Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.35 KB, 118 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




nguyễn thị vân





bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
theo quy định của pháp luật việt nam




luận văn thạc sĩ luật học








Hà nội - 2010




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



nguyễn thị vân




bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
theo quy định của pháp luật việt nam

Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30



luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh


Hà nội - 2010

MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
6
1.1.
Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng
6
1.1.1.
Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp
6
1.1.1.1.
Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ

6
1.1.1.2.
Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
8
1.1.1.3.
Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
10
1.1.2.
Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng
13
1.1.2.1.
Khái niệm nhãn hiệu
13
1.1.2.2.
Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng
15
1.1.2.3.
Khái niệm quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng
18
1.1.2.4.
Phân biệt nhãn hiệu nổi tiếng với nhãn hiệu thường
20
1.2.
Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp
luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
nổi tiếng trên thế giới và Việt Nam
21
1.2.1.
Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp
luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

nổi tiếng trên thế giới
21
1.2.2.
Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp
luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
nổi tiếng tại Việt Nam
29
1.3.
Vai trò của việc bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng
31
1.3.1.
Vai trò của nhãn hiệu nổi tiếng đối với doanh nghiệp
32
1.3.2.
Vai trò của nhãn hiểu nổi tiếng đối với người tiêu dùng
33
1.3.3.
Vai trò của nhãn hiệu nổi tiếng đối với nền kinh tế trong xu
thế hội nhập
34

Chương 2: NHỮNG QUI ĐỊNH VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
36
2.1.
Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu
36
2.1.1.

Những dạng dấu hiệu được bảo hộ
37
2.1.2.
Điều kiện về khả năng phân biệt của nhãn hiệu
39
2.1.2.1.
Khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu
43
2.1.2.2.
Khả năng phân biệt thông qua sử dụng
45
2.1.2.3.
Khả năng phân biệt với một số đối tượng khác của quyền sở
hữu trí tuệ
46
2.2.
Tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
47
2.2.1.
Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu
thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang
nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo
50
2.2.2.
Phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã
được lưu hành
51
2.2.3.
Doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mang
nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng

dịch vụ đã được cung cấp
52
2.2.4.
Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu
53
2.2.5.
Uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu
54
2.2.6.
Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu
55
2.2.7.
Số lượng quốc gia công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng
55
2.2.8.
Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị
góp vốn đầu tư của nhãn hiệu
56
2.3.
Căn cứ phát sinh, phạm vi bảo hộ, thời hạn bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng
60
2.3.1.
Căn cứ phát sinh quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng
60
2.3.2.
Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
nổi tiếng
62

2.3.3.
Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng
64
2.4.
Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với hữu nhãn hiệu
nổi tiếng
65
2.4.1.
Quyền sử dụng nhãn hiệu nổi tiếng
65
2.4.2.
Quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu nổi tiếng
66
2.4.3.
Quyền yêu cầu xử lý các hành vi xâm phạm
69
2.5.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng
71
2.5.1.
Xác định hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu nổi tiếng
71
2.5.2.
Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng
78
2.5.2.1.
Biện pháp dân sự
79

2.5.2.2.
Biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hóa xuất,
nhập khẩu qua biên giới
87

Chương 3: THỰC TRẠNG BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG Ở VIỆT NAM
95
3.1.
Thực trạng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam
95
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của pháp luật
Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng
101

KẾT LUẬN
107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
108




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự
SHCN
: Sở hữu công nghiệp
SHTT
: Sở hữu trí tuệ


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội hiện nay, việc bảo hộ các sản phẩm sở hữu trí tuệ là một
đòi hỏi bức thiết, khách quan và công bằng. Nó không chỉ bảo vệ các quyền
của chủ sở hữu - người sáng tạo ra các sản phẩm sở hữu trí tuệ mà còn góp
phần thúc đẩy sức lao động sáng tạo để xã hội phát triển.
Trong vài năm trở lại đây, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng thế giới đã
được đưa vào thị trường Việt Nam và trở thành nhãn hiệu quen thuộc của
người tiêu dùng trong nước như nước giải khát Pepsi, Coca Cola, xe hơi Ford,
Toyota, sản phẩm thời trang Gucci, CK… Những nhãn hiệu này đã và đang
đóng vai trò to lớn trong sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia, đòi hỏi
chúng ta cần phải có một cách nhìn nhận đúng đắn và có sự quan tâm cần
thiết đến việc bảo hộ đối tượng này một cách hiệu quả và kịp thời trên thực tế.
Cũng trong thời gian qua, các vụ tranh chấp, vi phạm về sở hữu công
nghiệp, trong đó có cả các tranh chấp, vi phạm về nhãn hiệu nổi tiếng xảy ra
ngày càng nhiều, thường kéo dài và khó giải quyết đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến công việc kinh doanh, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, gây
thiệt hại cho người tiêu dùng, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Việt Nam là một quốc gia đang từng bước đi vào nền kinh tế thị
trường, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Do vậy, việc bảo hộ
nhãn hiệu nhất là nhãn hiệu nổi tiếng đóng một vai trò quan trọng trong tiến

trình hội nhập. Hơn nữa, Việt Nam là thành viên của Công ước Paris về bảo
hộ sở hữu công nghiệp và đang thực hiện các quy định của Hiệp định
TRIPS/WTO cho nên sẽ trở thành một thị trường hấp dẫn đối với các doanh
nghiệp nước ngoài. Và một thực tế trước mắt mà bất cứ ai cũng có thể nhìn
thấy là sẽ có rất nhiều các nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ nổi tiếng thế giới

2
xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Nhu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật
về nhãn hiệu nổi tiếng sẽ càng cần hơn bao giờ hết. Chúng ta cần phải có
những động thái cụ thể và hiệu quả hơn trong công tác lập pháp cũng như
trong quá trình áp dụng pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng để tạo lập môi
trường pháp lý an toàn nhằm tạo sự tin cậy và an tâm đối với các nhà đầu tư
nước ngoài.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề này đối với sự
phát triển của đất nước và hội nhập kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài "Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo
quy định của pháp luật Việt Nam" với mong muốn có cơ hội tìm hiểu,
nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng, từ đó
đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong nước về
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng để phù hợp với tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng đang thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan,
ban ngành, các nhà khoa học cũng như các cơ sở đào tạo luật. Đã có rất nhiều
các cuộc hội thảo được tổ chức liên quan đến vấn đề này như: Hội thảo về
hiệp định TRIPS, Hội thảo về các đối tượng sở hữu công nghiệp mới ở Việt
Nam… Nhiều bài viết, giáo trình, công trình khoa học như: "Giáo trình Luật
Sở hữu trí tuệ" của tập thể tác giả do TS. Phùng Trung Tập chủ biên, NXB
Công an nhân dân năm 2008; "Quyền sở hữu trí tuệ" của Lê Nết, NXB Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 2006; "Các qui định của pháp luật về

sở hữu công nghiệp" NXB chính trị quốc gia 2001…
Nhãn hiệu nổi tiếng được đề cập ở các mức độ khác nhau trong các
tạp chí của một số tác giả như: "Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật
Châu Âu và Hoa Kỳ" của ThS. Phan Ngọc Tâm, (Tạp chí khoa học pháp lý,
số 4/2006); "Một số vấn đề về nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng" của Nguyễn

3
Như Quỳnh, (Tạp chí Luật học số 2/2001); "Về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng" của Trần Việt Hùng, (Tạp chí hoạt động khoa học số 11/2007). Khóa
luận tốt nghiệp của Nguyễn Minh Hằng (2008): "Một số vấn đề về bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng trong pháp luật Việt Nam".
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên chỉ đề cập đến
việc bảo hộ nhãn hiệu thông thường ở trong nước, hoặc đã có sự so sánh việc
bảo hộ nhãn hiệu với một số nước phát triển trên thế giới mà chưa có một
công trình nghiên cứu ở cấp độ thạc sĩ phân tích một cách có hệ thống việc
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật hiện hành. Trong giai
đoạn hội nhập hiện nay, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng đóng vai trò quan trọng
trong việc phát triển kinh tế. Do đó, tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học thực
tiễn của luận văn này hoàn toàn có tính thời sự. Luận văn chỉ ra quy định của
pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng đồng thời có sự liên hệ bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng ở một số nước trên thế giới. Từ đó nhằm hoàn thiện khung pháp
luật và cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, góp phần bảo vệ doanh nghiệp, nhà
đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng và góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đề tài "Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam"
là một đề tài độc lập, mang tính thời sự. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là
đề tài không có sự kế thừa mà ngược lại, để hoàn thành luận văn này, tác giả
phải sưu tầm, học hỏi kiến thức cũng như kinh nghiệm trong các công trình
khoa học có liên quan đã công bố và các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành.
3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là những vấn đề lý luận và

thực tiễn việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt
Nam, đồng thời có sự tham khảo bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng của một số nước
trên thế giới.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở kế thừa và phát triển
các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước làm rõ nội dung các quy

4
định pháp luật trong nước về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, kết hợp với thực tiến
và có liên hệ với một số nước, từ đó đánh giá, đưa ra những kiến nghị, giải pháp
để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền sở
hữu công nghiệp, cũng như các thành tựu của các chuyên ngành khoa học
pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, luật Dân sự,
luật Sở hữu trí tuệ, triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của các nhà
khoa học.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là sử dụng kết hợp các
phương pháp như: phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so sánh,
phân tích, tổng hợp, thống kê. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào
các văn bản pháp luật của Nhà nước, các Hiệp định cũng như các thông tin
trên mạng Internet.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tổng thể những quy định của pháp luật
hiện hành về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng và Điều ước quốc tế có liên quan, đồng
thời có tham khảo pháp luật của một số nước trên thế giới về lĩnh vực này.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn tập trung vào giải quyết
những vấn đề sau:

1) Phân tích và đánh giá một cách có hệ thống và toàn diện những vấn
đề lý luận về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng
2) Phân tích và đánh giá những qui định của pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng.

5
3) Tìm hiểu thực trạng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam, từ đó
xem xét tính phù hợp, hiệu quả của những quy định đó, đồng thời đưa ra kiến
nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng.
Chương 2: Những quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam.

6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG

1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN
HIỆU NỔI TIẾNG
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh hoạt động sáng tạo
của con người là một trong những nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của

xã hội. Đặc biệt, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động sáng tạo ra các sản
phẩm trí tuệ con người đối với sự nghiệp phát triển khoa học, công nghệ, kinh
tế, văn hoá, xã hội đã được nhận thức tương đối thống nhất trong phạm vi
quốc gia cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Hoạt động sáng tạo của con
người tuy mang tính chất vô hình nhưng lại chứa đựng giá trị vật chất, tinh
thần vô cùng to lớn; sản phẩm của hoạt động đó được thừa nhận là tài sản trí
tuệ. Chế định sở hữu các tài sản trí tuệ được gọi là sở hữu trí tuệ (SHTT) và
quyền SHTT là một trong những quyền không thể thiếu của con người, đòi
hỏi phải có sự bảo hộ từ phía Nhà nước và cộng đồng quốc tế.
Theo Điều 2 Công ước Stockholm 1967 về việc thành lập Tổ chức
SHTT thế giới (WIPO), SHTT bao gồm các quyền liên quan tới:
1. Các sản phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;
2. Sự trình diễn của các nghệ sĩ, các chương trình phát và truyền
thanh, phát và truyền hình;
3. Các sáng chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người;
4. Các phát minh khoa học;

7
5. Kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên
thương mại, chỉ dẫn thương mại;
6. Chống cạnh tranh không lành mạnh;
7. Các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực
khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật.
Trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm quyền
SHTT được qui định tại Điều 3 khoản 2 chương 2, theo đó:
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền liên
quan, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, thiết kế bố trí (topography)
mạch tích hợp, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá,
thông tin bí mật (bí mật thương mại), kiểu dáng công nghiệp và
quyền đối với giống thực vật [17].

Như vậy, có thể hiểu quyền SHTT bao gồm quyền tác giả, quyền
SHCN và quyền đối với giống cây trồng. Quyền tác giả đề cập đến quyền của
người sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học. Quyền tác
giả bảo hộ chủ sở hữu quyền đối với những tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học… nhằm chống lại việc sao chép, sử dụng hình thức của tác phẩm
nguyên gốc đã được bảo hộ. Các đối tượng có thể được bảo hộ quyền tác giả
là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc, tạo hình, phát thanh, truyền
hình… Quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng sáng tạo chứ
không bảo hộ nội dung các ý tưởng đó.
Quyền SHCN đề cập đến người sáng tạo trí tuệ liên quan đến các đối
tượng thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và thương mại, bao gồm: Sáng chế,
giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý…
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thuật ngữ "sở hữu trí tuệ" và
"quyền sở hữu trí tuệ" chính thức được sử dụng lần đầu tiên trong Bộ luật Dân
sự (BLDS) năm 1995. Mặc dù không được định nghĩa trực tiếp song cấu trúc

8
và nội dung phần thứ sáu BLDS có thể cho chúng ta hiểu về quyền SHTT như
sau: Quyền SHTT là một chế định pháp lý gồm quyền tác giả và quyền SHCN
được pháp luật qui định và bảo hộ. Đó là một loại hình quyền sở hữu đặc biệt
mà đối tượng là các sản phẩm sáng tạo do lao động trí óc con người tạo ra, là
sản phẩm trí tuệ con người. BLDS 2005 đã bổ sung thêm đối tượng của quyền
SHTT là quyền đối với giống cây trồng.
Luật SHTT năm 2005 đã đưa ra khái niệm: "Quyền sở hữu trí tuệ là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và
quyền liên quan đến tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng" (Khoản 1, Điều 4)
Như vậy, quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với những
tài sản trí tuệ do con người sáng tạo. Đó là độc quyền được trao cho một
người, một nhóm người hoặc một tổ chức để khai thác, sử dụng, định đoạt

những sản phẩm của hoạt động sáng tạo trí tuệ.
1.1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Trên thế giới, pháp luật về SHTT đã manh nha hình thành vào thời
kỳ Trung cổ ở các nước Châu Âu. Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
(SHCN), cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đã xuất hiện một
hình thức "đặc ân" do vua chúa ban cho nhà sáng chế nhằm khuyến khích
tạo ra sáng chế mới. Người tạo ra sáng chế được độc quyền khai thác chính
sáng chế do mình tạo ra trong một thời hạn nhất định. Đây chính là tiền thân
của hệ thống bảo hộ sáng chế ở Châu Âu trước đây. Đến cuối thế kỷ 16 hình
thức này trở nên không còn phù hợp. Năm 1623, Nghị viện Anh thông qua
đạo luật về độc quyền theo đó mọi hình thức độc quyền bị xoá bỏ trừ độc
quyền sáng chế. Hình thức bảo hộ của Nhà nước đối với sáng chế được thực
hiện thông qua việc cấp văn bằng độc quyền sáng chế. Đây là văn bản pháp
luật đầu tiên khởi đầu cho hệ thống văn bằng sáng chế của Anh và các nước
Âu - Mỹ khác.

9
Luật nhãn hiệu hàng hoá đầu tiên trên thế giới được ban hành tại Pháp
năm 1857. Theo luật này, quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa thuộc về người
thực hiện sớm nhất một trong hai việc: (1) sử dụng nhãn hiệu; (2) đăng ký
nhãn hiệu theo qui định của pháp luật. Nếu một người đăng ký một nhãn hiệu
nhưng thời điểm sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của người đó lại sau người thứ
hai thì quyền đối với nhãn hiệu thuộc về người thứ hai.Về sau, các nước khác
cũng ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá: Italia (1868), Bỉ (1879), Mỹ (1881),
Anh (1883), Đức (1894), Nga (1896) trong đó qui định việc xác lập quyền
sở hữu đối với nhãn hiệu hàng hoá thông qua thủ tục đăng ký bảo hộ tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu hàng hoá [20].
Hiện nay, các đối tượng sở hữu công nghiệp bao gồm: sáng chế, giải
pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, chỉ

dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật kinh doanh.
Theo Điều 1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký
kết ngày 20/3/1883 và được sửa đổi vào năm 1967 thì Công ước không trực
tiếp đưa ra định nghĩa cụ thể về quyền SHCN mà chỉ qui định về các đối
tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ bao gồm: "Sáng chế, mẫu hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương
mại, chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, quyền chống
cạnh tranh không lành mạnh".
Sau hơn một thế kỷ, cho đến nay danh sách các đối tượng sở hữu công
nghiệp đó được bổ sung thêm một số đối tượng mới, đó là:
- Bí mật kinh doanh;
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp.
Công ước Paris đã xác định rõ cách hiểu về SHCN, theo đó SHCN
được hiểu theo cách rộng nhất, cho tất cả các ngành sản xuất công nghiệp,
thương mại, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản

10
phẩm chế biến và sản phẩm tự nhiên như rượu vang, ngũ cốc, thuốc lá, hoa
quả, nước khoáng, bia và bọt.
Theo Điều 780 của BLDS Việt Nam năm 1995 thì quyền SHCN là
"quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ
hàng hoá và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định.
Ngoài việc liệt kê các đối tượng SHCN cụ thể tại Điều 780, BLDS
Việt Nam năm 1995 còn qui định quyền SHCN đối với các "đối tượng khác".
Định nghĩa này có yếu tố mở để dần dần cập nhật những đối tượng khác sẽ
được bảo hộ với tư cách là đối tượng của quyền SHCN trong tương lai. Cho
đến nay, pháp luật Việt Nam bảo vệ thêm các đối tượng SHCN sau: bí mật
kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh liên quan tới SHCN, thiết kế bố trí mạch tích hợp và được ghi nhận

tại một luật riêng - Luật SHTT năm 2005. Điều 4 khoản 4 của Luật SHTT đưa
ra khái niệm "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo
ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh".
1.1.1.3. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền SHCN là một loại quyền tài sản, do đó nó có đầy đủ đặc tính
của quyền tài sản nói chung đó là: chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản
của mình và không ai được sử dụng tài sản đó nếu không được sự cho phép
của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất đặc thù của các đối tượng
SHCN - tài sản trí tuệ, quyền SHCN có những đặc điểm riêng để phân biệt
với quyền sở hữu khác, thậm chí với cả quyền tác giả.
Thứ nhất, tính vô hình của đối tượng SHCN
Cũng giống như quyền tác giả, đối tượng quyền SHCN mang đặc
trưng của đối tượng quyền SHTT đó là đặc tính vô hình. Đặc tính này hoàn

11
toàn khác với đặc tính hữu hình của sở hữu tài sản vật chất. Là sản phẩm của
sáng tạo trí tuệ, mang tính vô hình nên đối tượng của quyền SHTT nói chung
và quyền SHCN nói riêng phải được vật chất hóa hoặc được thể hiện trên các
vật mang tin cụ thể. Nói cách khác, tài sản SHTT vô hình phải được phản ánh,
thể hiện thông qua những vật thể hữu hình. Một vật thể hữu hình có thể vừa là
đối tượng của quyền sở hữu tài sản vật chất lại vừa chứa đựng trong nó đối
tượng của quyền SHTT. Đặc tính vô hình của SHTT là đặc trưng quan trọng
nhất. Quyền SHCN là một quyền tài sản và đối tượng của quyền SHCN mang
tính phi vật chất. Bởi vì, bản thân quyền SHCN không thể tự nó đem lại các
tiện ích hiện hữu cho người nắm giữ quyền mà nó chỉ đem lại các lợi ích vật
chất và tinh thần cũng như các lợi thế cho chủ sở hữu, người sử dụng khi các
đối tượng quyền SHCN được áp dụng vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, phạm vi bảo hộ

Quyền SHCN chỉ được thừa nhận và bảo hộ theo thủ tục pháp lý. Chủ
thể phải gửi đơn yêu cầu bảo hộ và được cấp văn bằng bảo hộ bởi cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Việc bảo hộ này là bảo hộ độc quyền khai thác, sử
dụng của chủ sở hữu đối với đối tượng được bảo hộ trong một thời gian nhất
định theo qui định của pháp luật. Chỉ chủ sở hữu mới có quyền sử dụng hoặc
chuyển giao cho người khác sử dụng các đối tượng SHCN thuộc sở hữu của mình.
Khác với quyền sở hữu thông thường, quyền SHCN bị giới hạn bởi
không gian và thời gian. Về không gian, việc bảo hộ quyền SHCN mang tính
lãnh thổ triệt để. Điều này có nghĩa là quyền SHCN chỉ phát sinh trên cơ sở
công nhận và cấp Văn bằng bảo hộ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và
chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ đã công nhận hoặc cấp văn bằng đó.
Việc bảo hộ quyền SHCN trên thế giới đều tuân thủ nguyên tắc pháp luật
quốc gia. Quyền SHCN xuất phát từ đặc trưng của đối tượng SHCN - một tài
sản vô hình được truyền bá bằng con đường nhận thức nên rất dễ bị xâm
phạm, khó kiểm soát. Hơn nữa, việc áp dụng các đối tượng SHCN chủ yếu
gắn với quá trình sản xuất công nghiệp, với mục đích thương mại và thỏa mãn

12
nhu cầu vật chất của con người nên thường mang lại lợi ích lớn, có ảnh hưởng
tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội quốc gia. Vì vậy,
quyền SHCN mang tính lãnh thổ tuyệt đối.
Về mặt thời gian, quyền SHCN được bảo hộ trong một khoảng thời
gian nhất định, vì đối tượng SHCN là các sản phẩm trí tuệ thay đổi nhanh
chóng theo tiến bộ khoa học công nghệ, dễ "lạc hậu" so với yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước. Các đối tượng SHCN, đặc biệt là những đối
tượng mang lại nhiều lợi ích kinh tế, giảm chi phí trong sản xuất hàng hoá và
dịch vụ (sáng chế, giải pháp hữu ích) thường được bảo hộ trong một khoảng
thời gian tương đối ngắn (tối đa là 20 năm). Hầu hết pháp luật về SHCN các
nước đều qui định thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm, thời hạn bảo hộ nhãn
hiệu hàng hoá là 10 năm, có thể gia hạn nhiều lần, mỗi lần 10 năm. Hết thời

hạn bảo hộ, chủ sở hữu sẽ mất độc quyền cũng như các quyền khác đối với
đối tượng được bảo hộ. Các đối tượng này sẽ thuộc về công chúng, họ có
quyền tự do khai thác, sử dụng các lợi ích kinh tế do chúng đưa lại. Tuy
nhiên, một số đối tượng SHCN như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu
nổi tiếng… được bảo hộ vô thời hạn nhưng các đối tượng đó cũng như chủ sở
hữu các đối tượng đó phải đáp ứng một số điều kiện do pháp luật qui định.
Thứ ba, quyền sử dụng
Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng của chủ sở hữu (chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu dường như là quyền cơ bản và
quan trọng nhất. Điều này xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu hình: trong
hầu hết các trường hợp, chủ sở hữu phải chiếm hữu tài sản thì mới có thể khai
thác công dụng của tài sản đó.
Trong khi đó, đối với quyền SHCN, quyền sử dụng lại được coi là
quyền năng cơ bản nhất. Với tài sản là nhãn hiệu quyền này được thể hiện
thông qua quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm người
khác sử dụng và định đoạt nhãn hiệu được bảo hộ nếu không được chủ sở hữu

13
cho phép. Điều này cũng xuất phát từ tính vô hình của các đối tượng SHCN.
Chủ sở hữu không thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản. Việc khai thác giá
trị quyền được thực hiện thông qua hành vi sử dụng đối tượng SHCN. Bản
thân các đối tượng SHCN không tạo ra giá trị mà chúng phải được ứng dụng
vào những loại vật chất hữu hình cụ thể và phát sinh giá trị quá trình sử dụng,
vận hành, khai thác các loại vật chất hữu hình này. Về bản chất, bảo hộ quyền
SHCN là bảo hộ độc quyền khai thác, sử dụng đối tượng SHCN. Ví dụ, đối
với nhãn hiệu thì chủ sở hữu nhãn hiệu có thể: tự mình sử dụng nhãn hiệu như
gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì, phương tiện dịch vụ, lưu
thông, chào bán, quảng cáo, xuất nhập khẩu hàng hóa mang nhãn hiệu; cho
phép người khác sử dụng nhãn hiệu để đổi lấy lợi ích vật chất, chuyển nhượng
quyền sở hữu nhãn hiệu cho người khác để đổi lấy lợi ích vật chất.

Như vậy, quyền của chủ sở hữu đối tượng SHCN được thể hiện chủ
yếu và cơ bản nhất ở quyền sử dụng đối tượng SHCN.
1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng
1.1.2.1. Khái niệm nhãn hiệu
Nhãn hiệu (Trademark) là một yếu tố đặc trưng gắn liền giữa thị
trường thương mại và lĩnh vực SHCN. Nó đã được sử dụng trong một thời
gian dài bởi các nhà sản xuất cũng như các thương nhân để xác định nguồn
gốc xuất xứ của hàng hóa hay dịch vụ của họ và phân biệt những hàng hóa,
dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bán bởi các chủ thể
khác. Chức năng phân biệt nguồn gốc của hàng hóa hay dịch vụ của nhãn hiệu
được xem là yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu. Vì vậy, nó luôn đóng vai
trò trung tâm và được đề cập đến rất nhiều trong pháp luật về nhãn hiệu của
hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nhãn hiệu đã trải qua một lịch sử phát triển khá dài trong suốt quá
trình phát triển của nền thương mại thế giới. Từ thời La Mã cổ đại, việc các
nhà sản xuất chạm nổi hay đóng dấu lên các sản phẩm của mình là khá phổ

14
biến. Đó là một hình thức thể hiện của nhãn hiệu, qua những hình thể chạm
nổi hay các con dấu mà họ có thể phân biệt xuất xứ hàng hóa của các nhà sản
xuất với nhau [12].
Trên thị trường có rất nhiều người làm ra hoặc bán cùng một loại sản
phẩm. Chúng được mang các nhãn hiệu khác nhau. Công chúng căn cứ vào
những nhãn hiệu đó để lựa chọn những sản phẩm mà họ sẽ mua. Nếu sản phẩm
đó làm vừa lòng họ, sau đó có thể họ sẽ tiếp tục mua chúng bằng cách ghi nhớ
nhãn hiệu của sản phẩm. Đồng thời, họ cũng căn cứ vào nhãn hiệu hàng hóa để
biết được ai là chủ thực sự của nhãn hiệu đó hay nói cách khác hàng hóa đó do
cơ sở sản xuất kinh doanh nào chịu trách nhiệm trên thị trường. Như vậy, không
chỉ giúp cho việc cá biệt hóa hàng hóa, dịch vụ, nhãn hiệu hàng hóa còn nhằm
phân biệt các cơ sở sản xuất kinh doanh đang cạnh tranh với nhau trên thị

trường. Để làm được điều này trong thực tế, "nhãn hiệu hàng hóa cần phải
không chỉ khác biệt, mà chúng còn dễ dàng phân biệt được với những nhãn hiệu
hàng hóa khác. Nói cách khác, chúng phải có ý nghĩa tự phân biệt" [14].
Nhãn hiệu phải dễ dàng phân biệt được với những nhãn hiệu khác. Để
làm được điều này nhãn hiệu hàng hóa phải có tính khác biệt, có nghĩa là nó
phải có tính sáng tạo, độc đáo. Vấn đề này được xem là đẳng cấp của nhãn
hiệu hàng hóa. Trong thực tế, có những nhãn hiệu hàng hóa có trình độ cao về
tính sáng tạo và vì vậy cũng có tính phân biệt cao. Nhưng đa số các nhãn hiệu
thường xuất phát từ những thuật ngữ thông thường được sử dụng rộng rãi
trong thương mại (ví dụ: Đồng hồ Bảo Tín; Maggi ngon ngon; ). Việc đăng
ký, bảo hộ những nhãn hiệu này thường được cân nhắc kỹ về tính phân biệt
của nó nhằm tránh gây cản trở cho hoạt động kinh doanh hợp pháp của các
chủ thể khác, do đó dẫn tới cản trở cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Điều 15 Hiệp định TRIPS qui định nhãn hiệu: "Bất kỳ một dấu hiệu,
hoặc một tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hoàng hóa, dịch vụ
của một doanh nghiệp với hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều

15
có thể làm nhãn hiệu". Theo đó, bất kỳ một dấu hiệu nào (kể cả màu sắc, mùi
vị, âm thanh ) miễn là dấu hiệu để phân biệt được hàng hóa đều có thể coi là
nhãn hiệu. Đây cũng là cơ sở để các nước tham khảo trên cơ sở đó theo đặc
thù của từng quốc gia có thể đưa ra những khái niệm riêng của quốc gia mình.
Theo định nghĩa của Hiệp hội nhãn hàng thế giới (INTA) thì nhãn
hiệu có thể là từ ngữ, tên gọi, biểu tượng, hình ảnh, khẩu hiệu hoặc các hình
dạng của bao gói hoặc kết hợp của các yếu tố đó phục vụ cho việc xác định và
phân biệt một sản phẩm cụ thể của những chủ thể khác nhau trên thị trường
hoặc trong kinh doanh.
Tại Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 thì "nhãn hiệu là những
dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau"
Dấu hiệu này được bảo hộ nếu được thể hiện dưới dạng từ ngữ, hình ảnh hoặc

sự kết hợp giữa các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Hình ảnh trong nhãn hiệu có thể là ảnh, hình vẽ, có thể là hình không gian 3
chiều. Còn từ ngữ có thể là tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa
(nhưng phải có khả năng phân biệt với các nhãn hiệu hàng hóa khác), chúng
có thể là đen trắng hoặc có màu sắc. Pháp luật Việt Nam không công nhận và
bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa chỉ gồm tổ hợp các màu sắc mà không kèm trong
đó từ ngữ hay hình ảnh nào.
Nhìn chung, định nghĩa về nhãn hiệu trong pháp luật SHTT Việt Nam
và pháp luật SHTT thế giới có sự khác nhau nhất định nhưng đều phản ánh
những đặc điểm mang tính bản chất của nhãn hiệu, đó là tạo khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau.
1.1.2.2. Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng
Ngày nay, nhãn hiệu được sử dụng một cách phổ biến hơn với nhiều
thể loại hơn. Và nó là một hình thức rất có giá trị của quyền sở hữu trí tuệ bởi
vì nó gắn liền với chất lượng cũng như sự mong đợi của người tiêu dùng đối
với hàng hóa và dịch vụ.

16
Nhiều sản phẩm hàng hóa đã trở nên đồng nhất với tên nhãn hiệu của
chúng, chẳng hạn như nước giải khát Coca Cola, cà phê Nestcafé, quần Jean
Levi’s… Những sản phẩm này thực sự đã trở nên nổi tiếng và được biết đến
một cách rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Đây cũng là một thành công
quan trọng của các nhà sản xuất và các thương nhân trong việc quảng bá sản
phẩm của họ. Tuy nhiên, chính sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa cũng
mang lại không ít khó khăn cho các doanh nghiệp vì nó sẽ rất dễ bị xâm phạm
bởi các chủ thể khác. Ngày càng có nhiều các hàng hóa và dịch vụ tương tự
với những hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng được sản xuất và điều
này đã gây ra sự nhầm lẫn của người tiêu dùng trong việc lựa chọn và sử dụng
những hàng hóa, dịch vụ thật sự mà họ mong muốn. Vì vậy, một trong những
vấn đề quan trọng đặt ra là phải làm thế nào ngăn chặn các hiện tượng xâm

phạm đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng như thế. Mặc dù đã được biết đến
từ rất lâu, song cho đến hiện nay cách hiểu về nhãn hiệu nổi tiếng (Well-
known Mark) vẫn còn đang rất khác nhau trong các điều ước quốc tế cũng
như trong pháp luật các nước.
Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã lần
đầu tiên đề cập đến nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng tại Điều 6
bis
:
Một cách mặc nhiên nếu luật quốc gia cho phép điều đó,
hoặc theo đề nghị của bên có liên quan, các nước thành viên của
Liên minh có trách nhiệm từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, ngăn cấm
việc sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó là sự sao chép, bắt chước,
biên dịch và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được cơ
quan có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc nước sử dụng coi là
nhãn hiệu nổi tiếng tại nước đó của người được Công ước cho
hưởng lợi thế sử dụng nhãn hiệu đó trên các loại hàng hóa giống
hoặc tương tự. Những quy định này cũng được áp dụng trong
trường hợp thành phần chủ yếu của nhãn hiệu là sự sao chép của bất

17
kỳ nhãn hiệu nổi tiếng nào hoặc sự bắt chước có khả năng gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu đó [11].
Điều 6
bis
này được hiểu là: Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu của các cá
nhân, pháp nhân thuộc các nước thành viên Công ước Paris, có thể đăng ký
hoặc chưa đăng ký bảo hộ và được cơ quan có thẩm quyền ở nước đăng ký
hoặc sử dụng công nhận. Theo đó, nhãn hiệu nổi tiếng sẽ được các nước bảo
hộ như sau: Từ chối việc đăng ký một nhãn hiệu tương tự cho người khác để
sử dụng cho cùng sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự; hủy bỏ đăng ký một

nhãn hiệu tương tự đã cấp cho người khác cho cùng một sản phẩm hoặc sản
phẩm tương tự; yêu cầu chấm dứt việc sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự
với nhãn hiệu nổi tiếng.
Tuy nhiên, những qui định chi tiết như vậy về nhãn hiệu nổi tiếng của
Công ước Paris chỉ đề cập đến nhãn hiệu hàng hóa, chưa mở rộng phạm vi
bảo hộ đối với cả nhãn hiệu dịch vụ nổi tiếng.
Theo Hiệp định TRIPS:
Để xác định một nhãn hiệu hàng hóa có nổi tiếng hay không
các thành viên phải chú ý đến sự nhận biết nhãn hiệu hàng hóa đó
trong một bộ phận công chúng liên quan, kể cả sự nhận biết về nhãn
hiệu hàng hóa đó tại nước thành viên tương ứng đạt được nhờ
quảng cáo nhãn hiệu hàng hóa đó [18].
Như vậy, qui định này có nghĩa là việc xác định nhãn hiệu nổi tiếng
tùy thuộc vào hệ thống đánh giá (nếu có) của từng quốc gia, đánh giá sự nổi
tiếng của nhãn hiệu phải được tiến hành ở quốc gia thành viên có liên quan.
Theo qui định của pháp luật Việt Nam, tại Nghị định số 06/2001/NĐ-CP
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/NĐ-CP quy định chi tiết về
sở hữu công nghiệp (Điều 2 khoản 8 mục b) thì nhãn hiệu nổi tiếng được định
nghĩa như sau: "Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên
tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu được biết đến một

18
cách rộng rãi ". Định nghĩa này đã bộc lộ một số bất cập trong cách hiểu
cũng như là trong quá trình áp dụng pháp luật. Theo như định nghĩa trên, một
nhãn hiệu nổi tiếng phải đáp ứng được hai yếu tố là "được sử dụng liên tục"
và "được biết đến một cách rộng rãi". Quy định như vậy là không rõ ràng.
Thứ nhất, nếu "liên tục" dưới góc độ thời gian là liên tiếp, kế tiếp mà không
có sự gián đoạn thì một nhãn hiệu phải được sử dụng trong khoảng thời gian
là 10 năm, 20 năm hay lâu hơn mới được coi là "liên tục"? Thứ hai, một nhãn
hiệu như thế nào thì được coi là có "uy tín" để được biết đến "rộng rãi". Đối

với sản phẩm hàng hóa, "uy tín" được tạo nên bởi những yếu tố nào và nếu
"được biết đến rộng rãi" là nói tới số lượng người biết đến trong nước hay
ngoài nước.
Luật SHTT năm 2005 ra đời đã đưa ra khái niệm về nhãn hiệu nổi
tiếng "nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi
trên toàn lãnh thổ Việt Nam" (Điều 4).
Qui định trên đã khắc phục được nhược điểm của định nghĩa nhãn
hiệu nổi tiếng trong Nghị định 06, thứ nhất, nhãn hiệu nổi tiếng phải là nhãn
hiệu, tức là nó phải đáp ứng yêu cầu bảo bộ của nhãn hiệu. Thứ hai, định
nghĩa này đã đưa ra phạm vi nổi tiếng, có nghĩa là trên toàn lãnh thổ Việt
Nam. Việc qui định phạm vi này sẽ rút ra một hệ quả, nếu một nhãn hiệu rất
nổi tiếng trên thế giới, tuy nhiên nếu người tiêu dùng Việt Nam không biết
đến, thì nhãn hiệu này sẽ không được coi là nổi tiếng theo quy định của pháp
luật Việt Nam. Bên cạnh đó để khắc phục sự thiếu sót của Nghị định 06, lần
đầu tiên Luật đã đưa ra các tiêu chí để công nhận một nhãn hiệu nổi tiếng tại
Điều 75 Luật SHTT.
1.1.2.3. Khái niệm quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng
Nhãn hiệu là một tài sản trí tuệ quý giá, có vai trò vô cùng quan trọng
trong hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và phát triển thị trường của một doanh
nghiệp, dù doanh nghiệp đó thực hiện sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch

×