Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Những điểm mới về giao kết hợp đồng trong Bộ Luật dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 103 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








PHẠM CÔNG DÂN






NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
TRONG BỘ LUÂT DÂN SỰ NĂM 2005




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC














Hà Nội, 2011



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






PHẠM CÔNG DÂN








NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
TRONG BỘ LUÂT DÂN SỰ NĂM 2005




Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Phan Chí Hiếu


Hà nội, 2011


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Phương pháp nghiên cứu: 3

4. Phạm vi nghiên cứu 3
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn 4
6. Nội dung nghiên cứu: 4
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG 5
1.1. Nhận thức chung về hợp đồng và giao kết hợp đồng 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng 5
1.1.2. Phân loại hợp đồng 9
1.1.3. Bản chất pháp lý của giao kết hợp đồng 11
1.2. Các nội dung của giao kết hợp đồng 13
1.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng 13
1.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 21
1.2.3. Thời điểm và địa điểm xác lập quan hệ hợp đồng 25
1.3. Pháp luật về giao kết hợp đồng 28
1.3.1. Vai trò của pháp luật đối với việc giao kết hợp đồng 28
1.3.2. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình giao 29
1.3.3. Các nội dung cơ bản của pháp luật về giao kết hợp đồng 35
Chương 2. NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH TRONG
THỰC TIỄN THI HÀNH 37
2.1. Điểm mới trong nhất thể hóa các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng . 37
2.2. Điểm mới trong quy định các nguyên tắc giao kết hợp đồng 39

2.2.1. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội 39
2.2.2. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng . 43
2.3. Điểm mới trong quy định về hình thức của hợp đồng: 47
2.4. Điểm mới trong quy định về đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng 51
2.4.1. Đề nghị giao kết hợp đồng 51
2.4.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 55

2.4. 3.Thời điểm, địa điểm hình thành hợp đồng 58
2.4.4. Giao kết hợp đồng dưới sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin điện tử 60
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG 71
3.1. Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về giao kết
hợp đồng 71
3.2. Yêu cầu và định hướng của việc hoàn thiện các quy định pháp luật về
giao kết hợp đồng 75
3.3. Một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về
giao kết hợp đồng 80
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong xã hội hiện đại, hợp đồng đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Hợp đồng là công cụ pháp lý để các tổ chức, cá nhân xác lập quan hệ với
nhau nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc kinh doanh thu lợi nhuận. Vì vậy,
quan hệ hợp đồng phát sinh hàng ngày hàng giờ, mọi lúc, mọi nơi với nội
dung vô cùng phong phú và đa dạng. Trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, hợp
đồng càng có vai trò quan trọng bởi lẽ hầu hết các quan hệ dân sự, kinh tế
đều phát sinh từ hợp đồng ký kết giữa các bên. Hợp đồng là sự thoả thuận,
thống nhất ý chí của các bên trên cơ sở tự nguyện. Khi giao kết hợp đồng,
các bên được tự do thể hiện ý chí của mình, phù hợp với nhu cầu, năng lực
của mình. Tuy vậy, để sự thoả thuận của các bên không tác động xấu đến lợi
ích của người thứ ba, lợi ích của Nhà nước và trật tự công cộng, cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của chính các bên tham gia quan hệ hợp đồng, đòi

hỏi sự thỏa thuận tự nguyện đó phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật. Do
đó, các nước, nhất là những nước theo truyền thống luật thành văn đều xây
dựng và ban hành nhiều quy định pháp luật, điều chỉnh những quan hệ xã
hội phát sinh từ hợp đồng.
Nhận thức được vai trò quan trọng của pháp luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng, ngay từ những năm đầu của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhất là trong quá trình cải cách nền kinh tế, Nhà nước ta đã
chú trọng xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật về hợp đồng như:
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 (PLHĐKT), Pháp lệnh Hợp đồng dân
sự năm 1991; Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và gần đây là BLDS năm
2005. Ngoài những văn bản pháp luật quy định chung về hợp đồng, Nhà
nước ta còn ban hành nhiều quy định liên quan đến hợp đồng trong các văn
bản pháp luật chuyên ngành như: Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng

2
không dân dụng Việt Nam, Luật Giao thông thủy nội địa, Luật Đường sắt
Việt Nam, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Xây dựng, Luật
Đấu thầu, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở Trong thời gian qua,
các quy định pháp luật về hợp đồng đã có những đóng góp quan trọng trong
việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc ký kết, thực hiện hợp đồng
phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh của các
tổ chức, cá nhân.
Đặc biệt, năm 2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua BLDS mới, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế cho
BLDS năm 1995 và PLHĐKT. BLDS năm 2005 thống nhất điều chỉnh mọi
quan hệ hợp đồng, cho dù chúng phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại hay tiêu dùng. Chứa đựng nhiều nội dung mới về hợp đồng, BLDS năm
2005 cũng dành nhiều quy định cho vấn đề giao kết hợp đồng, tháo gỡ nhiều
vướng mắc trong thực tiễn giao kết hợp đồng của các chủ thể pháp luật. Mặc
dù BLDS 2005 đã có hiệu lực hơn 4 năm, nhưng trên thực tế, nhiều tổ chức,

cá nhân chưa nắm bắt được các quy định mới của BLDS nên việc giao kết
hợp đồng nhiều khi vẫn bị ảnh hưởng bởi cách tư duy và cách làm cũ trong
việc phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế, việc áp dụng các quy
định của BLDS mới còn nhiều lúng túng và bỡ ngỡ. Bên cạnh đó, mặc dù
được đánh giá là có nhiều quy định mới, tiến bộ về hợp đồng, nhưng BLDS
năm 2005 vẫn không tránh khỏi những khiếm khuyết, bất cập cần được tiếp
tục hoàn thiện, trong đó có những quy định về giao kết hợp đồng.
Chính vì những lí do trên, em lựa chọn đề tài “Những điểm mới về giao
kết hợp đồng trong BLDS năm 2005” làm luận văn tốt nghiệp cao học luật
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các tư tưởng và nội dung
mới của BLDS năm 2005 về giao kết hợp đồng; đánh giá sự tác động của các

3
điểm mới đó tới thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng; chỉ ra các khó khăn,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng của các quy định pháp luật về hợp đồng nói chung và
BLDS năm 2005 nói riêng.
Để đạt được những mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể như sau:
- Làm rõ vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng
trong điều kiện thực hiện BLDS 2005;
- Chỉ rõ cấu trúc pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng;
- Phân tích và chỉ ra những tư tưởng và nội dung mới trong các quy định
của pháp luật về giao kết hợp đồng trong BLDS 2005;
- Đánh giá được những tác động của các quy định mới đó tới thực tiễn ký
kết và thực hiện hợp đồng, đồng thời chỉ ra các khó khăn, vướng mắc khi áp
dụng các quy định mới đó;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp

luật về hợp đồng, cũng như các biện pháp nhằm áp dụng hiệu quả các quy
định pháp luật trong thực tiễn ký kết, thực hiện hợp đồng.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để triển khai nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích, tổng hợp, so sánh luật,
khảo sát thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực
hiện trên nền tảng của phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và các
quan điểm, đường lối chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
BLDS năm 2005 chứa đựng nhiều quy định mới về hợp đồng nói chung.
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp cao học luật, tác giả không nghiên cứu
tất cả những điểm mới của BLDS 2005 mà giới hạn phạm vi nghiên cứu là

4
các quy định của BLDS năm 2005 và một số văn bản pháp luật chuyên ngành
tiêu biểu liên quan đến việc giao kết hợp đồng để tìm ra những điểm mới, chỉ
ra những hạn chế, những điểm còn chưa đồng nhất giữa các văn bản pháp luật
hiện hành và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật
về hợp đồng trong điều kiện hiện nay.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn dự kiến đạt những kết quả nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ vai trò của pháp luật trong việc giao kết hợp đồng; cấu trúc của
pháp luật về hợp đồng trong điều kiện thực hiện BLDS 2005, Luật Thương
mại 2005, Bộ luật Hàng hải Việt Nam và một số văn bản pháp luật khác;
- Chỉ ra những điểm mới trong BLDS năm 2005 liên quan đến giao kết
hợp đồng, đồng thời đánh giá sự tác động của các điểm mới đó đối với thực
tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng;
- Đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng.

6. Nội dung nghiên cứu:
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng.
- Chương 2: Những điểm mới về giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
năm 2005 và những vấn đề phát sinh trong thực tiễn thi hành.
- Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về
giao kết hợp đồng.





5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

1.1. Nhận thức chung về hợp đồng và giao kết hợp đồng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng
Khái niệm hợp đồng ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, là hình
thức của quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá giữa các chủ thể trong xã hội.
Trong đời sống kinh tế - xã hội, các chủ thể thường xuyên có nhu cầu tham
gia các quan hệ sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hoá, cung ứng dịch vụ…
nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc kinh doanh tìm kiếm lợi
nhuận. Hình thức pháp lý của các quan hệ đó chính là hợp đồng. Do vậy, hợp
đồng có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, là công cụ
pháp lý quan trọng và hữu hiệu để các chủ thể tiến hành các hoạt động của
mình. Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận, thống nhất ý chí của các bên
trên cơ sở tự nguyện. Ngay từ thời kỳ La Mã cổ đại, hợp đồng đã được coi là
một nội dung quan trọng của pháp luật về nghĩa vụ. Hợp đồng được coi là

hình thức thể hiện của các giao dịch song phương mà việc xác lập chúng có
thể trực tiếp làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ [26,tr 8].
Bản chất của hợp đồng được xác định trong Luật La Mã cổ đại vẫn không
thay đổi cho đến ngày nay.
Tuy vậy, trong pháp luật của các quốc gia có những cách diễn đạt khác
nhau về hợp đồng. Theo quy định của Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa
Kỳ, hợp đồng được coi là tập hợp các nghĩa vụ pháp lý là kết quả của sự thoả
thuận của các bên theo quy định của Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ
và các nguyên tắc pháp luật khác. Điều 110 BLDS Pháp quy định: “Hợp đồng
là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một
hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một
công việc nào đó” [16,tr 667]. Điều 2 Luật Hợp đồng năm 1999 của Trung

6
Quốc quy định: “Hợp đồng là sự thoả thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng, tự nhiên nhân, pháp
nhân, các tổ chức khác” [48]. Điều 420 BLDS của Liên bang Nga quy định
hợp đồng là thỏa thuận, ký kết bởi hai hoặc nhiều người làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự [45].
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm hợp đồng nhưng
nhìn chung trong pháp luật của tất cả các nước trên thế giới, hợp đồng đều
được coi là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên và từ sự thỏa thuận đó sẽ làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ ràng buộc các bên với nhau.
Ở Việt Nam, khái niệm về hợp đồng cũng được diễn đạt khác nhau trong
các văn bản pháp luật khác nhau, phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế,
xã hội. Trong giai đoạn trước ngày 01/01/2006, pháp luật về hợp đồng phân
biệt rất rõ rang ba loại hợp đồng: hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp
đồng lao động. Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định: “Hợp
đồng kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký
kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên

cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục
đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để
xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình”. Điều 394 BLDS năm 1995 đưa ra
khái niệm hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Khái niệm này được giữ nguyên trong BLDS năm 2005 (Điều 388 BLDS năm
2005). Bộ luật Lao động năm 1994 cũng đưa ra khái niệm riêng về hợp đồng
lao động, theo đó hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động (Điều 26).

7
Như vậy, dù được diễn đạt theo những cách khác nhau, với các mức độ
chi tiết khác nhau nhưng tựu trung lại, hợp đồng theo quan niệm của pháp luật
Việt Nam thể hiện các đặc trưng pháp lý cơ bản sau đây:
Một là, hợp đồng là sự thoả thuận tự nguyện giữa các bên có vị trí pháp
lý độc lập, bình đẳng với nhau. Tham gia quan hệ hợp đồng phải có ít nhất hai
bên và các bên phải có tư cách chủ thể pháp lý độc lập, đó có thể là các cá
nhân, tổ chức, hộ gia đình, tổ hợp tác. Thực tế kinh doanh hay có hiện tượng
các công ty ký hợp đồng với các đơn vị phụ thuộc của mình (được tổ chức
dưới các hình thức: chi nhánh, văn phòng đại diện, phân xưởng, xí nghiệp,
nhà máy, cửa hàng, trạm, trại, đội sản xuất…). Các đơn vị trực thuộc này
không có tư cách chủ thể pháp lý độc lập, bởi vậy không có năng lực pháp
luật để ký hợp đồng với chính công ty của mình. Điều đó có nghĩa là không
có quan hệ hợp đồng nào tồn tại giữa công ty và các đơn vị trực thuộc của
mình.
Khi tham gia hợp đồng, các chủ thể phải thỏa thuận tự nguyện với nhau.
Ý chí của các bên thể hiện qua các nội dung cụ thể của hợp đồng phải là ý chí
thật sự của mỗi bên và ý chí đó phải thống nhất với nhau; nếu không có sự
thống nhất ý chí thì không thể hình thành quan hệ hợp đồng. Pháp luật của

các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đều thể hiện quan điểm coi sự tự
do ý chí trong thoả thuận hợp đồng là một căn cứ cơ bản để xác lập và bảo
đảm hiệu lực của hợp đồng, đồng thời xác định sự thoả thuận đó phải trong
khuôn khổ quy định của pháp luật, cụ thể thoả thuận trong hợp đồng không
được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội… Các hợp
đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, đe doạ đều bị coi là vô hiệu.
Pháp luật của Đức quy định tự do hợp đồng bao gồm cả quyền tự do ký kết
hợp đồng và tự do thể hiện nội dung của hợp đồng. Cá nhân được quyền tự do
ký kết hoặc không ký kết hợp đồng, cũng như tự do quyết định nội dung của
hợp đồng mà mình ký kết. Tuy nhiên, để hạn chế sự lạm dụng quyền tự do

8
hợp đồng, BLDS Đức cũng như nhiều luật khác của Đức đều quy định những
hạn chế nhất định với nguyên tắc này [30,tr 21].
Hai là, sự thoả thuận của các bên trong một quan hệ hợp đồng phải
hướng tới những đối tượng cụ thể. Đối tượng của hợp đồng có thể là hàng
hóa, tài sản hoặc việc thực hiện công việc. Nếu đối tượng hợp đồng là tài sản
thì phải được xác định cụ thể và là loại tài sản được phép lưu thông, thuộc
quyền định đoạt hợp pháp của bên giao dịch. Nếu đối tượng hợp đồng là một
công việc thì công việc đó phải có thể thực hiện được và việc thực hiện công
việc đó không trái quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Do đó, các thỏa
thuận mua bán những vật dụng “ảo” trên mạng trong các trò chơi trực tuyến
(game online), thỏa thuận bán nội tạng cơ thể người, thỏa thuận sinh con
thuê… như phản ánh của báo chí không được coi là hợp đồng, không được
pháp luật bảo vệ.
Ba là, sự thoả thuận nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quyền là những điều các bên được hưởng, còn
nghĩa vụ là việc các bên phải thực hiện. Pháp luật dân sự của nhiều quốc gia
(Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp) chỉ đề cập đến nghĩa vụ, bởi họ quan niệm
trong một quan hệ hợp đồng thì quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và

ngược lại. Theo Điều 280 BLDS năm 2005 của Việt Nam thì nghĩa vụ dân sự
là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (bên có nghĩa vụ) phải chuyển
giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc
khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc
nhiều chủ thể khác (bên có quyền). Đây là các nghĩa vụ được pháp luật bảo
vệ; bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ của mình, nếu
không thực hiện đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự dưới các hình
thức khác nhau như: phạt vi phạm nghĩa vụ, bồi thường thiệt hại, trả lãi suất,
bị đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng…

9
Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng không phải thoả thuận nào giữa các bên
cũng tất yếu dẫn đến việc hình thành hợp đồng. Chỉ những thoả thuận nào
được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật thì làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ pháp lý.
1.1.2. Phân loại hợp đồng
Trên thực tế, các loại hợp đồng khá đa dạng và phong phú. Vì vậy, việc
phân loại hợp đồng theo từng nhóm dựa vào những dấu hiệu pháp lý đặc
trưng có giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Có thể phân loại hợp đồng
theo các tiêu chí cơ bản sau:
- Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ của các bên mà hợp đồng
được chia thành hai loại là hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế. Hợp
đồng ưng thuận là hợp đồng mà thời điểm phát sinh hiệu lực là thời điểm
GKHĐ, ví dụ hợp đồng mua bán, hợp đồng đại lý… Hợp đồng thực tế là loại
hợp đồng mà hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm các bên chuyển giao
cho nhau đối tượng hợp đồng, ví dụ hợp đồng tín dụng, hợp đồng gửi giữ tài
sản…
- Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các bên, hợp đồng được chia thành
hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà
mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với bên kia. Mỗi bên tham gia hợp đồng đều

được hưởng quyền và phải thực hiện nghĩa vụ; quyền của bên này là nghĩa vụ
của bên kia và ngược lại. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán hàng hoá thì bên
bán có nghĩa vụ giao hàng và có quyền nhận tiền bán hàng, còn bên mua có
nghĩa vụ thanh toán tiền và có quyền nhận hàng hoá. Hợp đồng đơn vụ là hợp
đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ mà không được hưởng quyền, còn bên kia
được hưởng quyền mà không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào, ví dụ hợp
đồng tặng cho tài sản.
- Trong lĩnh vực kinh tế, căn cứ vào tính chất đền bù lợi ích cho các bên
chủ thể, mà người ta còn phân biệt hợp đồng thành hai loại là hợp đồng mang

10
tính đền bù và hợp đồng không mang tính đền bù. Hợp đồng mang tính đền
bù là hợp đồng mà mỗi bên chủ thể sau khi đã thực hiện cho bên kia một lợi
ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng, ví dụ, người bán trong hợp
đồng mua bán hàng hoá khi giao hàng cho người mua sẽ được người mua đền
bù cho một số tiền theo sự thoả thuận giữa các bên. Hợp đồng không mang
tính đền bù là hợp đồng, theo đó một bên nhận được từ bên kia một lợi ích
nhưng không phải đền bù cho bên đó bất kỳ lợi ích nào, ví dụ bên được tặng
cho tài sản được nhận tài sản từ bên tặng cho nhưng không phải thực hiện bất
kỳ lợi ích gì cho bên tặng cho tài sản.
- Căn cứ vào tính phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực mà các hợp đồng
được chia thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Hợp đồng chính là hợp
đồng mà hiệu lực của nó không phụ thuộc vào một hợp đồng khác. Hợp đồng
phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào một hợp đồng khác (hợp đồng
chính). Ví dụ: trong quan hệ thế chấp tài sản, để bảo đảm cho một khoản vay
ngân hàng thì hợp đồng thế chấp là hợp đồng phụ còn hợp đồng tín dụng là
hợp đồng chính. Theo quy định tại Điều 410 BLDS năm 2005, “sự vô hiệu
của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có
thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không
áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu

của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các
bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng
chính”.
- Căn cứ vào hình thức hợp đồng, người ta chia hợp đồng thành hợp
đồng bằng lời nói (hay nhiều người gọi là hợp đồng miệng), hợp đồng bằng
cử chỉ và hợp đồng bằng văn bản. Hợp đồng miệng là hợp đồng được các bên
dùng ngôn ngữ để thoả thuận, thống nhất, xác nhận những nội dung của hợp
đồng. Hợp đồng bằng cử chỉ là hợp đồng được các bên thỏa thuận, thống nhất
với nhau thông qua các hành vi, cử chỉ cụ thể. Ví dụ: các siêu thị bày hàng có

11
niêm yết giá trên kệ; khách hàng nhặt hàng cho vào giỏ của mình và thanh toán
tiền. Như vậy, thông qua các hành vi bày hàng, niêm yết giá, nhặt hàng cho vào
giỏ và thanh toán tiền, giữa siêu thị và khách hàng đã ký kết và thực hiện xong
một hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng bằng văn bản là các hợp đồng mà
trong đó, những nội dung cụ thể mà các bên đã thỏa thuận, thống nhất với
nhau, được thể hiện bằng chữ viết trong văn bản hợp đồng hoặc các công văn,
giấy tờ, tài liệu khác mà các bên trao đổi cho nhau. Các văn bản này có thể
được các bên trao đổi trực tiếp bản gốc mà cũng có thể được các bên chuyển
qua fax, telex, email và các hình thức thông tin điện tử khác.
Các hợp đồng ký bằng văn bản cũng có thể có nhiều hình thức khác nhau
như: hợp đồng ký bằng văn bản thông thường, hợp đồng ký bằng văn bản có
công chứng, chứng thực. Một số loại hợp đồng mà pháp luật bắt buộc phải ký
bằng văn bản có công chứng, chứng thực (ví dụ: hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, các hợp đồng mua bán nhà và một số bất động sản phải
đăng ký quyền sở hữu khác, hợp đồng thuê nhà có thời hạn thuê trên 6
tháng ) thì phải làm công chứng, chứng thực cho hợp đồng.
1.1.3. Bản chất pháp lý của giao kết hợp đồng
Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận trên cơ sở tự do ý chí của các bên
nên hợp đồng chỉ được coi là đã hình thành khi các bên đạt được sự thoả thuận.

Giao kết hợp đồng (GKHĐ) được hiểu là một quá trình, trong đó các chủ thể
tham gia quan hệ hợp đồng thực hiện các hành vi thỏa thuận, thống nhất, xác
nhận với nhau các nội dung của hợp đồng. GKHĐ, một mặt được coi là tiền đề
cho việc thiết lập quan hệ hợp đồng, mặt khác có vai trò quan trọng đảm bảo
cho hợp đồng đã ký kết là có hiệu lực pháp luật, đảm bảo tính chặt chẽ trong
các nội dung của hợp đồng để ngăn ngừa vi phạm hợp đồng. GKHĐ chính là
cầu nối cho việc tạo lập mối quan hệ ổn định lâu dài cho các bên.
Bên cạnh đó, ý chí của các bên được xác lập thông qua quá trình GKHĐ
phù hợp quy định của pháp luật chính là căn cứ để pháp luật bảo vệ quyền và

12
lợi ích hợp pháp cho họ. Những thoả thuận vi phạm quy định của pháp luật
trong quá trình giao kết hợp đồng sẽ không làm phát sinh quan hệ hợp đồng
ràng buộc các bên và có thể gây ra tổn thất cho mỗi bên tham gia hợp đồng.
Ngược lại, những điều khoản chặt chẽ trong hợp đồng là kết quả của quá trình
giao kết hợp đồng tuân thủ quy định của pháp luật, sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng như thanh lý hợp đồng
và tạo cơ sở cho các cơ quan tài phán khi giải quyết các tranh chấp phát sinh
từ quan hệ hợp đồng.
Ngoài ra, thông qua quá trình GKHĐ, các ý đồ không lành mạnh (nếu
có) cũng được bộc lộ, qua đó giúp cho các đối tác có sự lựa chọn để tránh
những điều khoản có thể gây thiệt hại cho mình cũng như tránh được các
tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Như vậy, có
thể thấy GKHĐ không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các bên trong quan
hệ hợp đồng mà còn góp phần thiết lập trật tự chung trong xã hội.
GKHĐ có thể được tiếp cận dưới hai góc độ khác nhau. Nếu hiểu theo
nghĩa hẹp thì GKHĐ là hành vi xác nhận của các bên về một hợp đồng đã
được hình thành. Với cách hiểu này, GKHĐ hay bị đánh đồng với khái niệm
“ký kết hợp đồng”. Hiểu theo nghĩa rộng, GKHĐ được hiểu là toàn bộ quá
trình tuyên bố (thể hiện) ý chí của các bên nhằm thỏa thuận và thống nhất về

các nội dung của hợp đồng. Phụ thuộc ý chí của các chủ thể mà GKHĐ có thể
là một quá trình đàm phán kéo dài hoặc chỉ diễn ra trong giây lát. Về cơ bản,
quá trình GKHĐ được bắt đầu bởi việc một bên (bên đề nghị GKHĐ) bày tỏ ý
chí muốn GKHĐ với bên kia (bên được đề nghị GKHĐ) bằng cách đưa ra đề
nghị GKHĐ và kết thúc khi bên đề nghị nhận được chấp nhận đề nghị GKHĐ
từ bên được đề nghị GKHĐ. Như vậy, GKHĐ là một quá trình, trong đó:
- Có sự tham gia của ít nhất hai bên chủ thể có năng lực pháp luật, năng
lực hành vi dân sự phù hợp với loại hợp đồng mà các bên muốn ký kết và tự

13
nguyện GKHĐ. Họ có thể chính là các bên chủ thể của hợp đồng sẽ hình
thành hoặc đại diện hợp pháp của hai bên chủ thể của quan hệ hợp đồng;
- Có sự bày tỏ chủ động, trực tiếp ý chí muốn GKHĐ của một bên (bên
đề nghị giao kết hợp đồng) thông qua các thông tin cụ thể bên đó đưa ra và
được BLDS gọi là “đề nghị giao kết hợp đồng”;
- Có sự chấp thuận của bên kia (bên được đề nghị giao kết hợp đồng)
bằng các thông tin cụ thể bên đó đưa ra và được BLDS gọi là về những nội
dung trong đề nghị GKHĐ thể hiện qua chấp nhận đề nghị GKHĐ;
- Xác lập quan hệ hợp đồng dưới một hình thức theo quy định của pháp
luật (có thể bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng văn bản).
Quá trình GKHĐ diễn ra có nhanh chóng hay không phụ thuộc vào ý chí
của các bên, nhưng thường phải trải qua các giai đoạn sau:
Có thể biểu hiện quá trình GKHĐ bằng sơ đồ sau:
Đề nghị GKHĐ


Gửi

Gửi
Chấp nhận đề nghị GKHĐ

Trong quá trình GKHĐ, các bên có thể đàm phán, thương lượng (trực
tiếp hoặc gián tiếp) và hợp đồng được hình thành khi các bên thỏa thuận được
với nhau về các nội dung của hợp đồng trên cơ sở tự nguyện.
1.2. Các nội dung của giao kết hợp đồng
1.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
1.2.1.1. Các dấu hiệu nhận biết đề nghị GKHĐ
Như phần trên đã trình bày, để hình thành một quan hệ hợp đồng thì phải
có một bên đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng (offer). Đề nghị GKHĐ là
Bên đề nghị
Bên được đề nghị
Gửi
Nhận
Nhận

Đàm phán, thương lượng

14
một yếu tố đầu tiên và rất quan trọng để xác lập hợp đồng, vì khi một bên đưa
ra đề nghị GKHĐ và được bên kia chấp nhận thì sẽ hình thành một hợp đồng.
Chính vì vậy, pháp luật của các nước cũng như pháp luật quốc tế đều quy
định khá chi tiết về đề nghị GKHĐ. Công ước Viên về hợp đồng mua bán
quốc tế năm 1980 quy định: “Một đề nghị kí kết hợp đồng gửi cho một hay
nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu đủ chính xác và nếu nó
chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp
có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị được coi là đủ chính xác khi nó
nêu rõ hàng hóa và ấn định về: số lượng, giá cả một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp hoặc quy định những thể thức xác định những yếu tố này” (Điều 14).
Cũng với cách tiếp cận tương tự, trong “Nguyên tắc hợp đồng thương mại
quốc tế” do Viện Thống nhất Tư pháp quốc tế soạn thảo đưa ra khái niệm về
đề nghị giao kết hợp đồng như sau: “một đề nghị được coi là đề nghị GKHĐ

nếu nó rõ ràng, đầy đủ và nêu rõ ý định của bên đưa ra đề nghị mong muốn bị
ràng buộc bởi hợp đồng khi đề nghị GKHĐ được chấp thuận” (Điều 17).
Theo Điều 396 BLDS năm 1995 thì khi một bên đề nghị bên kia giao kết
hợp đồng có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời, thì
không được mời người thứ ba giao kết trong thời hạn chờ trả lời và phải chịu
trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Luật Thương mại Việt Nam năm 1997
cũng có cách tiếp cận tương tự khi quy định “Chào hàng là một đề nghị
GKHĐ mua bán hàng hóa trong một thời hạn nhất định, được chuyển cho một
hay nhiều người đã xác định và phải có các nội dung chủ yếu của hợp đồng
mua bán hàng hóa” (Điều 51). Khoản 1 Điều 390 BLDS năm 2005 quy định:
“Đề nghị GKHĐ là việc thể hiện rõ ý định GKHĐ và chịu sự ràng buộc về đề
nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”.
Bản chất của đề nghị GKHĐ là hành vi pháp lý đơn phương của bên đề
nghị GKHĐ, thể hiện rõ ý định GKHĐ và chịu sự ràng buộc với đề nghị đó.

15
Như vậy, xét ở bình diện chung nhất thì một thông tin được coi là đề nghị
GKHĐ khi đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, phải thể hiện rõ ý định GKHĐ của bên đề nghị. Thông
thường, một thông tin được coi là thể hiện rõ ý định GKHĐ khi chứa đựng
các nội dung chủ yếu của loại hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Ví dụ: hợp
đồng mua bán hàng hóa phải có nội dung về hàng hóa, số lượng và giá cả
hoặc các phương thức xác định chúng trong lời đề nghị của mình. Tuy vậy,
cũng cần lưu ý là các nước trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về nội
dung chủ yếu của hợp đồng. Pháp luật Anh – Mĩ chỉ cần thỏa thuận về đối
tượng của hợp đồng (tên hàng, số lượng); điều khoản về giá cả là không bắt
buộc. Các bên tham gia quan hệ hợp đồng có thể xác định giá hoặc giá được
xác định bằng phương pháp chung trên thị trường. Trong khi đó pháp luật của
Pháp lại quy định điều khoản về giá cả phải rõ ràng. Còn theo quy định của
công ước Viên thì để xác định một chào hàng có hiệu lực thì chào hàng cần

phải nêu rõ tên hàng hóa và ấn định số lượng và giá cả một cách trực tiếp
hoặc thể thức xác định nó.
BLDS năm 1995 quy định khá chi tiết về các nội dung được coi là nội
dung chủ yếu của hợp đồng. Theo Điều 401 BLDS năm 1995 thì nội dung chủ
yếu của hợp đồng là những điều khoản mà thiếu những điều khoản đó, thì hợp
đồng không thể giao kết được; nội dung nội dung chủ yếu của hợp đồng do
pháp luật quy định; nếu pháp luật không quy định thì theo thỏa thuận của các
bên. BLDS năm 1995 còn quy định cụ thể những nội dung được coi là nội
dung chủ yếu của từng loại hợp đồng. Nhưng theo BLDS năm 2005, để đảm
bảo tối đa quyền tự do thoả thuận nội dung của hợp đồng cho các bên, đã bỏ
quy định về các điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng mà chỉ gợi ý
những điều khoản mà các bên có thể thoả thuận trong hợp đồng tại Điều 402.
Tuy BLDS năm 2005 không quy định rõ về những nội dung cần phải có của
đề nghị GKHĐ nhưng nhìn chung, đề nghị GKHĐ phải tương đối đầy đủ để

16
tạo cơ sở xác định được các quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên nếu đề
nghị GKHĐ được bên kia chấp nhận.
Thứ hai, đề nghị GKHĐ phải thể hiện rõ ý chí của bên đề nghị muốn
GKHĐ với một hoặc một số đối tượng xác định. Nếu đề nghị hướng tới một
tập hợp người không xác định như: áp phích, quảng cáo, tờ rơi… thì không
được coi là đề nghị GKHĐ. Đề nghị GKHĐ khác với quảng cáo bởi quảng
cáo là một hình thức xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy việc mua, bán hàng
hoá hay sử dụng dịch vụ của thương nhân. Có thể có những quảng cáo chứa
đựng một số nội dung của hợp đồng nhưng quảng cáo không phải là đề nghị
GKHĐ vì không hướng tới chủ thể xác định mà hướng đến số đông người
tiêu dùng nói chung. Do đó người quảng cáo không bắt buộc phải giao kết và
thực hiện hợp đồng với những người xem quảng cáo của mình.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại hình thức đề nghị GKHĐ mà bên đưa
ra đề nghị không chỉ rõ những đối tượng được xác định trước. Ví dụ: hình

thức bán hàng tại các siêu thị, thông báo công khai về việc gửi giữ xe đạp, xe
máy, niêm yết của các ngân hàng về mức lãi suất cho vay nhận tiền gửi hay
cam kết hứa thưởng và thi có giải… Dưới dạng đề nghị này, các bên mặc
nhiên thừa nhận và thực hiện hợp đồng mà không cần phải có sự thỏa thuận.
Một số tác giả cho rằng đây là dạng đặc biệt của đề nghị GKHĐ mà trong
khoa học pháp lý gọi là đề nghị GKHĐ công cộng. Điểm khác nhau giữa đề
nghị GKHĐ thông thường và đề nghị GKHĐ công cộng là ở tính cụ thể của
đối tượng mà đề nghị đó hướng tới. Đề nghị GKHĐ công cộng được hướng
tới tập người không xác định. Còn đề nghị GKHĐ thông thường được gửi đến
cho đối tượng xác định cụ thể. Pháp luật các nước cũng đã có quy định về đề
nghị GKHĐ công cộng, chẳng hạn Liên bang Nga quy định ở Bộ luật Dân sự
(Điều 437).
Ở Việt Nam, đây là vấn đề tuy đã xuất hiện nhiều trong thực tiễn nhưng
được đề cập nhiều trong pháp luật về hợp đồng. Vì vậy, sự ràng buộc trách

17
nhiệm của các bên như thế nào, đặc biệt là trách nhiệm của bên đưa ra đề nghị
GKHĐ công cộng là vấn đề chưa được xác định rõ ràng trong các quy định
của Pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, đề nghị GKHĐ phải xác định rõ thời hạn trả lời. Trong thời hạn
đề nghị GKHĐ có hiệu lực, nếu bên được đề nghị chấp nhận hoàn toàn đề
nghị GKHĐ thì sẽ làm phát sinh quan hệ hợp đồng giữa bên đề nghị và bên
được đề nghị. Vấn đề thời hạn của đề nghị GKHĐ cũng được pháp luật các
nước quy định khác nhau. Pháp luật một số nước không bắt buộc đề nghị
GKHĐ phải quy định rõ thời hạn trả lời; nếu một đề nghị không nêu rõ thời
hạn trả lời được coi là có giá trị ràng buộc người đưa ra đề nghị trong một
khoảng thời gian hợp lý (khi giải quyết tranh chấp, thẩm phán có toàn quyền
đánh giá mức thời gian hợp lý tùy vào tính chất và hoàn cảnh của giao dịch).
Đối với đề nghị GKHĐ không quy định thời hạn trả lời thì bên đề nghị có
toàn quyền thay đổi hay rút lại đề nghị chừng nào chưa nhận được trả lời của

bên kia. BLDS của Cộng hòa Pháp quy định đề nghị GKHĐ có thể quy định
hoặc không quy định thời hạn trả lời.
Công ước Viên lại đưa ra giải pháp khác để xử lý tình huống khi đề nghị
GKHĐ không xác định rõ thời hạn trả lời, theo đó nếu người chào hàng
không ấn định thời hạn của chào hàng thì thời hạn của chào hàng được xác
định hợp lý phụ thuộc vào tình tiết của giao dịch, trong đó xét đến tốc độ của
các phương tiện liên lạc do người chào hàng sử dụng (khoản 2 Điều 18).
Trong pháp luật các nước, về mặt khái niệm, ý chí đơn phương của một
bên nếu không được đáp ứng các điều kiện của một đề nghị GKHĐ như đã
nêu ở trên được xác định là một đề nghị giao dịch hay đề nghị thương lượng
(invitation for offer).
Khác với đề nghị GKHĐ, đề nghị giao dịch hay đề nghị thương lượng
không ràng buộc trách nhiệm của người tuyên bố. Khi đưa ra đề nghị GKHĐ
với một chủ thể xác định, người đề nghị bị ràng buộc với một chủ thể xác

18
định, người đề nghị bị ràng buộc về mặt pháp lý bởi nếu có sự chấp thuận của
người được đề nghị thì hợp đồng được hình thành. Sự khác biệt cơ bản chính
là hậu quả pháp lý của chúng: việc bên được đề nghị giao dịch chấp nhận đề
nghị không dẫn đến sự ra đời của một hợp đồng mà chỉ dẫn đến sự hình thành
của một đề nghị GKHĐ, trong khi đó, việc chấp nhận đề nghị GKHĐ dẫn tới
sự hình thành một quan hệ hợp đồng. Ví dụ: Nhà máy sản xuất xi-măng A gửi
văn bản cho Công ty Xây dựng B với nội dung: Nhà máy chúng tôi có khả
năng cung cấp các loại xi-măng chất lượng đảm bảo với giá thấp hơn giá thị
trường ít nhất 10%. Công ty Xây dựng B gửi văn bản cho Nhà máy xi-măng
A yêu cầu giao 100 tấn xi-măng mác PC-400 tại chân công trình xây dựng.
Do văn bản Nhà máy sản xuất xi-măng A gửi văn bản cho Công ty Xây dựng
B không có các nội dung cụ thể, không có thời hạn trả lời nên không được coi
là đề nghị GKHĐ. Việc Công ty Xây dựng B gửi văn bản cho Nhà máy xi-
măng A yêu cầu giao 100 tấn xi-măng mác PC-400 tại chân công trình xây

dựng mới được coi là đề nghị GKHĐ.
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định về đề nghị giao dịch,
nhưng pháp luật của nhiều nước đã có sự phân biệt đề nghị GKHĐ và đề nghị
giao dịch. Ví dụ: pháp luật Singapore yêu cầu lời đề nghị GKHĐ phải được
đưa ra với mục đích ràng buộc các bên. Nếu một người chỉ đưa ra lời đề nghị
hoặc yêu cầu thông tin mà không hướng tới sự ràng buộc, thì coi là người đó
đưa ra lời mời thương lượng. Hay theo quy định của án lệ Anh, việc trưng bày
hàng hoá ở cửa hàng không phải là đề nghị GKHĐ của chủ hiệu mà chỉ là sự
mời chào khách đến mua hàng (đề nghị thương lượng). Do đó người bán hàng
có quyền chấp thuận hoặc từ chối bán hàng theo ý mình (vụ Fisher kiện Bell,
1961) [15,tr 52]. Tuy vậy, đề nghị giao dịch hiện nay cũng chưa có cách hiểu
thống nhất: một số nước (như: Liên bang Nga, Pháp…) quan niệm việc ấn
định giá ở các cửa hàng, siêu thị hoặc trong một catalogue cũng được coi là
một đề nghị GKHĐ, nhưng các nước khác (như: Anh, Mĩ…) thì đây chỉ là

19
một đề nghị giao dịch (lời mời thương lượng). Pháp luật Việt Nam về GKHĐ
không có khái niệm pháp lý cho hành động tuyên bố ý chí này. Theo phương
pháp suy đoán loại trừ vì không thỏa mãn các đề nghị của một GKHĐ nên
đây không được coi là một đề nghị GKHĐ.
1.2.1.2. Hiệu lực của đề nghị GKHĐ
Việc xác định hiệu lực của đề nghị GKHĐ có ý nghĩa quan trọng, bởi vì
trong thời hạn hiệu lực của đề nghị GKHĐ, bên đề nghị bị ràng buộc trách
nhiệm với đề nghị GKHĐ mà mình đã đưa ra và nếu bên được đề nghị trả lời
chấp nhận đề nghị trong thời gian có hiệu lực của đề nghị GKHĐ thì hợp
đồng hình thành. Theo thông lệ chung thì thời hạn có hiệu lực của đề nghị
GKHĐ do bên đưa ra đề nghị GKHĐ ấn định. Tuy vậy, để có thể xử lý các
tình huống, trong đó, bên đề nghị GKHĐ không ấn định thời gian có hiệu lực
của đề nghị GKHĐ, pháp luật một số nước có quy định về cách thức xác định
thời hạn có hiệu lực của đề nghị GKHĐ (chi tiết xin xem mục 1.2.1.1).

Thời điểm đề nghị GKHĐ bắt đầu có hiệu lực cũng được quy định khác
nhau trong pháp luật của các nước. Một số nước quy định đề nghị GKHĐ bắt
đầu có hiệu lực từ thời điểm bên đề nghị GKHĐ gửi đề nghị GKHĐ cho bên
được đề nghị. Trong khi đó, một số nước khác, trong đó có Việt Nam lại quy
định đề nghị GKHĐ chỉ bắt đầu có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị
GKHĐ nhận được đề nghị đó. Thông thường, bên được đề nghị GKHĐ được
coi là đã nhận được đề nghị GKHĐ khi đề nghị được chuyển đến nơi cư trú,
nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề
nghị là pháp nhân hoặc đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức
của bên được đề nghị hoặc khi bên được đề nghị biết được đề nghị GKHĐ
thông qua các phương thức khác.
Đề nghị GKHĐ chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp bên nhận được
đề nghị trả lời không chấp nhận; hết thời hạn trả lời chấp nhận; bên đề nghị
GKHĐ thông báo hợp lệ về việc thay đổi, rút lại hoặc hủy bỏ đề nghị GKHĐ;

20
theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời.
1.2.1.3. Thay đổi, bổ sung, huỷ bỏ đề nghị giao kết hợp đồng
Bên đề nghị GKHĐ phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình từ khi đề
nghị được chuyển đi. Tuy nhiên trách nhiệm này của bên đề nghị GKHĐ chỉ
phát sinh sau khi bên đề nghị nhận được đề nghị. Do đó, bên đề nghị có
quyền thay đổi hoặc rút lại đề nghị của mình. Vấn đề này được quy định trong
Công ước Viên 1980: “Chào hàng dù là loại chào hàng cố định vẫn có thể bị
hủy nếu như thông báo về việc hủy chào hàng đến được người chào hàng
trước hoặc cùng lúc với chào hàng” (khoản 2 Điều 15) và: “cho tới khi Hợp
đồng được giao kết, người chào hàng vẫn có thể thu hồi chào hàng trước khi
người này gửi thông báo chấp nhận chào hàng” (khoản 1 Điều 16). Theo
khoản 2 Điều 4 của “Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế” thì đề nghị
GKHĐ không thể hủy bỏ trong các trường hợp: (i) Lời đề nghị có ấn định

thời hạn cố định để trả lời hoặc ấn định nó không thể bị hủy ngang; (ii) Bên
được đề nghị có thể tin tưởng một cách hợp lý là đề nghị không thể bị hủy
ngang và bên được đề nghị hành động trên cơ sở tin tưởng vào lời đề nghị đó.
Còn theo pháp luật của Nhật bản, Đức và các nước Châu Âu lục địa, trong
thời gian có hiệu lực của chào hàng cố định (đề nghị giao kết hợp đồng/chào
hàng không hủy ngang) thì người chào hàng không có quyền hủy chào hàng
của mình.
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, người đề nghị được quyền thay đổi
hoặc rút lại đề nghị vào bất cứ thời điểm nào trước khi người được đề nghị
chấp nhận đề nghị nhưng không được rút lại đề nghị nếu đã hứa trước một
thời hạn để đề nghị này có hiệu lực và đã nhận được của người nhận một
nghĩa vụ đối ứng như là một sự trả giá cho việc giữ lời hứa trên. Pháp luật của
một số bang của Hoa Kỳ cũng quy định có những đề nghị GKHĐ không được
rút lại [20; tr 82,183]. BLDS của Ý quy định: bên đề nghị GKHĐ gửi lời đề

21
nghị đến một đối tượng cụ thể thì có thể rút lại đề nghị của mình trước khi
hợp đồng được ký kết trừ trường hợp có ấn định thời hạn có hiệu lực trong đề
nghị GKHĐ [99; tr 27].
Còn theo quy định của BLDS năm 2005, bên đề nghị GKHĐ có thể thay
đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp bên được đề nghị nhận
được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời
điểm nhận được đề nghị; hoặc điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát
sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại
đề nghị khi điều kiện đó phát sinh (Điều 392).
1.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
1.2.2.1. Các dấu hiệu nhận biết chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị GKHĐ là hành vi tuyên bố ý chí của bên được đề
nghị về việc chấp thuận toàn bộ nội dung của đề nghị GKHĐ (Điều 396
BLDS năm 2005). Khi một đề nghị GKHĐ được chấp nhận thì quan hệ hợp

đồng giữa các bên được hình thành. Một thông tin được coi là chấp nhận đề
nghị GKHĐ khi đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, thể hiện sự đồng ý của bên được đề nghị về tất cả các nội dung
của đề nghị GKHĐ. Sự chấp nhận này có thể được thực hiện dưới các hình
thức khác nhau như: văn bản, lời nói, cử chỉ, thậm chí cả sự im lặng (nếu các
bên có thỏa thuận im lặng được coi là hành vi chấp nhận hợp đồng). Theo
Công ước Viên 1980, sự im lặng hoặc không hành động (bất tác vi) không
được coi là một chấp nhận chào hàng. Tuy nhiên án lệ lại thừa nhận trong
nhiều trường hợp vẫn được coi là chấp nhận chào hàng. Ví dụ: Nếu người bán
chuyển cho người mua một văn bản với nội dung: Trừ trường hợp quý ngài
được thông báo khác từ phía tôi trong thời hạn 3 ngày sau ngày tôi nhận được
đơn đặt hàng của Quý ngài, tôi sẽ chuyển giao hàng mà quý ngài cần với giá
100 USD/chiếc”. Trong trường hợp này sự im lặng của người bán cấu thành
lời chấp nhận chào hàng. Các nước Anh, Mĩ, Pháp đều không quy định im

×