Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.87 KB, 135 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LẠI THỊ HỒNG






NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ
CỦA VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN
VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012


Formatted: Left

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LẠI THỊ HỒNG





NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ
CỦA VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN
VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan





HÀ NỘI - 2012


4
MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG
CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

6
1.1. Khái niệm chung về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng 6

1.1.1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng 6
1.1.1.1.

Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung

7
1.1.1.2.

Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng

13
1.1.2. Mối quan hệ giữa các quy định về quyền sở hữu tài sản của
vợ chồng và việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của
vợ chồng
18
1.2. Một số vấn đề lý luận công chứng thỏa thuận về tài sản của
vợ chồng
20
1.2.1. Khái niệm thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 20
1.2.2. Khái niệm công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 21
1.2.3. Yêu cầu đối với văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản
của vợ chồng
26
1.2.3.1.

Yêu cầu về hình thức đối với văn bản công chứng thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng

26
1.2.3.2.


Yêu cầu về nội dung của văn bản công chứng thỏa thuận về 27

5
tài sản của vợ chồng

1.2.3.3.

Trình tự, thủ tục chung công chứng thỏa thuận về tài sản
của vợ chồng

29
1.3. Ý nghĩa pháp lý của việc công chứng thỏa thuận về tài sản
của vợ chồng
31
Chương 2:
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT YÊU CẦU CÔNG
CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG TẠI CƠ QUAN CÔNG CHỨNG

38
2.1. Các trường hợp phát sinh yêu cầu công chứng thỏa thuận về
tài sản của vợ chồng
38
2.1.1. Yêu cầu công chứng theo quy định của pháp luật 38
2.1.2. Yêu cầu công chứng theo ý chí tự nguyện của vợ chồng 41
2.1.3. Công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng theo yêu
cầu của bên thứ ba có liên quan đến giao dịch về tài sản với
vợ chồng
42

2.2. Áp dụng pháp luật để công chứng các thỏa thuận về tài sản
của vợ chồng trong thực tiễn
43
2.2.1. Công chứng thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ, chồng
vào khối tài sản chung của vợ chồng
43
2.2.2. Công chứng thỏa thuận (cam kết) tài sản riêng của vợ, chồng 46
2.2.3.

Công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân

50
2.2.4. Công chứng thỏa thuận chia tài sản chung sau khi ly hôn 59
2.2.5. Công chứng thỏa thuận tặng cho tài sản giữa vợ và chồng 62
2.2.6. Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
66
2.2.7. Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của vợ chồng 69
2.2.8. Công chứng thỏa thuận ủy quyền giữa vợ và chồng 72

6
2.2.9. Công chứng các thỏa thuận sửa đổi, bổ sung và hủy bỏ hợp
đồng, giao dịch giữa vợ và chồng
76
Chương 3:
MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG VIỆC
CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ


79
3.1. Những vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết yêu
cầu công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng
79
3.1.1. Những vướng mắc phát sinh trong việc áp dụng pháp luật
hôn nhân và gia đình
79
3.1.2. Những vướng mắc trong việc áp dụng Luật Nhà ở 84
3.1.3. Những vướng mắc trong việc áp dụng Luật Đất đai 87
3.1.4. Một số điểm tồn tại trong việc áp dụng Luật Công chứng 89
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng
98
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật là cơ sở pháp lý công
chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng
98
3.2.1.1.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật hôn nhân và gia đình
98
3.2.1.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn hiện các quy định về pháp luật
nhà ở
101
3.2.1.3.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật đất đai

103
3.2.1.4.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật công chứng 104
3.2.2.

Một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động
công chứng

113

KẾT LUẬN
116

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
118


7



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLDS : Bộ luật Dân sự
CCV : Công chứng viên
LCC : Luật Công chứng
LHN&GĐ : Luật Hôn nhân và gia đình
UBND : Ủy ban nhân dân

VPCCHN : Văn phòng công chứng Hà Nội


Formatted: Left

8

9
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế thị trường mang lại cho kinh tế gia đình những cơ hội,
đồng thời cũng đặt kinh tế gia đình trước những rủi ro và thách thức. "Gia
đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Coi đầu tư cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững" [32]. Với vai trò
quan trọng như vậy, Nhà nước cần phải có chính sách nhằm bảo đảm sự phát
triển ổn định, bền vững cho gia đình và xã hội. Hoạt động công chứng hợp
đồng, giao dịch đã tỏ rõ là giải pháp hiệu quả để Nhà nước quản lý và bảo
đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch phát sinh trong xã hội, trong đó có giao
dịch về tài sản của vợ chồng trong thời gian qua.
Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng xuất phát từ yêu cầu chính đáng
của vợ chồng trong việc chủ động nguồn vốn đề đầu tư kinh doanh, hạn chế
các rủi ro có thể gặp phải, bảo đảm quyền và lợi ích của vợ chồng và gia đình.
Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế cộng với quy định còn
phức tạp, chưa cụ thể và thống nhất của pháp luật đã làm cho vợ chồng lúng
túng, e ngại khi lập văn bản thỏa thuận về tài sản. Trong khi đó, công chứng
thỏa thuận về tài sản của vợ chồng đã tỏ rõ những ưu việt của mình trong việc
bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng, từ đó bảo đảm quyền và lợi

ích của vợ chồng và người thứ ba có quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ
chồng, đồng thời hạn chế các tranh chấp có thể phát sinh. Vì vậy, việc công
chứng thỏa thuận về tài sản được vợ chồng quan tâm, lựa chọn ngay cả khi
pháp luật không yêu cầu bắt buộc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải
được công chứng.
Formatted: Indent: First line: 0.5"
Formatted: Space Before: 0 pt

10

Trong khi nhu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng
trong xã hội không ngừng gia tăng thì các quy định của pháp luật lại chưa
theo kịp với thực tiễn, các quy định hiện hành còn chưa rõ ràng, thống nhất đã
gây khó khăn cho công chứng viên (CCV) trong việc áp dụng pháp luật để
giải quyết các yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trên
thực tế.
Mặc dù là một vấn đề không mới và có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển của xã hội nói chung và gia đình nói riêng nhưng vấn đề công
chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng chưa được các học giả quan tâm
nghiên cứu một cách toàn diện. Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng
về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong việc nâng cao giá trị pháp lý của
văn bản công chứng liên quan đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, một
vấn đề quan trọng mà những người làm nghề dịch vụ công chứng như chúng
tôi phải bảo đảm. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: "Những khía
cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng"
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề công chứng dưới góc độ là hoạt động bổ trợ tư pháp đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn
trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý

của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, của
Đặng Văn Khanh; "Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước
trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, của
Tuấn Đạo Thanh… Vấn đề công chứng giao dịch tài sản nói chung cũng đã
được quan tâm nghiên cứu như: "Một số vấn đề về công chứng giao dịch tài

11
sản ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Đỗ Xuân Hòa. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các giao
dịch tài sản nói chung, còn việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý của việc
công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng dưới góc độ thực hiện
quyền tài sản của vợ chồng thì chưa có công trình nghiên cứu nào được thực
hiện. Vì vậy, có thể khẳng định, đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu một
cách chuyên sâu, có hệ thống, toàn diện về vấn đề công chứng các thỏa thuận
về tài sản của vợ chồng, áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các
yêu cầu công chứng trên thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu nhằm các mục đích sau đây:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về tài sản của vợ
chồng, với vai trò là cơ sở pháp lý đảm bảo tính hợp pháp, có căn cứ của các
thỏa thuận về tài sản của vợ chồng tại cơ quan công chứng;
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về công chứng nhằm đảm
bảo giá trị pháp lý của văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
+ Giải quyết những vấn đề lý luận liên quan đến chế định tài sản của
vợ chồng là cơ sở pháp lý thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, xây dựng văn
bản công chứng và bảo đảm giá trị của văn bản công chứng.
+ Nghiên cứu một số tình huống thỏa thuận về tài sản của vợ chồng đã
gặp trong thực tiễn tại Văn phòng Công chứng Hà Nội (VPCCHN).

+ Phân tích mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật về tài sản của
vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Đất đai, Luật Nhà ở… và
Luật Công chứng (LCC), trên cơ sở đó có những đề xuất nhằm bảo đảm tính
chính xác, khách quan và giá trị pháp lý của văn bản công chứng, nâng cao

12
hiệu quả thực hiện công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng tại các
cơ quan công chứng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
+ Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về tài sản của vợ
chồng và pháp luật công chứng để xác định cơ sở pháp lý xây dựng và công
chứng văn bản thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.
+ Phân tích, đánh giá một số tình huống công chứng các thỏa thuận về
tài sản của vợ chồng thường gặp tại VPCCHN. Để đảm bảo giữ bí mật các
thông tin về nội dung công chứng theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 12
của LCC, các tình huống tại luận văn được xây dựng trên cơ sở các tình
huống đã gặp từ thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu việc công
chứng các thỏa thuận về tài sản giữa vợ và chồng mà không nghiên cứu việc
công chứng các thỏa thận khác về tài sản giữa vợ chồng với người thứ ba như
mua bán, tặng cho… Luận văn chỉ xem xét và đánh giá một số tình huống
công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng thường gặp tại VPCCHN.
+ Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả cũng chỉ tập trung
nghiên cứu chế định tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
(LHN&GĐ) năm 2000 với vai trò là cơ sở pháp lý để xây dựng một văn bản
công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, không nghiên cứu các vấn đề
về nghiệp vụ công chứng.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

- Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật
lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: so sánh, phân

13
tích, tổng hợp, thống kê.
6. Những điểm mới và đóng góp của đề tài
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu một cách có
hệ thống những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận về tài
sản của vợ chồng.
- Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về công chứng thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng, phát hiện những vướng mắc trong quá trình áp
dụng pháp luật để giải quyết việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ
chồng trên thực tiễn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật liên quan đến việc công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng để đảm
bảo giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về công chứng các thỏa thuận
tài sản của vợ chồng.
Chương 2: Áp dụng pháp luật giải quyết yêu cầu công chứng các thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng tại cơ quan công chứng.
Chương 3: Những vướng mắc, bất cập trong việc công chứng các thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng và một số kiến nghị.

14
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG
CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
1.1.1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
Quan hệ vợ chồng được hình thành từ sự kiện kết hôn, sự kiện này
làm phát sinh quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân và tài sản giữa vợ và
chồng. Kết hôn còn là một trong các sự kiện làm phát sinh một gia đình, với
các chức năng sinh đẻ, giáo dục và chức năng kinh tế. Sau khi kết hôn, vợ
chồng có trách nhiệm chăm sóc cho nhau, cùng nhau chia sẻ việc nuôi dưỡng
và giáo dục con cái cũng như thực hiện các giao dịch nhằm đảm bảo các nhu
cầu vật chất và tinh thần của gia đình. Để thực hiện được điều này, vợ chồng
phải cùng nhau duy trì một khối tài sản chung nhằm nuôi sống và đáp ứng các
nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Vì vậy, quyền sở hữu tài sản là yếu
tố quan trọng để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của gia đình. Dưới góc độ
pháp lý, "quyền sở hữu là tổng hợp một hệ thống các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những
tài sản khác theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự" [63, tr. 178]. Như
vậy, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng được hiểu là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chính các quan hệ xã hội phát sinh
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng. Quyền sở hữu
này bao gồm quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng của mỗi bên và
quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản chung. Vì vậy, vợ chồng có
thể cùng lúc duy trì hai hình thức sở hữu đối với tài sản đó là sở hữu chung
đối với tài sản chung của vợ chồng và sở hữu riêng đối với tài sản riêng.
Trong thời kỳ hôn nhân, xuất phát từ tính cộng đcồng của quan hệ hôn
nhân, đòi hỏi vợ, chồng phải duy trì một khối tài sản chung để đảm bảo các
Formatted: Vietnamese (Vietnam)


15
nhu cầu của vợ, chồng và các thành viên trong gia đình. Vì vậy, pháp luật cần
quy định cơ sở pháp lý để xác lập quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản
chung, là căn cứ để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình, quyền và lợi
ích của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, ngoài tài sản chung, vợ chồng
có thể có tài sản riêng là những tài sản hình thành trước khi kết hôn, khi chưa
bị các quan hệ hôn nhân gia đình chi phối hoặc những tài sản được thừa kế,
được tặng cho riêng Mỗi hình thức sở hữu có đặc thù pháp lý riêng biệt, vì
vậy, việc xác định quyền sở hữu chung, sở hữu riêng của vợ chồng có ý nghĩa
quan trọng đối với việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.
1.1.1.1. Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung
Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung là một trong các cơ
sở pháp lý để bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng thỏa thuận về
tài sản của vợ chồng. Vì vậy, việc CCV xác định đúng quyền sở hữu của vợ
chồng đối với tài sản yêu cầu công chứng sẽ góp phần quan trọng trong việc
bảo đảm "tính hợp pháp" của văn bản công chứng.
 Căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 27 của LHN&GĐ năm 2000:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung [46].
Như vậy, việc xác định quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản
chung dựa vào các căn cứ là thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc phát sinh tài sản.
- Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân.
Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng chung sống với nhau, cùng nhau tạo
dựng tài sản chung và thực hiện các nghĩa vụ tài sản nhằm bảo đảm nhu cầu

16

của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, vì vậy, pháp luật cần quy định
cơ sở pháp lý để bảo đảm vợ chồng có thể sở hữu chung đối với tài sản trong
thời kỳ hôn nhân.
"Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính
từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân" [46, Điều 8].
Như vậy, ngày đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là mốc thời gian
bắt đầu tính thời kỳ hôn nhân. Những tài sản mà vợ chồng có được từ ngày
đăng ký kết hôn cho đến ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân là tài sản chung
của vợ chồng (trừ những tài sản được pháp luật quy định là tài sản riêng như
được tặng cho riêng, được thừa kế riêng, tài sản có được từ việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân).
Trên thực tế, để do điều kiện lịch sử, phong tục tập quán, chiến tranh
kéo dài nên rất nhiều trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng không đăng ký kết hôn. Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ
chồng và các thành viên trong gia đình và góp phần giải quyết tình trạng "hôn
nhân thực tế" ở nước ta, đối với các trường hợp nam nữ chung sống với nhau
như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn thì quan hệ
vợ chồng của họ vẫn được pháp luật thừa nhận. Điểm a, Mục 3 của Nghị
quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình quy định: Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác
lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm
1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết
hôn; trong trường hợp yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo
quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Theo Mục 1
của Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000
của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: Cần chú
ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực


17
hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận
kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ
không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn. Đây là một
trường hợp ngoại lệ của LHN&GĐ năm 2000, trong trường hợp này, thời kỳ
hôn nhân không được tính từ ngày đăng ký kết hôn mà được tính từ ngày vợ
chồng chung sống với nhau trên thực tế. Như vậy, trong trường hợp nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì tài sản mà họ
có được, thu nhập do lao động, sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp
khác từ "ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng" là tài sản chung
của vợ chồng.
Ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân được xác định dựa vào sự kiện: vợ,
chồng chết; quyết định tuyên bố vợ, chồng bị chết của Tòa án có hiệu lực pháp
luật; bản án ly hôn, quyết định về ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Đất đai là một tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân, do vậy, vợ chồng
chỉ có quyền sử dụng đất mà không có quyền sở hữu đất. Theo quy định tại
Khoản 1 Điều 27 của Luật Đất đai năm 2003LHN&GĐ năm 2000: "Quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận" [48]. Như vậy, thời
kỳ hôn nhân cũng là căn cứ để xác định quyền sử dụng chung của vợ chồng
đối với đất đai.
Trong thời kỳ hôn nhân, các tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác
của vợ chồng được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, không
phải mọi trường hợp tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản
chung của vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân chỉ là một trong các căn cứ để xác
định tài sản chung của vợ chồng. Để xác định chính xác tài sản của vợ, chồng
Formatted: Vietnamese (Vietnam)


18
là tài sản chung hay tài sản riêng, CCV còn phải căn cứ vào nguồn gốc phát
sinh tài sản của vợ chồng.
- Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tài sản của vợ chồng.
Tài sản của vợ chồng có thể được hình thành từ nhiều nguồn gốc khác
nhau như từ hoạt động lao động của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, từ sự
định đoạt hợp pháp của chủ sở hữu tài sản (tặng cho, thừa kế), từ sự thỏa thuận
của vợ chồng hoặc từ nguồn gốc hợp pháp khác được pháp luật thừa nhận.
+ Hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh của vợ chồng là nguồn gốc
tạo lập tài sản chủ yếu của vợ chồng. Tài sản được hình thành do lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền
thưởng, lợi nhận từ đầu tư sản xuất kinh doanh, lợi tức thu được từ việc góp
vốn, đầu tư chứng khoán
Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản do vợ chồng
"tạo ra" trong thời kỳ hôn nhân. Những tài sản này do vợ chồng dùng tài sản
do lao động, sản xuất kinh doanh và các nguồn tài sản hợp pháp khác để mua
sắm, trao đổi như máy vi tính, ô tô, xe máy, ti vi, tủ lạnh…
+ Quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng có thể được xác lập do sự
định đoạt của chủ sở hữu tài sản khi tặng cho hoặc để lại thừa kế cho cả hai
vợ chồng. Trường hợp này, việc xác lập quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
trên cơ sở định đoạt hợp pháp tài sản từ người khác qua việc tặng cho tài sản
hoặc được hưởng di sản do thừa kế theo di chúc.
Việc tặng cho tài sản có giá trị thường được thực hiện đối với những
người có quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng như bố, mẹ, vợ,
chồng, con, tuy nhiên, cũng không loại trừ những trường hợp khác. Trong
thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể được hưởng di sản thừa kế theo di chúc
hoặc theo quy định của pháp luật. Đối với trường hợp vợ chồng được hưởng

19
di sản theo di chúc mà di chúc để lại di sản cho cả hai vợ chồng, không phân

định rõ phần di sản mà mỗi người được hưởng thì di sản đó là tài sản chung
của hai vợ chồng.
+ Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung còn được xác lập
trên cơ sở thỏa thuận của vợ chồng.
Trong thời kỳ hôn nhân, việc cùng nhau tạo lập tài sản, đóng góp tài
sản để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình thể hiện trách nhiệm của
vợ, chồng đối với các thành viên trong gia đình. Vì vậy, việc thỏa thuận nhập
tài sản riêng của vợ, chồng vào khối tài sản chung để làm giàu cho khối tài
sản chung của vợ chồng cần được khuyến khích.
Trên thực tế, có nhiều tài sản có nguồn gốc là tài sản riêng nhưng
được vợ, chồng sử dụng cho gia đình, lâu dần không còn chứng cứ để xác
định tài sản đó là tài sản riêng hay tài sản chung thì vợ chồng hoàn toàn có thể
thỏa thuận để công nhận tài sản đó là tài sản chung. Xuất phát từ những lý do
như vậy, nhằm đảm bảo sự cân bằng, hợp lý và bảo đảm lợi ích của gia đình
cũng như các thành viên trong gia đình, pháp luật quy định "những tài sản
khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung" [46, Điều 27].
+ Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng còn được xác lập
dựa trên các căn cứ được pháp luật thừa nhận.
Những tài sản mà vợ chồng xác lập quyền sở hữu theo quy định của
pháp luật do phát hiện vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu, tìm
thấy vật bị chôn giấu, chìm đắm, vật do người khác đánh rơi, bỏ quên, gia
súc, gia cầm bị thất lạc… cũng là tài sản chung của hai vợ chồng. Theo quy
định tại Khoản 2, Điều 27 của LNH&GĐ năm 2000: "Trong trường hợp
không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là
tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung" [46]. Đây là nguyên
tắc suy đoán về tài sản chung của vợ chồng, lần đầu tiên được quy định trong

20
LNH&GĐ năm 2000, pháp luật về hôn nhân và gia đình trước đây chưa có
quy định cụ thể về vấn đề này.

Theo Điểm a, Khoản 3 của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, tài sản
chung của vợ chồng còn bao gồm: "tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng
thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được" [58].
 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung.
Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt đối với tài sản chung.
Sự phát triển của quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ dựa vào sự
nỗ lực, cố gắng của một cá nhân, quan hệ này đòi hỏi sự nỗ lực, chung sức,
chung lòng của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, việc ỷ lại của một
bên sẽ làm cho quan hệ hôn nhân và gia đình khó phát triển. Vì vậy, trách
nhiệm tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người là
trách nhiệm của vợ chồng. Bên cạnh các quyền hưởng thụ từ tài sản như
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thì vợ chồng phải có trách nhiệm
cùng nhau tạo lập khối tài sản chung đó.
Đối với tài sản thuộc sở hữu chung, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tuy
nhiên, về nguyên tắc, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của
vợ, chồng phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận và chỉ để bảo đảm nhu cầu
của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân
sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt thiết yếu của gia đình. Quy định này nhằm xác định nghĩa vụ chung của
vợ, chồng đối với các giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng

21
thực hiện vì lợi ích chung của gia đình. Vợ, chồng có thể trực tiếp thực hiện
các giao dịch hoặc ủy quyền cho vợ hoặc chồng đại diện cho mình thực hiện
các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Khoản 1, Điều 24

của LHN&GĐ năm 2000 quy định: "Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác
lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật
phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn
bản" [46, Điều 24].
Tài sản chung của vợ chồng là cơ sở đảm bảo cho gia đình tồn tại và
phát triển, đảm bảo quyền và lợi ích của vợ chồng và các thành viên trong gia
đình, đồng thời để thực hiện nghĩa vụ tài sản chung nhằm phục vụ cho nhu
cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình
Thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, vợ chồng có quyền
bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt
khác phù hợp với quy định của pháp luật đối. Đối với việc định đoạt tài sản
chung giữa vợ và chồng, vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận tặng cho tài sản giữa vợ và chồng,
thỏa thuận chia tài sản chung của "vợ chồng" sau khi ly hôn, thỏa thuận khôi
phục chế độ tài sản chung của vợ chồng…
1.1.1.2. Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng
Vợ, chồng chỉ có quyền xác lập các giao dịch về tài sản nếu tài sản đó
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình… Do vậy, việc xác định quyền sở
hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng có vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
 Căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết
hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài
sản được chia riêng cho các bên theo thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng

22
trong thời kỳ hôn nhân, đồ dùng, tư trang cá nhân. Như vậy, có thể dựa vào các
căn cứ các căn cứ sau đây để xác định quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài
sản riêng:
- Căn cứ vào thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản.

Theo quy định tại Điều 58 của Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi bổ
sung năm 2001: "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác, đối với đất được Nhà nước
giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18" [47]. Như vậy, trước
khi kết hôn, với vai trò là chủ thể của các quan hệ xã hội, "vợ, chồng" có
quyền sở hữu đối với thu nhập, của cải và tài sản khác được tạo lập hợp pháp
theo quy định của pháp luật. Những tài sản này không phải do "vợ, chồng" tạo
ra trong thời kỳ hôn nhân nên không chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng
của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Do vậy, những tài sản mà
vợ chồng có được trước khi kết hôn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ chồng
ngay cả trong thời kỳ hôn nhân.
- Tài sản mà vợ hoặc chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng
trong thời kỳ hôn nhân.
Việc định đoạt tài sản của chủ sở hữu cho một bên vợ hoặc chồng có
thể thực hiện bằng việc tặng cho riêng một bên vợ, chồng hoặc để lại di sản
thừa kế cho riêng vợ, chồng.
Chủ sở hữu có quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình
theo các hình thức được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, trong trường hợp, bằng
ý chí của mình, chủ sở hữu tặng cho riêng tài sản cho một bên vợ, chồng thì
tài sản đó tài sản riêng của vợ, chồng.
Trong trường hợp được hưởng di sản thừa kế, vợ, chồng có thể được
hưởng di sản theo di chúc (định đoạt tài sản riêng cho một bên) hoặc được
Formatted: Vietnamese (Vietnam)

23
thừa kế theo pháp luật. Trong cả hai trường hợp này, vợ, chồng đều có quyền
sở hữu riêng đối với di sản được thừa kế.
- Tài sản riêng được chia từ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân.

Theo quy định tại Điều 30 LHN&GĐ năm 2000: "Trong trường hợp
chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã
chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn
thuộc sở hữu chung của vợ chồng" [46]. Như vậy, việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng là một trong các căn cứ để xác định
quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với tài sản được hình thành trong thời
kỳ hôn nhân. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,
tài sản đã chia cho ai thuộc quyền sở hữu riêng của bên đó. Việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng dẫn đến "hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác" [18, Điều 8]. Ngoài ra, "thu nhập
do lao động, do hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng sau khi chia tài sản chung nếu không có thỏa thuận là tài
sản riêng của vợ chồng" [18, Điều 8].
Như vậy, sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, tài sản chia cho ai thuộc quyền sở hữu riêng của bên đó, nếu không có
thỏa thuận khác thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác là tài sản
riêng của vợ, chồng.
- Tài sản riêng của vợ chồng còn có đồ dùng, tư trang cá nhân.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 32 của LHN&GĐ năm 2000, tài sản
riêng của vợ chồng còn bao gồm "đồ dùng, tư trang cá nhân". Đây là một quy
định mới của LHN&GĐ năm 2000, quy định này là phù hợp với thực tiễn,
Formatted: Vietnamese (Vietnam)

24
nhằm bảo đảm quyền tự do cá nhân và cuộc sống riêng tư của vợ, chồng. Tuy
nhiên, từ khi LHN&GĐ năm 2000 có hiệu lực đến nay, chưa có văn bản nào
của cơ quan có thẩm quyền giải thích cụ thể về "đồ dùng", tư trang cá nhân".
Theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành

phố Hồ Chính Minh do tác giả Nguyễn Như Ý là chủ biên, "đồ dùng" được
giải thích là "vật để sử dụng trong sinh hoạt, hoạt động thường ngày, thường
do con người tạo ra" [69, tr. 540]; "tư trang" được giải thích là "đồ trang sức
của người con gái mang theo khi về nhà chồng" và "các thứ đồ đạc cần thiết
mang theo của một cá nhân" [69, tr. 1704].
Trước đây, tại Điểm b, Mục 3, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có quy định:
Đối với đồ trang sức mà người vợ người chồng được cha mẹ
vợ hoặc chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng,
nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất
là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung. Khi
chia tài sản chung, những trang sức có giá trị không lớn so với tài
sản chung thì chia cho người đang sử dụng [57].
Tuy nhiên, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP nêu trên cũng chỉ dừng lại ở
việc hướng dẫn về đồ trang sức, hiểu thế nào là "đồ dùng, tư trang cá nhân"
thì vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Hiện nay, việc xác định đồ dùng, tư trang
cá nhân là tài sản riêng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm thì
cho rằng, "đồ dùng tư trang cá nhân dù mua sắm bằng tài sản chung hay tài
sản riêng của vợ, chồng đều là tài sản riêng của vợ, chồng bất luận đồ dùng,
tư trang cá nhân đó có giá trị hay không" [31, tr. 214]. Tuy nhiên, có quan
điểm khác thì cho rằng "đồ dùng, tư trang cá nhân mà vợ, chồng có được từ
tài sản riêng mới thuộc tài sản riêng của vợ, chồng" [31, tr. 214].
Cho đến nay, hiểu thế nào là đồ dùng, tư trang cá nhân vẫn chưa được
cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể, vì vậy, CCV sẽ gặp lúng túng trong

25
giải quyết yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng có liên
quan đến những tài sản mà người yêu cầu công chứng cho rằng là "đồ dùng,
tư trang cá nhân".
 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng.

Với tư cách là chủ sở hữu tài sản, vợ, chồng có toàn quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản riêng thuộc quyền sở hữu của mình, không phụ
thuộc vào ý chí của bên kia. Tuy nhiên, "trong trường hợp tài sản riêng của
vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản
riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng
đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng" [46, Điều 33]. Đây là quy định
mới của LHN&GĐ năm 2000, quy định hoàn toàn phù hợp với đặc thù của
quan hệ hôn nhân và gia đình, bởi lẽ vợ, chồng đều phải có trách nhiệm bảo
đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình, khi gia đình gặp khó khăn thì vợ
chồng phải nỗ lực hết sức có thể, kể cả dùng tài sản riêng để đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển của gia đình. Nhằm nâng cao trách nhiệm của vợ, chồng
trong việc đảm bảo các các nhu cầu thiết yếu của gia đình, Điều 25 của
LHN&GĐ năm 2000 quy định: "Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên
đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình" [46].
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 32 của LHN&GĐ năm 2000: "Vợ, chồng
còn có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung" [46].
Việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng phục thuộc vào ý chí của chủ sở hữu
tài sản, do vậy, vợ, chồng bằng ý chí của mình có thể nhập tài sản riêng của
mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi nhập tài sản riêng vàoới
khối tài sản chung, tài sản thỏa thuận nhập trở thành tài sản chung của vợ
chồng. Việc định đoạt tài sản này phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng của mình hoặc có thể ủy quyền cho
vợ, chồng của mình quản lý. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng vợ, chồng chỉ được
Formatted: Vietnamese (Vietnam)

26
quản lý hộ tài sản của nhau chứ không có quyền xác lập quyền sở hữu hay
định đoạt tài sản riêng của bên kia (nếu không được vợ hoặc chồng ủy quyền).
Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản

riêng của người đó. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng phát sinh từ những
mục đích cá nhân của một bên mà không vì lợi ích chung của gia đình như bồi
thường thiệt hại do hành vi vi pháp luật gây ra, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
riêng… thì vợ, chồng phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện. Quy định
này nhằm mục đích bảo toàn cho khối tài sản chung của vợ chồng, không làm
ảnh hưởng đến lợi ích của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình.
Như vậy, về nguyên tắc, vợ, chồng với tư cách là các chủ sở hữu độc
lập đối với tài sản riêng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản
riêng của mình không phụ thuộc vào ý chí của người khác, kể cả vợ hoặc
chồng của mình. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia
đình, quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng trong một số trường
hợp có thể bị hạn chế nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển của gia đình. Khi tài sản chung của vợ chồng có thể đảm bảo các
nhu cầu thiết yếu của gia đình thì quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản
riêng sẽ không bị hạn chế, khi đó vợ, chồng có toàn quyền định đoạt tài sản
theo hình thức phù hợp với quy định của pháp luật mà không cần sự đồng ý
của bên còn lại.
1.1.2. Mối quan hệ giữa các quy định về quyền sở hữu tài sản của
vợ chồng và việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng
- Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một chế định trong pháp luật
về hôn nhân và gia đình được xây dựng từ các điều kiện kinh tế - xã hội và
truyền thống của gia đình Việt Nam. Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định
các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng, đồng thời quy định các biện
pháp để bảo đảm cho các quyền của vợ, chồng được thực hiện. Một trong các

×