Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 126 trang )




I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




NGUYN TH HNH





CHIA TI SN CHUNG V CHNG
THEO PHP LUT VIT NAM - THC TIN P
DNG
V HNG HON THIN




luận văn thạc sĩ luật học








Hà nội - 2012





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ HẠNH




CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM - THỰC TIỄN ÁP
DỤNG
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Vân





Hµ néi - 2012






MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
8
1.1.
Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng
theo pháp luật Việt Nam
8
1.1.1.
Tài sản chung của vợ chồng
10
1.1.1.1.
Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
10
1.1.1.2.
Nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng
11
1.1.2.
Chia tài sản chung của vợ chồng
16
1.1.2.1.
Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng
16
1.1.2.2.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp luật về chia tài
sản chung của vợ chồng

17
1.1.2.3.
Đặc điểm của chia tài sản chung của vợ chồng
20
1.1.3.
Lịch sử phát triển chế định chia tài sản chung của vợ chồng
trong pháp luật Việt Nam
22
1.1.3.1.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ
phong kiến
22
1.1.3.2
Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật thời kỳ
Pháp thuộc
24
1.1.3.3.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam
từ 1945 đến nay
25
1.2.
Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp
29


luật Việt Nam hiện hành
1.2.1.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
29
1.2.1.1.

Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
29
1.2.1.2.
Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
32
1.2.1.3.
Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
34
1.2.2.
Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
36
1.2.2.1.
Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
36
1.2.2.2.
Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
36
1.2.2.3.
Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn
38
1.2.3.
Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
38
1.2.3.1.
Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc
chồng chết

39
1.2.3.2.
Nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
40
1.2.3.3.
Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng khi
vợ hoặc chồng chết
41

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
43
2.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân
43
2.1.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định về điều kiện chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
44
2.1.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định về nguyên tắc chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
52
2.1.3.
Thực tiễn áp dụng các quy định về hậu quả pháp lý của việc
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
53
2.2
Thực tiễn áp dụng các quy định chia tài sản chung của vợ

chồng khi ly hôn
61


2.2.1.
Thực tiễn áp dụng quy định về xác định tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn
64
2.2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định về nguyên tắc chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn
80
2.3.
Thực tiễn áp dụng các quy định chia tài sản chung của vợ
chồng khi vợ hoặc chồng chết
86
2.3.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định về xác định tài sản chung
của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
87
2.3.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định về nguyên tắc chia tài sản
chung vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
88
2.3.3.
Thực tiễn áp dụng các quy định về hậu quả pháp lý của việc
chia tài sản chung vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
90

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
93
3.1.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định pháp luật về
chia tài sản chung của vợ chồng
93
3.1.1.
Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân
93
3.1.1.1.
Giới hạn quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
93
3.1.1.2.
Quy định cụ thể về lý do chính đáng
95
3.1.1.3.
Quy định quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
cho người thứ ba (người có quyền)
97
3.1.1.4.
Quy định cụ thể trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia
tài sản chung và nguyên tắc chia tài sản chung tại Tòa án
98
3.1.1.5.
Quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung phải công
chứng hoặc được Tòa án công nhận
100

3.1.1.6.
Bổ sung thêm quy định về hậu quả pháp lý của chế định
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
101
3.1.1.7.
Quy định cụ thể về thuế, lệ phí liên quan đến tài sản được
103


chia khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
3.1.2.
Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn
103
3.1.2.1.
Hướng dẫn cụ thể về hình thức nhập tài sản riêng vào tài sản
chung theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000
103
3.1.2.2.
Hướng dẫn cụ thể hơn về nguyên tắc chia tài sản chung khi
vợ chồng sống cùng với gia đình
104
3.1.3.
Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ
chồng khi vợ hoặc chồng chết
105
3.1.3.1.
Quy định nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết
105

3.1.3.2.
Quy định rõ hậu quả của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố
vợ hoặc chồng đã chết
106
3.2.
Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về chia tài sản chung của vợ chồng
107
3.2.1.
Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ việc liên quan
tới chia tài sản chung của vợ chồng
107
3.2.2.
Có cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển các tổ chức
hành nghề công chứng
108
3.2.3.
Triển khai đồng bộ, nghiêm túc quy định pháp luật về đăng
ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng
109
3.2.4.
Tuyên truyền, phổ biến sâu, rộng pháp luật Hôn nhân và gia
đình đặc biệt là các quy định về tài sản chung của vợ chồng
110

KẾT LUẬN
112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
114


PHỤ LỤC
119









DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLDS
: Bộ luật Dân sự
DLBK
: Bộ Dân luật Bắc Kỳ
DLGYNK
: Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ
DLTK
: Hoàng việt Trung Kỳ hộ luật
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao







DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Số lượng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng tại Phòng
công chứng số 4 thành phố Hà Nội
70
2.2
Số lượng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng tại Văn
phòng công chứng Hà Nội
70



























MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển xã hội loài người cho thấy, đối với mỗi hình thái
kinh tế xã hội có những hình thái gia đình tương ứng phù hợp với nó. Các
hình thái gia đình này rất đa dạng, khác nhau không chỉ về tính chất mà còn
cả về kết cấu của nó. Tuy nhiên, dù ở hình thái nào, các chức năng cơ bản của
gia đình vẫn không thay đổi đó là chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục và
chức năng kinh tế. Chức năng kinh tế sẽ là nền tảng, là một trong những cơ sở
đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt chức năng sinh đẻ và giáo dục. Trong xã
hội hiện đại, chức năng kinh tế của gia đình ngày càng được chú trọng và phát
huy vai trò to lớn đối với sự phát triển của mỗi gia đình nói riêng và toàn xã
hội nói chung. Bởi vậy, bên cạnh việc điều chỉnh quan hệ nhân thân, pháp luật

đã dành nhiều quy định điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa gia đình và các
chủ thể khác trong xã hội, giữa các thành viên trong gia đình và đặc biệt là
giữa vợ chồng - những thành viên "hạt nhân" của gia đình. Những quy định
pháp luật về tài sản của vợ chồng cũng thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ
sung để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh.
Tuy nhiên thực tiễn phát triển nhanh, đa dạng của đời sống kinh tế - xã
hội đã và đang làm bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý của pháp luật hiện hành.
Trong đó, chia tài sản chung của vợ chồng nổi lên như là vấn đề bức thiết bởi
những năm gần đây, các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng, đặc
biệt là chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn gia tăng nhanh chóng. Hơn
nữa, những tranh chấp này thường là những tranh chấp phức tạp và kéo dài,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình cảm giữa các thành viên trong gia đình
và sự ổn định của xã hội. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên một phần do tính
chất đa dạng, phức tạp của các quan hệ tài sản của vợ chồng. Mặt khác, tình
trạng gia tăng các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng cũng cho thấy


những bất cập, điểm khuyết của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng.
Các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc gây khó khăn thậm chí
lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật của các đương sự cũng như của tòa
án khi giải quyết các vấn đề liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng.
Thực trạng trên cho thấy, có một công trình nghiên cứu sâu về chế định chia tài
sản chung của vợ chồng nhằm nhận dạng những khuyết thiếu của pháp luật
dưới góc độ thực tiễn áp dụng là hết sức cần thiết. Đây chính là lý do để tác giả
lựa chọn đề tài "Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam -
Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" để làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế định pháp luật liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nói
chung và chia tài sản chung của vợ chồng nói riêng luôn là vấn đề dành được
nhiều sự quan tâm của xã hội cũng như giới nghiên cứu. Bởi vậy, trong thời

gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến chế định chia tài sản
chung của vợ chồng. Có thể tạm phân loại các công trình nghiên cứu này
thành ba nhóm lớn như sau:
Nhóm các luận văn, luận án: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu
trong nhóm này có: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, luận án tiến sĩ Luật học, 2005); "Xác định
chế độ tài sản của vợ chồng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" (Nguyễn
Hồng Hải, luận văn thạc sĩ, 2002); Một số vấn đề về tài sản vợ chồng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, (Trần Đức Hoài, 2006, luận văn thạc sĩ)… Tuy
nhiên, các công trình này hoặc có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến nhiều
khía cạnh khác nhau trong vấn đề tài sản vợ chồng, hoặc chỉ giải quyết một
khía cạnh nhỏ trong chế định chia tài sản chung của vợ chồng mà chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể chế định chia tài sản chung vợ
chồng. Vì vậy, các công trình nói trên chưa có điều kiện phân tích một cách
sâu sắc và toàn diện tất cả các khía cạnh của chế định chia tài sản chung của
vợ chồng.


Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Trong nhóm này có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu như Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, 2002,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội); Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam (Nguyễn Ngọc Điện, 2002, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh);
Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Đinh Thị Mai
Phương chủ biên, 2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội). Ngoài ra, còn có
các sách giáo trình và sách bình luận Luật Hôn nhân và gia đình của nhiều tác
giả khác. Tuyệt đại đa số các cuốn sách trên đều là những công trình thiên về
việc bình luận, giải thích các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, trong
bối cảnh đó, chế định chia tài sản chung của vợ chồng thường chỉ được phân
tích một cách chung chung, có tính chất tổng quát, chứ không phân tích một

cách chuyên sâu và cụ thể.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Chia tài sản chung của vợ
chồng là chủ đề của nhiều bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả trên các báo,
tạp chí chuyên ngành luật, có thể kể đến một số bài như Bàn thêm về chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân gia
đình hiện hành (Nguyễn Hồng Hải, 2003, Tạp chí Luật học, số 5); Hậu quả
pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Nguyễn Phương
Lan 2002,Tạp chí Luật học, số 6), Về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng
khi phá sản doanh nghiệp tư nhân (Phạm Văn Thiệu, 2003, Tạp chí Tòa án
nhân dân (TAND), số 11) v.v… Các bài viết này thường phân tích rất sâu một
vấn đề trong chế định chia tài sản chung vợ chồng, nhưng do tính chất của
một bài viết nghiên cứu, các tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một
trường hợp cụ thể liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng mà
không thể phân tích toàn diện các khía cạnh của chế định này.
Một điểm chung của cả ba nhóm công trình nghiên cứu kể trên, đó là
phần lớn các tác giả thường thiên về việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật về chia tài sản chung vợ chồng mà chưa soi chiếu sự phản ánh của toàn


bộ các quy định pháp luật đó vào thực tiễn cuộc sống. Một số tác giả, trong
các công trình nghiên cứu kể trên, cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp
dụng một số quy định pháp luật, tuy nhiên, sự liên hệ, phân tích đó chỉ có tính
chất minh họa cho một số trường hợp cụ thể mà chưa có sự soi chiếu một
cách tổng thể, toàn diện tất cả các khía cạnh của chế định chia tài sản chung
vợ chồng vào thực tiễn.
Như vậy, mặc dù đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng nhưng những công trình này chủ yếu
nghiên cứu, phân tích chế độ tài sản của vợ chồng dưới góc độ lý luận mà
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về chia tài sản
chung của vợ chồng dưới góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, các

công trình nghiên cứu trên so với đề tài của luận văn này là hoàn toàn không
có sự trùng lắp về mặt nội dung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về chia tài
sản chung của vợ chồng, luận văn phân tích, đánh giá việc áp dụng pháp luật,
nhận dạng những thuận lợi cũng như những bất cập, hạn chế trong quá trình
áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng, trên cơ sở đó chỉ ra
những điểm còn thiếu sót, chưa phù hợp của luật thực định và của quá trình
áp dụng luật vào thực tiễn. Từ đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp
có tính chất khả thi nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài
sản chung của vợ chồng đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đời sống đang ngày
càng phát triển đa dạng, phong phú.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn xác định những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định pháp
luật về chia tài sản chung của vợ chồng;


Thứ hai, rà soát, tổng hợp một cách sơ lược lịch sử phát triển chế định
chia tài sản chung của vợ chồng trong suốt chiều dài lịch sử tiến triển của chế
định này trong hệ thống pháp luật Việt Nam;
Thứ ba, phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về chia
tài sản chung của vợ chồng;
Thứ tư, phân tích, nhận dạng những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy
định pháp luật thực định về chia tài sản chung của vợ chồng vào thực tiễn
Việt Nam;
Và thứ năm, trên cơ sở các phân tích kể trên, kiến nghị một số giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng
cả dưới góc độ pháp luật lẫn áp dụng pháp luật.
4. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung vào một
số vấn đề sau:
- Quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản chung của vợ
chồng. Trong đó tập trung chủ yếu vào chia tài sản chung của vợ chồng được
quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000, Bộ luật Dân
sự (BLDS) năm 2005 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về chia tài sản
chung của vợ chồng. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề khó khăn, vướng
mắc, điển hình; các trường hợp áp dụng sai luật…; tìm hiểu và nghiên cứu
những ví dụ cụ thể, những bản án thực tế từ đó bình luận và phân tích những
nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thực tế.
- Một số quy định của pháp luật các nước trên thế giới về chia tài sản
chung của vợ chồng như BLDS Pháp, Bộ luật dân sự và thương mại Thái
Lan… có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật Việt Nam, qua đó tiếp thu


những điểm tiến bộ và phù hợp với thực tiễn và pháp luật Việt Nam về chia
tài sản chung của vợ chồng.
Luận văn không đề cập đến góc độ thủ tục tố tụng khi giải quyết vấn
đề chia tài sản chung vợ chồng. Luận văn cũng không xem xét, nghiên cứu
vấn đề chia tài sản chung vợ chồng dưới góc độ tư pháp quốc tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phối hợp nhiều phương
pháp khác nhau như phương pháp phân tích luật học, phương pháp phân tích -
so sánh, phương pháp tổng hợp (trên cơ sở phân tích, so sánh và tham khảo
pháp luật nước ngoài), phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn Trong quá
trình khảo sát thực tiễn, luận văn đã áp dụng phương pháp phỏng vấn sâu một
số người có liên quan để thu thập những tài liệu mà các tài liệu lưu trữ chính
thống còn khuyết thiếu, đồng thời nhằm có thêm tư liệu sinh động từ thực tiễn

của người trực tiếp áp dụng pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu trong
luận văn được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng
và lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; trên cơ sở
quan điểm, đường lối chính trị, kinh tế, xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam.
6. Điểm mới của luận văn
- Luận văn đã hệ thống hóa và phân tích khái niệm chia tài sản chung
của vợ chồng, những điểm đặc trưng của chia tài sản chung của vợ chồng
thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất so với chia tài sản chung ở các hình
thức sở hữu khác.
- Luận văn khái quát và phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của các
quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng.
- Từ những ví dụ cụ thể về thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn nhận
dạng những quy định chưa phù hợp, những điểm còn khiếm khuyết của pháp
luật hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng cả dưới góc độ pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời, luận văn đưa ra và phân tích một số


yếu tố khác tác động vào và làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài
sản chung của vợ chồng. Trên cơ sở đó, luận văn kiến nghị một số giải pháp
có tính chất khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và tiến tới
hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu, hoàn thiện chế định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng,
từ đó nâng cao vai trò và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với đời sống
xã hội.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và học tập các môn học như Luật dân sự, Luật HN&GĐ tại các
cơ sở đào tạo pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về chia tài sản chung của vợ chồng theo
pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về
chia tài sản chung của vợ chồng.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng.


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Hôn nhân là cơ sở hình thành gia đình - tế bào của xã hội. Kể từ thời
điểm quan hệ hôn nhân được xác lập giữa một người đàn ông và một người
đàn bà bằng sự kiện kết hôn, họ chính thức trở thành vợ chồng, có các quyền,
nghĩa vụ với nhau, với cha mẹ, con cái… Để đảm bảo các điều kiện vật chất
phục vụ đời sống gia đình và thực hiện các quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng con cái… vợ chồng cần có tài sản. Tài sản của vợ chồng là nguồn quan
trọng phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của gia đình. Trên bình diện xã
hội, gia đình chính là một đơn vị kinh tế. Các thành viên trong gia đình, đặc
biệt là vợ chồng tham gia tích cực vào các hoạt động tạo ra của cải vật chất
cho xã hội qua đó tạo dựng khối tài sản cho mình. Vì vậy, tài sản của vợ
chồng không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với vợ chồng và gia đình mà còn
đóng góp cho sự phát triển chung của toàn xã hội.
Tài sản của vợ chồng cũng là một loại tài sản theo pháp luật dân sự, vì
vậy, nghiên cứu vấn đề tài sản của vợ chồng phải đặt trong bối cảnh của chế

định tài sản nói chung.
Tài sản là đối tượng của quyền sở hữu, là khách thể của phần lớn các
quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, tài sản là một khái niệm rộng, dưới góc
độ pháp lý, rất khó có thể định nghĩa cụ thể về tài sản. Pháp luật các nước
thường không đưa ra định nghĩa cụ thể về tài sản mà nó thường được hiểu
thông qua các học thuyết pháp lý hoặc hiểu gián tiếp thông qua các quy định
khác. Ví dụ, BLDS Pháp không trực tiếp đưa ra khái niệm tài sản mà chỉ ghi
nhận "tài sản được chia thành động sản và bất động sản" [27, Điều 156],


BLDS Nhật Bản cũng chỉ nêu ra những vật được coi là động sản, bất động sản,
vật chính, vật phụ (Điều 85 đến Điều 88)… mà không định nghĩa tài sản.
Khác với cách quy định của các bộ luật trên, pháp luật dân sự nước ta
chọn cách định nghĩa tài sản bằng cách liệt kê những đối tượng được coi là tài
sản "tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [38, Điều 163].
Theo cách liệt kê trên, các đối tượng là tài sản được xác định như sau:
- Vật được coi là tài sản phải là một bộ phận của thế giới vật chất và
nằm trong sự kiểm soát của con người. Đồng thời, vật phải mang lại lợi ích
cho con người, tức là phục vụ cho các nhu cầu về sinh hoạt, sản xuất, tiêu
dùng… của con người.
- Tiền là thước đo giá trị của hàng hóa, là phương tiện thanh toán…
Ngoài ra, tiền còn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, nó thể hiện chủ quyền
của quốc gia. Vì thế, việc phát hành, đưa tiền vào hay rút tiền khỏi lưu thông
đều được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
- Giấy tờ có giá là "bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức
phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn
nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác" [43, Điểm 8 Điều 6]. Ví dụ
như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, trái phiếu Chính phủ….
- Quyền tài sản theo quy định tại Điều 181 BLDS năm 2005 "là quyền
trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả

quyền sở hữu trí tuệ". Như vậy, để một quyền được coi là quyền tài sản nó
phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản đó là trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Có thể kể ra các quyền tài sản như
quyền nhận lợi tức cổ phiếu, quyền hưởng nhuận bút của tác giả tác phẩm văn
học, nghệ thuật,quyền nhận thù lao của chủ sở hữu văn bằng sáng chế…
Như vậy, theo quy định của BLDS năm 2005 các đối tượng là tài sản
bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.


Khái niệm và các quy định về tài sản, quyền sở hữu trong Luật dân sự
là khái niệm gốc, là cơ sở để các luật chuyên ngành xây dựng các khái niệm tài
sản cụ thể theo tính chất riêng của ngành luật mình, ví dụ như khái niệm tài sản
góp vốn trong Luật Doanh nghiệp, tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ…
1.1.1. Tài sản chung của vợ chồng
1.1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang phát triển sôi động trên tất
cả các ngành, các lĩnh vực như hiện nay, gia đình là chủ thể tham gia vào rất
nhiều các hoạt động kinh tế, xã hội khác nhau. Việc hộ gia đình được BLDS
công nhận là một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và Luật Đất đai công
nhận hộ là chủ thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất…đã tạo những tiền
đề cơ bản để kinh tế hộ gia đình nói chung và tài sản của vợ chồng nói riêng
phát triển ngày càng nhanh chóng.
Theo nội hàm của khái niệm tài sản quy định tại Điều 163 BLDS
năm 2005 thì tài sản của vợ chồng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản khác. Như vậy, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng.
Tài sản của vợ chồng gồm có tài sản chung của vợ chồng và tài sản
riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, vì phạm vi luận văn chỉ đề cập đến vấn đề tài
sản chung của vợ chồng nên xin phép không phân tích vấn đề tài sản riêng ở
đây. Về tài sản chung, Điều 214 BLDS năm 2005 quy định "tài sản thuộc hình

thức sở hữu chung là tài sản chung" [38]. Như vậy, tài sản chung của vợ chồng
là tài sản thuộc sở hữu chung của cả vợ và chồng - vợ, chồng cùng là chủ sở hữu
đối với khối tài sản đó. Đặc điểm của tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc
hình thức sở hữu chung hợp nhất, tức là "phần quyền của mỗi chủ sở hữu chung
không được xác định đối với tài sản chung" [38, Khoản 1 Điều 217]. Theo đó,
khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ,
chồng trong khối tài sản chung. Khối tài sản chung của vợ chồng thường hình
thành từ khi hai bên nam nữ bắt đầu bước vào cuộc sống vợ chồng thông qua


sự kiện kết hôn và sẽ liên tục được bổ sung trong suốt thời kỳ hôn nhân bằng
nhiều nguồn khác nhau.
1.1.1.2 Nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng
Pháp luật của nhiều nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa
thuận của vợ chồng về chế độ tài sản hay còn được gọi là khế ước hôn nhân
hoặc hôn ước. "Hôn ước là chứng thư thể hiện sự thỏa thuận của người kết
hôn hay của vợ chồng về chế độ tài sản của họ trong hôn nhân" [19]. Bởi
vậy, thành phần, nguồn gốc của khối tài sản chung của vợ chồng thường phụ
thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng được thể hiện trong hôn ước. Điển hình
cho cách quy định này là BLDS Pháp, BLDS Nhật Bản…
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng là
chế độ tài sản pháp định.
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật
đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản
chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của
vợ, chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc
chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan
đến các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng [7, tr. 35].
Theo chế độ tài sản này, vợ chồng phải tuân theo quy định pháp luật
về các vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ,

chồng như nguồn gốc tài sản, nguyên tắc sử dụng, định đoạt tài sản… Quan
điểm lập pháp này được duy trì và thể hiện thống nhất trong Luật HN&GĐ
của Nhà nước ta qua các thời kỳ.
Luật HN&GĐ năm 1959 là Luật HN&GĐ đầu tiên của nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù được xây dựng trong hoàn cảnh
đất nước còn chiến tranh, điều kiện kinh tế nhiều khó khăn và chỉ có vẻn vẹn
35 điều luật nhưng Luật HN&GĐ năm 1959 đã có những quy định đầu tiên về
tài sản chung của vợ chồng "vợ và chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử
dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới" [30, Điều 15]. Với


quy định trên, có thể suy luận mọi tài sản của vợ, chồng đều là tài sản chung
của vợ chồng không phân biệt tài sản do ai tạo ra, có trước hay trong thời kỳ
hôn nhân… Do đó, khái niệm tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng không
tồn tại trong các quy định của Luật HN&GĐ năm 1959.
Đến Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000, các vấn đề
liên quan đến tài sản chung của vợ chồng trong đó có nguồn gốc tài sản chung
đã được luật quy định cụ thể hơn. Theo quy định tại Điều 14, Điều 16 Luật
HN&GĐ năm 1986 và Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 nguồn gốc tài sản
chung của vợ chồng bao gồm:
Tài sản chung do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động và thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Tài sản do vợ, chồng tạo ra có thể là kết quả lao động trực tiếp của vợ
chồng như giường, tủ do vợ chồng tự đóng, nhà do vợ chồng tự xây Hoặc
tài sản nhận được từ hợp đồng mua bán, trao đổi tài sản… mà một bên vợ,
chồng hoặc hai vợ chồng tham gia. Trong trường hợp thứ hai này, mặc dù vợ
chồng không tạo ra tài sản bằng lao động trực tiếp nhưng đã dùng tài sản hiện
có của mình như tiền, vật để mua hoặc trao đổi lấy tài sản khác. Vì vậy,
những tài sản này cũng được xác định là tài sản do vợ chồng tạo ra. Bằng việc
nhận được một số tiền, vật… thông qua các giao dịch kể trên, ngay lập tức số

tiền, vật… đó trở thành tài sản chung của vợ chồng theo hiệu lực của chế độ
tài sản. Lý thuyết này được áp dụng trong cả trường hợp vợ hoặc chồng tiến
hành giao dịch bằng tài sản riêng của mình. Ví dụ, vợ hoặc chồng dùng tiền
riêng của mình có trước khi kết hôn để mua tivi. Do chiếc tivi được mua sau
khi kết hôn, tức là trong thời kỳ hôn nhân, nên theo quy định tại Điều 27 Luật
HN&GĐ năm 2000, đây là tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân
nên chiếc tivi trở thành tài sản chung của vợ chồng chứ không phải tài sản
riêng của bên đã dùng tiền riêng của mình ra mua.
Thu nhập của vợ chồng có thể bao gồm thu nhập do lao động như thu
nhập từ tiền lương, tiền công…, thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh
như lợi tức… và thu nhập hợp pháp khác như hoa lợi, tiền trúng thưởng xổ


số… Trong đó, thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh thực chất cũng là
thu nhập do lao động khi hiểu lao động theo nghĩa rộng là hoạt động có mục
đích của con người nhằm tạo ra của cải vật chất. Các thu nhập này, không
phân biệt của vợ hay chồng trực tiếp làm ra, đều là tài sản chung của vợ
chồng nếu các thu nhập đó được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân tức là khoảng
thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân. Những thu nhập kể trên đặc biệt là thu nhập do lao động
là nguồn đóng góp chủ yếu vào khối tài sản chung của vợ chồng vì đây là hoạt
động thường xuyên và tạo nguồn thu ổn định cho vợ chồng.
Tài sản chung do vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung
Theo tập quán của người Việt, cha mẹ thường dành dụm tài sản của
mình để đến lúc con cái trưởng thành hoặc lấy vợ, lấy chồng, cha mẹ cho con
một số tài sản với ý nghĩa gây dựng số vốn ban đầu cho con hoặc làm của hồi
môn… Vì thế, việc vợ chồng được tặng cho chung hay thừa kế chung tài sản
từ cha mẹ là khá phổ biến trong thực tiễn. Tuy nhiên, liên hệ với các quy định
pháp luật về thừa kế, cần lưu ý rằng, chỉ gọi là thừa kế chung khi vợ chồng
cùng được gọi để hưởng di sản theo di chúc và di chúc ghi nhận rằng tài sản

được chuyển giao chung cho cả vợ và chồng không phân biệt nhiều, ít hay tài
sản thừa kế này của vợ, tài sản thừa kế kia của chồng. Chỉ trong trường hợp
đó, tài sản thừa kế mới có thể trở thành tài sản thuộc hình thức sở hữu chung
hợp nhất và là nguồn của tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp thừa kế
theo pháp luật, dù vợ, chồng cùng hàng thừa kế ví dụ như thừa kế di sản của
con - nếu con chết trước, cùng được hưởng phần di sản bằng nhau nhưng do
phần tài sản thừa kế của mỗi người được xác định riêng - mỗi người là một
suất thừa kế nên tài sản nhận được sẽ trở thành tài sản riêng của vợ, chồng do
được thừa kế riêng mà không phải là tài sản chung của vợ chồng. Như vậy,
thừa kế chung vợ chồng chỉ xuất hiện khi vợ chồng được thừa kế chung theo
di chúc mà không xuất hiện ở thừa kế theo pháp luật. Tương tự như thừa kế,
đối với trường hợp tặng cho, vợ chồng được tặng cho chung nếu theo ý chí
của người tặng cho, tài sản được tặng cho cả vợ và chồng, không phân biệt


cái này cho vợ, cái khác cho chồng… Đáp ứng được điều kiện trên, tài sản
được tặng cho sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung theo thỏa thuận của vợ chồng
Sau một thời gian dài cùng chung sống, cùng nhau gánh vác trách
nhiệm, và cùng thực hiện quyền, nghĩa vụ với nhau và với gia đình, đối với
nhiều cặp vợ chồng, ranh giới giữa tài sản chung của họ và tài sản riêng của
mỗi người trở nên mờ nhạt, thậm chí đến một giai đoạn nào đó, ranh giới đó
mất hẳn, không còn tồn tại. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, việc chuyển hóa một tài
sản riêng của mỗi người thành tài sản chung của cả hai vợ chồng thường được
thực hiện qua hai phương thức: Hoặc là bằng cách họ có thể cùng nhau thỏa
thuận một tài sản nào đó là tài sản chung của vợ chồng, hoặc là một bên vợ hoặc
chồng, với tư cách là chủ sở hữu, tự nguyện nhập tài sản riêng của mình vào tài
sản chung của hai vợ chồng. Đối với phương thức thứ nhất (cùng thỏa thuận về
tài sản chung), Luật HN&GĐ năm 1986 chưa quy định. Phương thức này chỉ
được ghi nhận kể từ Luật HN&GĐ năm 2000, tại Điều 27. Tuy nhiên, một điều

cần phải lưu ý, theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 70/2001/NĐ-CP): "Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và
các tài sản có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng phải
được lập thành văn bản và có chữ ký của cả vợ và chồng" [4, Điều 13].
Tài sản chung do áp dụng nguyên tắc suy đoán
Về nguyên tắc, đời sống hôn nhân thường kéo dài suốt cuộc đời vợ,
chồng, trừ khi vợ, chồng chết trước hoặc ly hôn. Trong quá trình đó, xu
hướng "lẫn lộn" tài sản chung, tài sản riêng là khó tránh khỏi và thông
thường, quan hệ hôn nhân càng lâu dài thì càng khó phân biệt ranh giới giữa
tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi người. Bởi vậy, khi có
tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, vấn đề xác định tài sản
chung, tài sản riêng trong những trường hợp này trở nên vô cùng khó khăn,
phức tạp. Để giải quyết vấn đề có tính thực tiễn nêu trên, nhà làm luật sử
dụng nguyên tắc suy đoán tài sản chung. Theo nguyên tắc này, những trường


hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp
là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng
(Khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000). Nguyên tắc suy đoán tài sản
chung được xây dựng trên cơ sở ưu tiên và hướng tới bảo vệ lợi ích chung của
gia đình. Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp nào chưa phân định được
tài sản chung hay tài sản riêng trong thực tế cũng áp dụng nguyên tắc này.
"Nguyên tắc suy đoán tài sản chung chỉ được áp dụng một khi tính chất chung
hay riêng của tài sản chưa được giải quyết dứt khoát; đối với tài sản có xuất
xứ rõ ràng và xuất xứ ấy được ghi nhận ngay từ hình thức biểu hiện bề ngoài
của tài sản, việc suy đoán phải bị loại trừ" [12, tr. 87]. Như vậy, với những
tài sản không "rõ ràng" về nguồn gốc, trong trường hợp có tranh chấp, nếu vợ
hoặc chồng muốn khẳng định tài sản đó là tài sản riêng của mình thì người đó
có nghĩa vụ chứng minh. Nếu không chứng minh được quyền sở hữu riêng

của mình đối với tài sản (có trước khi kết hôn, được thừa kế riêng hoặc tặng
cho riêng trong thời kỳ hôn nhân) thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng
theo nguyên tắc suy đoán tài sản chung nêu trên.
Tài sản chung là quyền sử dụng đất vợ chồng có được sau khi kết hôn
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, ngoài những quyền chung
như quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hưởng thành quả lao
động, đầu tư trên đất… người sử dụng đất còn có các quyền đối với tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền đối với tài sản gắn liền trên đất như quyền
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất…
Dưới góc độ pháp luật HN&GĐ, quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ
chồng bao gồm: Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ, chồng
được Nhà nước giao; Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một bên
vợ, chồng được Nhà nước cho thuê; Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung; Quyền sử dụng đất mà vợ chồng
được giao chung với hộ gia đình và quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được
trước khi kết hôn, được thừa kế riêng nhưng vợ chồng thỏa thuận là tài sản


chung (Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ 2000; Điều 24, 25, 26, 27 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP).
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, nguồn
hình thành tài chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản vợ chồng được thừa kế
chung, tặng cho chung; tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; tài sản
riêng mà vợ, chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung; tài sản có tranh chấp
nhưng vợ, chồng không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng và quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn.
1.1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng
1.1.2.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng

Trong hầu hết các gia đình, chức năng kinh tế được đảm bảo chủ yếu
bằng tài sản chung của vợ chồng. Nó được sử dụng để đáp ứng những nhu cầu
vật chất hàng ngày của gia đình. Nói cách khác, tài sản chung của vợ chồng
chính là nguồn sống của gia đình. Bởi vậy, việc duy trì sự ổn định, thường
xuyên bổ sung và phát triển khối tài sản chung là hết sức cần thiết. Tuy nhiên,
trong quá trình chung sống, do những lý do hoặc sự kiện đặc biệt mà việc duy
trì khối tài sản chung đó lại không đảm bảo lợi ích của gia đình hoặc không còn
điều kiện để tồn tại khối tài sản chung của vợ chồng, việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong những trường hợp này được đặt ra như một tất yếu khách quan.
Bình thường, tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất -
phần quyền sở hữu của vợ, chồng không được xác định. Khi đem chia, khối tài
sản chung được phân, tách thành từng phần (tính theo hiện vật hoặc giá trị) để
vợ, chồng có quyền sở hữu riêng. Sau khi chia, tài sản thuộc khối tài sản chung
của vợ chồng sẽ trở thành tài sản riêng của vợ hoặc chồng và vợ, chồng có toàn
quyền quyết định việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản đó. Như
vậy, "chia tài sản chung của vợ chồng là phân chia tài sản chung của vợ chồng
thành từng phần thuộc sở hữu riêng của vợ và của chồng" [53].


Với vai trò quan trọng của tài sản chung của vợ chồng, việc chia tài
sản chung không chỉ là vấn đề riêng của vợ chồng mà còn là mối quan tâm
của các thành viên còn lại trong gia đình (nếu có) và bên thứ ba có liên quan.
Trước hết, chia tài sản chung của vợ chồng có thể gây ra những xáo trộn nhất
định trong đời sống gia đình, đặc biệt là đời sống vật chất - việc đáp ứng các
nhu cầu sinh hoạt của gia đình có thể bị ảnh hưởng. Ngoài ra, bên thứ ba có
liên quan đặc biệt là các chủ nợ của vợ chồng cũng sẽ hết sức lưu tâm đến vấn
đề này để đảm bảo khả năng thu hồi nợ của mình khi tài sản chung của vợ
chồng trở thành tài sản riêng của một người và khối tài sản chung nay đã giảm
sút hoặc không còn.
1.1.2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp luật về chia tài

sản chung của vợ chồng
Theo quy định pháp luật, tài sản chung của vợ chồng có thể được chia
khi thuộc một trong ba trường hợp gồm: chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn
và chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết.
Trước hết, chế định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng được
xây dựng trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và BLDS.
Việc Hiến pháp nước ta ghi nhận và bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp
pháp của công dân (Điều 58 Hiến pháp 1992) là cơ sở đầu tiên để vợ, chồng
xác lập quyền sở hữu riêng đối với tài sản được chia. Khi chia tài sản chung,
khối tài sản chung của vợ chồng bị giảm sút nhưng khối tài sản riêng của vợ,
chồng lại tăng lên tương ứng. Đồng thời, với tư cách là luật chung, những quy
định của BLDS về sở hữu chung, đặc biệt là các quy định liên quan đến sở
hữu chung của vợ chồng như sở hữu chung hợp nhất (Điều 217 BLDS năm
2005); sở hữu chung của vợ chồng (Điều 219); chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung (Điều 221, 222, 223); chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung
(Điều 224)… là những quy định tiền đề để luật chuyên ngành (Luật HN&GĐ)
quy định cụ thể về các trường hợp cũng như điều kiện, nguyên tắc… chia tài

×