Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.68 KB, 90 trang )

LUẬN VĂN:

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp
luật Việt Nam


Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Ngày 10 tháng 9 năm 1945, Sở Thuế quan và Thuế gián thu (tên gọi đầu tiên của
Hải quan Việt Nam ngày nay) được thành lập bởi Sắc lệnh số 27/SL do Bộ trưởng Bộ Nội
vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch nước ký, với nhiệm vụ "đảm bảo công việc của Sở
Tổng thanh tra độc quyền muối và thuốc phiện và các sở thương chính Bắc, Trung và Nam
Bộ" [5].
Cho đến nay, đã 60 năm trôi qua, Hải quan Việt Nam đã có những đóng góp xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới hoạt động hải
quan có tác động rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động xuất
nhập khẩu, đến mơi trường đầu tư nước ngồi, đến hoạt động du lịch; ảnh hưởng trực tiếp
đến việc bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, bảo hộ lợi ích người tiêu dùng, bảo vệ
mơi trường, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia. Thực hiện thắng lợi
đường lối đổi mới kinh tế, chủ động hội nhập của Đảng. Trong điều kiện mới, để thực hiện
thành công Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, ngành Hải quan cần phải làm là đảm bảo
thực hiện tốt pháp luật hải quan, trong đó có việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua, việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan bên cạnh những ưu điểm đã bộc lộ nhiều bất cập,
như có nhiều qui định pháp luật cịn chồng chéo, không thống nhất, chưa phù hợp với thực tế,
thiếu tính khả thi. Hoạt động giải thích pháp luật vi phạm hành chính đã triển khai song
hiệu quả chưa cao dẫn đến việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực


hải quan nhiều nơi cịn tùy tiện hoặc dung túng bao che, khơng xử lý hoặc xử lý khơng kịp
thời… Những điều đó làm nảy sinh tâm lý coi thường kỷ cương phép nước. Trong khi đó,
việc tuyên truyền pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cịn hạn chế,
chưa được tiến hành thường xuyên. Người dân còn thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết rất hạn
chế pháp luật ở lĩnh vực này. Hơn nữa các cơ quan có nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính


trong lĩnh vực hải quan cũng đồng thời thực hiện nhiệm vụ chống buôn lậu; công chức thực
hiện nhiệm vụ này chưa được đào tạo chuyên sâu, đa số kiêm nhiệm các nhiệm vụ khác.
Về mặt lý luận, đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan đặt ra nhiều vấn đề nhưng chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu nào.
Một số cơng trình được cơng bố chỉ nghiên cứu chung về pháp luật hải quan và xử phạt vi
phạm hành chính, những vấn đề như: chất lượng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan; ý thức pháp luật của các đối tượng tham gia hoạt động hải quan; bộ máy
tổ chức và nhân sự; cơ chế phối hợp giữa các lực lượng; phương tiện vật chất kỹ thuật và môi
trường xã hội cũng như dư luận xã hội chưa thực sự được tiến hành trên cơ sở khoa học.
Rõ ràng, cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn, Bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của
pháp luật Việt Nam để đề xuất và luận chứng các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp
luật đó nghiêm minh, chính xác, kịp thời là hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm trước thời kỳ đổi mới hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu về
pháp luật hải quan. Theo đường lối đổi mới và nhất là nhằm thực hiện chủ trương "quản lý
đất nước bằng pháp luật", việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật, về cơ chế thực
hiện pháp luật nói chung, pháp luật hải quan nói riêng đã có sự phát triển mạnh. Có thể kể
đến một số cơng trình sau:
- Luận án Tiến sĩ Luật học: "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan trong
điều kiện hiện nay ở nước ta" của Vũ Ngọc Anh, 1999.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về kiểm tra giám sát
hải quan ở Việt Nam hiện nay" của Hoàng Anh Công, 2001.

- Luận văn thạc sĩ luật học: "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động hải quan ở Việt Nam hiện nay" của Trần Văn Dũng, 2001.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía bắc ở
nước ta hiện nay - thực trạng và các phương hướng, giải pháp" của Lê Thanh Bình, 2002.


- Luận văn thạc sĩ luật học: "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay" của Bùi Văn Thịnh, 2003.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực
xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay" của Đặng Thanh Sơn, 2003.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải
quan và giải pháp xử lý "của Lê Nguyễn Nam Ninh, 2004.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về hải
quan đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay" của Bùi Văn
Hải, 2005.
- Đề tài nghiên cứu cấp ngành: "Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống các văn bản qui
phạm pháp luật trong lĩnh vực hải quan đối chiếu với các cam kết quốc tế liên quan" của
Viện Nghiên cứu Hải quan, 2003.
- Đề tài khoa học cấp ngành: "Nghiên cứu một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật xử lý vi phạm hành chính về hải quan theo yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế " của
Vụ Pháp chế - Tổng cục Hải quan, 2005.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết của các cán bộ chuyên gia trong và ngoài ngành
hải quan liên quan đến đề tài luận văn đã được đăng trên các tạp chí như bài viết của Tiến
sĩ Lê Vương Long và thạc sĩ Hồng Văn Sao đăng trên Tạp chí Luật học - đặc san về xử lý
vi phạm hành chính. Một số các bài viết trên trang web Hải quan Việt Nam về pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Bài viết trên trang tin điện tử Bộ Tài
chính về "một số vướng mắc cần sớm tháo gỡ trong xử lý vi phạm hành chính về hải quan";
một số bài viết về những vướng mắc khi xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
ở các Cục Hải quan địa phương trong từng lĩnh vực cụ thể…
Các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào các vấn đề về hoàn thiện

pháp luật xử lý vi phạm hành chính, pháp luật hải quan, quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động hải quan, một số lĩnh vực công tác cụ thể của ngành hải quan, chưa có
đề tài trực tiếp nghiên cứu việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan.


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận văn trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề
tài để đề xuất và luận chứng các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện và đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, như khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, khái niệm, đặc điểm của thực
hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, từ đó tìm hiểu khái niệm
và yêu cầu đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan,
các yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan.
- Đề xuất và luận chứng các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khn khổ có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
những vấn đề cơ bản của việc bảo đảm thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan, và về thời gian, chỉ nghiên cứu chủ yếu giai đoạn từ sau đổi mới (1986)

đến nay, đồng thời có tham khảo các quy định pháp luật trước đó khi phân tích các vấn đề
mang tính lịch sử.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về tuyên
truyền, giáo dục thực hiện pháp luật. Luận văn dựa trên cơ sở lý luận trực tiếp của bộ môn
lý luận chung về nhà nước và pháp luật của khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa
- Về phương pháp nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp của triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, như phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn,
phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu của một số bộ môn khoa học khác, như phương pháp luật học so sánh, phương
pháp xã hội học (điều tra, khảo sát).
6. Những đóng góp mới của luận văn
Điểm mới nhất của luận văn là ở chỗ không chỉ nghiên cứu thực hiện pháp luật xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan mà là nghiên cứu làm sáng tỏ các yêu cầu,
các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Từ đó, các giải pháp đề xuất mang tính tồn diện, khơng chỉ có ý nghĩa đối với thực hiện
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, mà cịn có ý nghĩa trong
nghiên cứu đảm bảo thực hiện pháp luật nói chung, góp phần hồn thiện cơ chế thực hiện
và bảo vệ pháp luật, giáo dục pháp luật theo chủ trương, đường lối của Đảng hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần xây dựng hệ thống các khái niệm, đặc điểm
của việc thực hiện, đảm bảo thực hiện và các yêu cầu, yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo
thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
- ý nghĩa về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần hồn thiện cơ chế thực hiện và bảo
vệ pháp luật, giáo dục pháp luật theo chủ trương, đường lối của Đảng. Luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan và thực hiện pháp luật hải quan ở Việt Nam hiện nay theo

các hướng của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam qui định
tại Nghị quyết 48-NQ/ TƯ của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX).


8. Kết cấu của luận văn
Ngoàiphần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.


Chương 1
Cơ sở lý luận về thực hiện và đảm bảo
thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam

1.1. Pháp luật và thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan
1.1.1. Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.1.1.1. Khái niệm pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Để hiểu được khái niệm pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan trước hết cần phải tìm hiểu một số khái niệm liên quan:
- Khái niệm vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến hàng ngày
trong đời sống xã hội, kinh tế, từ những hành vi nhỏ như vứt rác không đúng nơi, đúng chỗ,
đến những hành vi có tính chất, mức độ lớn hơn như điều khiển môtô, xe máy đi vào
đường một chiều, vượt đèn đỏ, hoặc những hành vi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
như tiến hành kinh doanh mà không đăng ký theo quy định của pháp luật, trốn thuế, thay
đổi trụ sở của doanh nghiệp mà không thông báo, hay những hành vi trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường như vận chuyển và xử lý chất thải, các chất gây ô nhiễm môi trường không
đúng theo quy định về bảo vệ môi trường; những hành vi trong lĩnh vực thương mại như
xuất nhập khẩu hàng hóa khơng đúng giấy phép hoặc không làm đúng thủ tục hải quan

trong lĩnh vực hải quan. Tóm lại, những hành vi vi phạm pháp luật trên thể hiện rất đa
dạng, phong phú, ở hầu hết các lĩnh vực của quản lý nhà nước, song đều có chung một số
đặc điểm sau:
Một là, vi phạm hành chính đều là những hành vi xâm hại đến trật tự quản lý nhà
nước, phá vỡ trật tự hành chính đang được duy trì và bảo vệ, làm ảnh hưởng đến hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, tính chất và


mức độ xâm hại của hành vi vi phạm hành chính mặc dù nguy hiểm cho xã hội song chưa
đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định tại Bộ luật hình sự.
Hai là, chủ thể của hành vi vi phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân. Đối với tổ
chức, thì hành vi này được thực hiện bởi cá nhân nhưng dưới danh nghĩa tổ chức (do tổ
chức giao, phân công hoặc thực hiện hành vi nhân danh tổ chức đó).
Các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân có năng
lực chịu trách nhiệm hành chính.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính
phải là người khơng mắc các bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định. Người từ độ tuổi 14 đến dưới 16 tuổi là chủ
thể của vi phạm hành chính với lỗi cố ý. Người đủ từ 16 tuổi trở lên là chủ thể của vi phạm
hành chính trong mọi trường hợp (vi phạm do lỗi cố ý hay vô ý). Tổ chức là chủ thể vi
phạm hành chính là các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn
vị trực thuộc các lực lượng vũ trang nhân dân theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá
nhân nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt
Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập có quy định khác.
Như vậy, chủ thể của vi phạm hành chính có cơ cấu rộng hơn rất nhiều so với cơ cấu chủ
thể của vi phạm hình sự.
Trách nhiệm pháp lý hành chính phát sinh như một tất yếu khách quan, có nghĩa là
khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính cá nhân, tổ chức phải chịu những hình thức xử
lý do pháp luật quy định. Trách nhiệm hành chính tồn tại dưới hình thức các chế tài hành
chính, thơng thường là phạt tiền, cảnh cáo và có thể đồng thời cịn áp dụng các biện pháp

hành chính khác. So với trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính phong phú hơn, song
ít nghiêm khắc hơn.
Ba là, vi phạm hành chính cũng như mọi hành vi vi phạm pháp luật khác đều xâm
hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác, khách thể của vi phạm
hành chính là quan hệ xã hội về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực bị hành vi vi phạm
xâm hại. Khách thể của vi phạm pháp luật chính là yếu tố quan trọng để xác định tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật loại này. Do các quan hệ


trong quản lý nhà nước rất đa dạng và phong phú nên khách thể của hành vi vi phạm pháp
luật hành chính cũng rất phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực của quản lý nhà nước. được
quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân,
tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý vi phạm
hành chính.
- Khái niệm xử lý vi phạm hành chính.
Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp
xử lý hành chính.
Xử phạt hành chính thực chất là một loại hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Đó là loại hoạt động đặc biệt và rất phức tạp bao gồm một loạt các hành vi cụ thể liên quan
mật thiết với nhau như phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của vi phạm hành chính, xác
định thẩm quyền xử phạt, đối chiếu với quy định của pháp luật, áp dụng hình thức và mức
phạt và ra quyết định xử phạt hành chính.
Quyết định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả pháp lý đặc
biệt, làm phát sinh trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, tức là
buộc họ phải chịu hậu quả bất lợi trước Nhà nước về tinh thần (bị hạn chế quyền) hoặc về
tài sản (bị phạt tiền, bị tịch thu tang vật, phương tiện...).
Xử phạt vi phạm hành chính có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế nhà nước,

mang tính quyền lực nhà nước.
Tính cưỡng chế và tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ hoạt động xử phạt hành
chính ln ln được các cơ quan hoặc cán bộ có thẩm quyền thực hiện. Chỉ có các cơ
quan hoặc cán bộ nhà nước nào được Nhà nước trao thẩm quyền xử phạt hành chính và
được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có quy định về xử phạt hành chính mới có quyền
quyết định xử phạt.


Xử phạt hành chính là phản ứng của Nhà nước trước các hành vi xâm hại quy tắc
quản lý nhà nước. Biểu hiện của phản ứng đó chính là việc áp dụng các biện pháp xử phạt
hành chính. Việc áp dụng các biện pháp xử phạt này có tác dụng trực tiếp điều chỉnh hành
vi xử sự của con người vi phạm, tức là buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi trước
Nhà nước và có tác dụng đình chỉ vi phạm hành chính qua đó mà bảo vệ và duy trì trật tự
quản lý nhà nước.
Hai là, cơ sở để xử phạt hành chính là vi phạm hành chính.
Chỉ có hành vi nào xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự do các cá nhân, tổ chức đủ năng lực chủ thể thực hiện với lỗi
cố ý hay vơ ý mới bị xử phạt hành chính.
Đặc điểm có tính ngun tắc trên đây đã được khẳng định tại khoản 2 Điều 3 Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính: "Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi
vi phạm hành chính do pháp luật quy định" [38].
Từ quy định trên, khi áp dụng các biện pháp xử phạt đòi hỏi các cơ quan hoặc cán
bộ nhà nước có thẩm quyền phải xác định rõ có vi phạm hành chính xảy ra hay khơng, tính
chất và mức độ của vi phạm như thế nào, hành vi vi phạm đó có quy định trong các văn
bản pháp luật quy định về xử phạt hành chính hay chưa.
Ba là, hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều giai
đoạn nhưng kết quả của hoạt động này phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt hành
chính.
Trong xử phạt hành chính, các chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử phạt ln được
thực hiện hai loại hành vi: 1- hành vi ban hành quyết định xử phạt. Quyết định xử phạt

hành chính phải được thể hiện bằng văn bản hay bằng một hình thức khác do pháp luật quy
định; 2- hành vi hành chính khác, như nhằm đình chỉ hành vi vi phạm, lập biên bản vi
phạm, giải thích hành vi vi phạm và thông báo điều khoản văn bản pháp luật được áp dụng
cho cá nhân hoặc tổ chức vi phạm...
Hai loại hành vi trên ln có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, hành vi ban hành quyết định xử phạt là cơ bản và chủ yếu nhất. Các hành vi
hành chính khác được thực hiện nhằm hướng tới việc ra quyết định xử phạt hoặc thực hiện


trên cơ sở quyết định xử phạt. Đặc biệt, khi ban hành quyết định xử phạt sẽ dẫn đến hậu
quả pháp lý là làm phát sinh trách nhiệm hành chính. Quyết định xử phạt hành chính là
hình thức thể hiện cơng khai ý chí và thái độ của Nhà nước phản ứng trước các hành vi vi
phạm hành chính và mức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm.
Bốn là, hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật và
phải tuân theo pháp luật về trình tự, thủ tục hành chính.
Tất cả các cơ quan, cán bộ có thẩm quyền xử phạt hành chính khi thực hiện các
hành vi xử phạt đều phải tn theo các trình tự, thủ tục hành chính do pháp luật quy định
chứ không tuân theo các quy định về tố tụng hình sự kể cả trường hợp Tịa án nhân dân
thực hiện quyền xử phạt hành chính.
Từ những đặc điểm trên có thể đi đến định nghĩa sau: Xử phạt vi phạm hành chính
là một loại hoạt động cưỡng chế hành chính cụ thể mang tính quyền lực nhà nước phát
sinh khi có ví phạm hành chính; biểu hiện ở việc áp dụng các chế tài hành chính mang tính
chất trừng phạt do các chủ thể, có thẩm quyền nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Xử lý vi phạm hành chính cịn là việc áp dụng các biện pháp hành chính khác khi có
hành vi vi phạm hành chính xảy ra. Các biện pháp xử lý hành chính khác được áp dụng đối
với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa
đến múc truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại các điều 23, 24, 25, 26, 27 của
pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể như: Giáo dục tại xã phường, thị trấn; đưa vào
trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính.

Từ khái niệm xử lý vi phạm hành chính có thể đi đến quan niệm về pháp luật xử lý
vi phạm hành chính, đó là: Tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh do có hành vi vi phạm hành chính, bao gồm các
quy phạm, xác định hình thức xử phạt vi phạm hành chính và một số biện pháp xử lý hành
chính khác.
- Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Điều 11 Luật Hải quan quy định:


Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa,
phương tiện vận tải; phịng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu [26].
Cơ quan hải quan là cơ quan trực tiếp thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đảm bảo
duy trì sự quản lý của Nhà nước đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu, phương tiện vận tải và
hành khách xuất, nhập cảnh; điều tra chống buôn lậu, chống gian lận thương mại… nhằm
bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu; thu
thuế xuất, nhập khẩu bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp
cho người tiêu dùng; bảo vệ mơi trường; góp phần bảo vệ lợi ích chủ quyền kinh tế và an
ninh quốc gia; trật tự, an toàn xã hội. Cơ quan hải quan thực hiện các quyền đó thơng qua
một hệ thống các quy trình thủ tục hành chính đó là thủ tục hải quan nhằm hợp thức hóa
cho hàng hóa, hành lý, phương tiện vận tải khi qua lại biên giới, đồng thời thực hiện các
quyền kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo các chế độ quản lý của nhà nước đối với các đối
tượng nói trên cũng như các quy trình thủ tục được đảm bảo tuân thủ.
Trên thực tế hoạt động Hải quan ln có những hành vi cố ý hay vô ý vi phạm các
quy định của Nhà Nước đối với các chế độ quản lý, các quy trình thủ tục hay việc kiểm tra,
giám sát của cơ quan hải quan. Các vi phạm đó chính là các vi phạm pháp luật hải quan, xâm
phạm đến trật tự quản lý nhà nước về hải quan và diễn ra phổ biến ở hầu hết các khâu nghiệp

vụ của quá trình kiểm tra, giám sát, kiểm sốt hải quan. Các hành vi vi phạm pháp luật này,
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm đều phải bị xử phạt hoặc có thể có hành vi bị xử lý vi
phạm hình sự như các hành vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, hành lý qua
biên giới theo quy định tại các điều 153, 154 Bộ luật hình sự, nhưng đa số bị xử phạt theo
quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Từ khái niệm vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật hành chính cùng với những
phân tích ở trên có thể hiểu khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan như sau:
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới các quy định quản lý nhà nước về hải quan mà chưa đến


mức truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định
của pháp luật.
Vi phạm các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan được quy định
cụ thể tại Điều 1 của Nghị định số 138/2004/NĐ-CP ngày 17/6/2004 (sau đây gọi tắt là
Nghị định 138/2004/NĐ-CP) của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản pháp luật khác có
quy định hành vi và chế tài xử phạt mà văn bản đó có xác lập thẩm quyền xử phạt cho cơ
quan hải quan, bao gồm:
+ Vi phạm các quy định về thủ tục hải quan;
+ Vi phạm các quy định về kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan;
+ Vi phạm các quy định về xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, hành lý
ngoại hối, vàng, tiền Việt Nam, kim khí q, đá q, cổ vật, văn hóa phẩm, bưu phẩm, vật
dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và các tài sản khác (gọi
chung là hàng hóa); vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện
vận tải.
- Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và áp dụng các biện pháp xử lý
khác.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là hoạt động do cơ quan hải

quan tiến hành (hoặc do cơ quan nhà nước được pháp luật qui định) đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan có
lỗi cố ý hoặc vơ ý mà khơng phải là tội phạm theo các qui định của pháp luật phải bị xử
phạt vi phạm hành chính.
Xuất phát từ khái niệm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở
trên cho thấy, ngoài các đặc điểm chung của xử phạt vi phạm hành chính thì xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có một số đặc điểm riêng sau:
Một là, căn cứ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là các văn bản
quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan ban hành gồm:


+ Quốc hội ban hành các luật trong đó có nhiều quy định về xử phạt vi phạm hành
chính hoặc các biện pháp xử phạt hành chính khác. Ví dụ, tại Điều 20 của Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, hay tại Điều 65, 68 Luật thương mại quy định cho việc tái xuất đối
với hàng hóa nhập khẩu xác định là nhầm lẫn không đúng với hợp đồng...
+ ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều văn bản, điển hình là Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính ban hành năm 2002 xác định các hành vi vi phạm hành chính, thời
hiệu xử phạt hành chính, nguyên tắc xử phạt hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả
vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính... và khung phạt vi phạm
hành chính về hải quan đến mức tối đa 70 triệu đồng.
+ Chính phủ ban hành các nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, trong đó có lĩnh vực quản lý nhà
nước

về

hải

quan,


các

nghị

định

quy

định

về

chế

độ

áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Cụ thể như Nghị định số 134/2003/NĐ-CP
ngày 14/11/2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2002, Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan...
+ Các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành các thông tư hướng dẫn thi hành các nghị
định của Chính phủ về xử phạt hành chính theo từng lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên
ngành. Nhiều thông tư của các bộ, cơ quan ngang bộ, thông tư liên tịch giữa các bộ, cơ
quan ngang bộ được ban hành để hướng dẫn thi hành các nghị định của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành nhưng
có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực quản lý hải quan, như thương mại, thuế, môi trường,
văn hóa, ngân hàng... Ví dụ, Thơng tư số 77/ TT của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
hướng dẫn thi hành xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xuất khẩu, nhập khẩu tiền,
ngoại hối trái phép qua biên giới.
Để quản lý nhà nước phù hợp với tình hình thực tế các văn bản quy phạm pháp

luật về xử lý vi phạm hành chính thường được sửa đổi, bổ sung. Hơn nữa, các nghị định
quy định về xử phạt vi phạm hành chính do nhiều bộ, cơ quan ngang bộ, ban ngành ban
hành. Điều này dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định về xử lý vi


phạm hành chính trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Vấn đề nổi cộm đang
được đặt ra hiện nay là phải làm sao để các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
về vi phạm hành chính thống nhất, đồng bộ nhằm phục vụ có hiệu quả cơng tác xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Hai là, vi phạm pháp luật hành chính diễn ra phổ biến hàng ngày, hàng giờ trong đời
sống xã hội dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Và việc áp dụng pháp luật về xử
phạt vi phạm pháp luật hành chính do nhiều cơ quan, nhiều người có thẩm quyền thực hiện
(ví dụ, bộ đội biên phòng, quản lý thị trường, một số thanh tra chuyên ngành...). Hơn nữa
việc áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện trực tiếp với người dân,
với các tổ chức và cũng trực tiếp động chạm đến các quyền tự do dân chủ của công dân, vì
vậy cơng tác giám sát, kiểm tra rất khó thực hiện sâu sát và có hiệu quả. Điều này địi hỏi
người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong khi thực thi cơng vụ phải có tinh thần
trách nhiệm, tính tự giác và ý thức kỷ luật cao. áp dụng các biện pháp hành chính phải phù
hợp với quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan và các văn bản pháp luật hiện hành về tổ chức hoạt động,
chức năng nhiệm vụ của hải quan. Người có thẩm quyền phải thực hiện đúng mục đích và
yêu cầu của văn bản pháp luật cụ thể quy định xử phạt vi phạm hành chính.
Ba là, trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước trong
từng lĩnh vực, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật và xử lý vi phạm hành chính để đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng và chống vi phạm
hành chính về hải quan. Ngồi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 được ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành theo thẩm quyền, Chính phủ có quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật quy định hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu
quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực về hải quan và lĩnh vực khác
có liên quan đến lĩnh vực hải quan. Pháp lệnh này cũng không cho phép Hội đồng nhân

dân và ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh trở xuống được ban hành văn bản quy định về hành vi,
chế tài xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Điều này đã
cho thấy, việc ban hành quy định xử lý vi phạm hành chính chỉ thuộc về thẩm quyền của
cơ quan Nhà nước ở trung ương, các cơ quan nhà nước ở địa phương có trách nhiệm thực


hiện những quy định, xử lý vi phạm hành chính về hải quan do các cơ quan quản lý nhà
nước ở Trung ương quy định.
Bốn là, khi thực hiện xử phạt vi phạm pháp luật hành chính, người có thẩm quyền
xử phạt chỉ được thực hiện quyền xử phạt của mình trong phạm vi mà pháp luật đã quy
định.Trong trường hợp quyết định xử phạt hoặc quyết định áp dụng biện pháp hành chính
khác vượt thẩm quyền được pháp luật quy định cho phép là vi phạm pháp luật và phải bị
xử lý. Ví dụ như khoản 1 Điều 34 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: Đội
trưởng đội nghiệp vụ thuộc Chi cục Hải quan có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) phạt tiền đến
500.000 đồng.
Năm là, kết quả của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thể
hiện ở các quyết định xử phạt hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp khắc phục hậu
quả do vi phạm hành chính gây ra. Việc quyết định áp dụng các hình thức xử phạt, các
biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của
Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, qua đó
giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan.
Biện pháp xử lý hành chính khác trong lĩnh vực hải quan như các biện pháp khắc
phục hậu quả do vi phạm hành chính về hải quan gây ra. Về bản chất, biện pháp này khơng
có tính chất trừng phạt người vi phạm hành chính mà chỉ nhằm mục đích khắc phục hậu
quả do vi phạm hành chính để lại trên thực tế. Biện pháp này gồm: buộc tiêu huỷ tang vật
vi phạm là văn hoá phẩm thựcđộc hại, hàng hóa gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi
và cây trồng; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, phương
tiện vi phạm; buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm đã bị tiêu thụ,
tẩu tán, tiêu hủy trái với quy định pháp luật.
- Khái niệm pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.

Qua các phân tích ở trên có thể định nghĩa pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan như sau: pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan là một bộ phận của pháp luật xử lý vi phạm hành chính, và là tổng thể các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh do có


hành vi vi phạm hành chính về hải quan, bao gồm các quy phạm quy định hình thức xử
phạt vi phạm và một số biện pháp xử lý hành chính khác trong lĩnh vực hải quan.
1.1.1.2. Nội dung pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
- Các quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính về thủ tục hải quan.
Thủ tục hải quan là các công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan
phải thực hiện theo qui định của Luật Hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải
(khoản 6 Điều 4 Luật Hải quan).
Vi phạm hành chính về thủ tục hải quan là những hành vi vi phạm về các nguyên
tắc tiến hành thủ tục, địa điểm làm thủ tục và thời hạn làm thủ tục hải quan. đó là:
+ Là hành vi làm thủ tục hải quan không đúng thời hạn qui định theo qui định của
Luật Hải quan; nộp không đúng thời hạn chứng từ thuộc hồ sơ hải quan thuộc diện được
chậm nộp theo qui định của pháp luật.
+ Là hành vi tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hóa, phương tiện vận tải
không đúng thời hạn ghi trong giấy phép, tờ khai hải quan hoặc giấy tờ khác theo quy định
của pháp luật.
+ Là hành vi không nộp chứng từ phải nộp thuộc hồ sơ hải quan được chậm nộp
theo qui định của pháp luật; hành vi kê khai không đúng thời hạn theo quy định của pháp
luật khi thay đổi mục đích sử dụng hàng hóa.
Nếu người khai hải quan (pháp nhân, công dân tham gia hoạt động hải quan)
không thực hiện các quy định trên thì khi đó cơ quan, cán bộ, công chức hải quan (được
Nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý) sẽ thực hiện pháp luật bằng hình thức áp dụng pháp
luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính tùy theo mức độ hành vi có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến
2.000.000 đồng theo quy định tại Điều 8 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
- Các quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính về kiểm tra, giám sát, kiểm
soát hải quan.


Kiểm tra hải quan là việc kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng tư liên quan và kiểm
tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải do cơ quan hải quan thực hiện (khoản 8 Điều 4
Luật Hải quan).
Vi phạm hành chính về kiểm tra hải quan là các hành vi sau:
+ Khơng đưa hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đến đúng địa điểm qui định để làm
thủ tục hải quan; không cung cấp thông tin chứng từ tài liệu liên quan đến hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh khi cơ quan hải quan yêu cầu
theo qui định của pháp luật; không chấp hành quyết định kiểm tra sau thông quan không có
lý do xác đáng; khơng lưu trữ đầy đủ hồ sơ hải quan, sổ sách chứng từ kế toán liên quan
đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thơng quan trong thời hạn phải lưu trữ theo
qui định của pháp luật; khơng xuất trình hàng hóa đang lưu giữ là đối tượng kiểm tra sau
thông quan theo yêu cầu của cơ quan hải quan; khơng bố trí người, phương tiện phục vụ
việc kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải khí cơ quan hải quan yêu cầu mà khơng
có lý do xác đáng; chuyển nhượng sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi
thuế quan khơng đúng quy định; tự ý sử dụng hàng hóa được giao quản lý chờ làm thủ tục
hải quan.
+ Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trái với qui định của nhà nước về viện trợ nhân
đạo; hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa khơng khai hoặc khơng đúng với khai hải
quan về số lượng, trọng lượng, chất lượng, mã số hàng hóa, trị giá, xuất xứ, khơng đúng
nội dung giấy phép.
+ Thay đổi hình thức, cấu tạo, tính chất hàng hóa để hợp thức việc xuất khẩu, nhập
khẩu; đánh tráo hàng hóa đã kiểm tra hải quan với hàng hóa chưa kiểm tra hải quan.
+ Vi phạm quy định chuyển nhượng sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng được
hưởng ưu đãi thuế quan không đúng quy định; hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa
khơng khai hoặc khơng đúng với khai hải quan về số lượng, trọng lượng, chất lượng, mã

số hàng hóa, trị giá, xuất xứ và các hành vi thay đổi hình thức, cấu tạo, tính chất hàng hóa
để hợp thức việc xuất khẩu, nhập khẩu mà có hành vi trốn thuế thì bị xử phạt theo quy định
của pháp luật về thuế.


+ Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trái với quy định về ưu đãi, miễn trừ hải quan;
hàng hóa thuộc diện cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; đưa hàng hóa giả mạo xuất xứ vào
lãnh thổ Việt Nam; xuất khẩu hàng hóa giả mạo xuất xứ; đưa hàng hóa, phương tiện vào
lãnh thổ Việt Nam khi chưa được phép của cơ quan nhà nước theo thẩm quyền quy định;
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa khơng có giấy phép theo quy định.
+ Giả mạo niêm phong hải quan, giấy tờ thuộc hồ sơ hải quan để xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa mà khơng phải là tội phạm; khơng xuất trình được giấy phép khi hàng hóa
về tới cửa khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu theo quy định phải có giấy phép trước khi ký
hợp đồng; xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa gây ơ nhiễm mơi trường, lây lan dịch bệnh, có
hại cho sức khỏe con người.
Các chủ thể tham gia hoạt động hải quan không thực hiện các quy định trên về kiểm
tra hải quan thì cơ quan, cán bộ, công chức hải quan (được Nhà nước trao cho thẩm quyền
xử lý) sẽ thực hiện pháp luật bằng hình thức áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tùy theo mức độ hành vi
có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả cho phù
hợp theo quy định tại Điều 15 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan: xử phạt từ 1.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng.
Ngoài việc phạt tiền cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn bị phạt bổ xung hặc bị áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả sau: tịch thu hàng hóa; tước quyền sử dụng giấy
phép; buộc đưa tang vật vi phạm ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tiêu hủy tang vật,
phương tiện vi phạm.
Giám sát hải quan là biện pháp nghiệp vụ do cơ quan hải quan áp dụng để đảm bảo
sự nguyên trạng của hàng hóa, phương tiện vận tải đang thuộc đối tượng quản lý hải quan
(khoản 9 Điều 4 Luật Hải quan). Giám sát hải quan được thực hiện trực tiếp bởi cán bộ,
công chức hải quan hoặc gián tiếp như: niêm phong, kẹp chì hải quan, dán tem, dùng máy

soi, máy ngửi, camera để quan sát, xem xét, theo dõi hoặc dùng súc vật được huấn luyện
để dị tìm…
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính về giám sát hải quan quy định các hành vi sau
là các hành vi vi phạm hành chính về giám sát hải quan:


+ Hành vi không bảo quản nguyên vẹn niêm phong hải quan, kho hàng hóa, hàng
hóa, phương tiện vận tải đang chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan không có lý do xác đáng.
+ Hành vi di chuyển phương tiện vận tải, hàng hóa đang chịu sự giám sát hải quan
không đúng qui định.
+ Hành vi tự ý thay đổi bao bì, hình thức kiểu dáng cơng nghiệp, xuất xứ, nhãn
mác, chủng loại, chất lượng, số lượng, trọng lượng, tiêu thụ hàng hóa đang chịu sự giám
sát hải quan.
Các chủ thể tham gia hoạt động hải quan có các hành vi vi phạm như quy định trên
về giám sát hải quan thì cơ quan, cán bộ, cơng chức hải quan(được Nhà nước trao cho
thẩm quyền xử lý) sẽ thực hiện pháp luật bằng hình thức áp dụng pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tùy theo mức
độ hành vi có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 20.000.000 đồng và áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả cho phù hợp theo quy định tại Điều 9 Nghị định
138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Kiểm soát hải quan là các biện pháp tuần tra, điều tra hoặc biện pháp nghiệp vụ
khác do cơ quan hải quan áp dụng để phịng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hóa qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan (khoản 10 Điều 4 Luật
Hải quan).
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính về kiểm sát hải quan quy định cụ thể những
hành vi sau đây là hành vi vi phạm về kiểm soát hải quan:
+ Lên, xuống phương tiện vận tải chở hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đang chịu sự
kiểm tra hải quan khi chưa được phép của cơ quan hải quan; không dừng phương tiện vận
tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh đúng địa điểm quy định để làm thủ tục hải quan; điều
khiển phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh không đúng tuyến đường cửa

khẩu quy định.
+ Hành vi không thực hiện đúng quy định về quản lý hải quan khi đưa tàu biển vận
chuyển hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu vào Việt Nam không đúng cảng quy định; tự ý cặp
mạn tàu thuyền chở hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đang làm thủ tục hải quan.


+ Không chấp hành hiệu lệnh của công chức hải quan theo quy định khi di chuyển
phương tiện vận tải trong địa bàn hoạt động của hải quan; không thực hiện yêu cầu mở nơi
cất giữ hàng hóa theo quy định để công chức hải quan kiểm tra; bốc dỡ hàng hóa khơng
đúng cảng đích ghi trong vận đơn mà khơng có lý do xác đáng.
+ Đưa vào địa bàn hoạt động hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà hàng
hóa đó chưa đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định; chứa chấp, mua bán, vận chuyển trong địa
bàn hoạt động hải quan hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu trái phép mà tang vật vi phạm
có trị giá trên, dưới 20.000.000 đồng.
+ Tự ý xếp, dỡ, chuyển tải, sang mạn, sang toa, cắt toa hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh trên phương tiện vận tải đang chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan.
+ Tẩu tán, tiêu hủy hoặc vứt bỏ hàng hóa để trốn tránh sự kiểm tra, giám sát, kiểm
soát hải quan; hành vi đánh tráo, tẩu tán tang vật, phương tiện vi phạm đã bị phát hiện, tạm
giữ.
+ Cư dân biên giới (là người có hộ khẩu thường trú hoặc được phép tạm trú dài
hạn tại các xã biên giới) có hành vi mang qua biên giới hàng hóa vượt mức quy định của
pháp luật mà khơng khai hải quan; hàng hóa thuộc diện Nhà nước khơng cho phép trao đổi;
mang hàng hóa qua biên giới không đúng cửa khẩu quy định; chứa chấp, mua bán vận
chuyển trong địa bàn hoạt động hải quan hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu trái phép.
Các chủ thể tham gia hoạt động hải quan có các hành vi vi phạm như quy định trên
về kiểm soát hải quan thì cơ quan, cán bộ, cơng chức hải quan (được Nhà nước trao cho
thẩm quyền xử lý) sẽ thực hiện pháp luật bằng hình thức áp dụng pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tùy theo mức
độ hành vi có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 20.000.000 đồng và
cịn có thể bị tịch thu tang vật vi phạm hoặc có thể bị buộc nộp lại số tiền bằng trị giá, tang

vật vi phạm theo quy định tại Điều 14 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
- Các quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính về xuất khẩu, nhập khẩu, quá
cảnh hàng hóa; vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận
tải.


Hàng hóa bao gồm hàng hóa xuất, nhập khẩu, quá cảnh; hành lý, ngoại hối, tiền
Việt Nam của người xuất cảnh, nhập cảnh; kim khí quý, đá quý, cổ vật, văn hóa phẩm, bưu
phẩm, các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt
động của hải quan; vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và
các tài sản khác.
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính về xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa
quy định cụ thể những hành vi sau đây là hành vi vi phạm:
+ Hành vi vi phạm các quy định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo loại hình
q biếu như hành vi xuất khẩu, nhập khẩu quà biếu không đúng với khai hải quan, quà
biếu thuộc danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc xuất nhập khẩu có điều kiện
nhưng khơng có đủ điều kiện để xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Hành vi vi phạm quy định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của người xuất
nhập cảnh như vi phạm quy định về khai hải quan khi xuất khẩu, nhập khẩu hành lý; vi
phạm quy định về hải quan khi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ngồi định mức quy định
về hành lý.
+ Hành vi vi phạm các quy định về khai hải quan khi xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hóa là tài sản di chuyển.
+ Hành vi vi phạm các quy định về khai hải quan đối với ngoại hối, vàng của
người xuất cảnh, nhập cảnh tùy theo trị giá tang vật vi phạm. Theo quy định hiện hành mỗi
người khi xuất cảnh, nhập cảnh được phép mang theo 3.000 USD và tương đương, 100
gram vàng mà không phải khai báo hải quan.
+ Hành vi vi phạm các quy định về về khai hải quan đối với tiền Việt Nam của
người xuất cảnh, nhập cảnh tùy theo trị giá tang vật vi phạm. Theo quy định hiện hành mỗi

hành khách khi xuất cảnh, nhập cảnh được phép mang theo 10.000.000 Việt Nam đồng
không phải khai báo hải quan.
+ Hành vi vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện
vận tải như sau: Phương tiện vận tải nhập cảnh phải được làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu
nhập đầu tiên, phương tiện vận tải xuất cảnh phải được làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu
xuất cuối cùng. Và các phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh phải đi qua đúng


tuyến đường quy định, người điều khiển phương tiện hoặc chủ phương tiện vận tải phải
khai báo, làm thủ tục hải quan, cung cấp các thông tin, chứng từ về hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, vật dụng trên phương tiện vận tải theo thời hạn quy định.
Các chủ thể tham gia hoạt động hải quan có các hành vi vi phạm như quy định trên
thì cơ quan, cán bộ, cơng chức hải quan (được Nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý) sẽ
thực hiện pháp luật bằng hình thức áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tùy theo mức độ hành vi có thể
phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 20.000.000 đồng bị theo quy định tại
Điều 10, 11, 12, 13 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan.
1.1.1.3. Vai trị của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Với tư cách là một yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội. Điều này được thể hiện cụ thể đối
với pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đó là:
+ Đảm bảo giữ vững kỷ cương pháp chế trong quản lý nhà nước về lĩnh vực hải
quan. Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là tổng thể các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực quản lý hành chính về hải quan bao gồm các hình thức xử phạt vi phạm và một số biện
pháp xử lý hành chính khác trong lĩnh vực hải quan. Như vậy, Nhà nước sử dụng pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan như một phương tiện để thực hiện quyền
lực của mình trong quản lý, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các đối tượng tham gia
hoạt động hải quan. Nhờ có sự quy định chặt chẽ của pháp luật xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực hải quan mà các đối tượng tham gia hoạt động hải quan thực hiện một cách
nghiêm túc đảm bảo thực hiện đường lối, chủ trương của đảng, pháp luật của nhà nước;
đảm bảo thực hiện tốt cải cách hành chính nhà nước, giảm phiền hà, tiêu cực trong hoạt
động hải quan đảm bảo an ninh quốc gia, an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Thúc đẩy phát triển kinh tế theo đúng chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của
Đảng, hội nhập kinh tế đồng nghĩa với việc mở cửa nền kinh tế, gắn kết nền kinh tế Việt


Nam với nền kinh tế thế giới thành một thể thống nhất. Hội nhập kinh tế đòi hỏi phải mở cửa
thị trường cho hàng hóa, dịch vụ của nước ngồi vào Việt Nam, đồng thời đưa hàng hóa dịch
vụ của Việt Nam đến với thị trường các nước. Pháp luật quản lý nhà nước về hải quan phải
gắn liền với pháp luật xuất nhập khẩu hàng hóa, thuế hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh
hàng hóa, phương tiện và đi đơi với nó là các quy định bắt buộc phải thực hiện, các quy
định cấm, các thủ tục phải tuân theo. Điều này đồng nghĩa với việc nếu vi phạm các quy
định này đều bị xử phạt hành chính. Hội nhập kinh tế đòi hỏi phải giảm thiểu hàng rào phi
thuế quan, tăng cường tạo thuận lợi cho thương mại, du lịch và đầu tư quốc tế, đòi hỏi
pháp luật phải thơng thống, cơng khai, minh bạch, chính xác… Như thế pháp luật đó dễ
áp dụng dễ thực hiện và giảm các vi phạm hành chính xảy ra góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế.
+ Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cịn góp phần giáo
dục ý thức pháp luật cho cán bộ công chức cũng như các đối tượng tham gia hoạt động hải
quan bởi với các quy định chặt chẽ các chủ thể buộc phải tự giác chấp hành nếu không sẽ
bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đồng thời, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan cũng là các biện pháp ngăn chặn hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật
hải quan; góp phần hồn thiện pháp luật, bộ máy cán bộ cơng chức hải quan.
1.1.2 Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan
Để hiểu được thế nào là thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực hải quan trước hết cần phải tìm hiểu một số khái niệm liên quan.
- Khái niệm thực hiện pháp luật.
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể phát
huy được vai trị và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã
hội phát triển khi nó được tơn trọng và thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp
luật là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật xuất hiện.


×