: Luận văn trình bày ở mục 1.2.3 của chương này.

×