Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo " Những khía cạnh pháp lý cơ bản của giao dịch bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.75 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
54 - Tạp chí luật học





Nguyễn Tuyến *
ảo lnh bằng tài sản nói chung và bảo
lnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn
ngân hàng nói riêng là giao dịch hợp đồng
đợc thiết lập giữa pháp nhân, thể nhân
(đóng vai trò là ngời bảo lnh) với bên có
quyền về việc ngời bảo lnh cam kết sẽ
dùng các tài sản của mình để thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu đến hạn
ngời này không thực hiện đợc nghĩa vụ
của họ đối với bên có quyền. Trong thực tiễn
hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thơng mại, giao dịch cho vay có điều kiện
bảo lnh bằng tài sản của ngời thứ ba đợc
xem là nghiệp vụ cho vay khá phổ biến, bởi
tính chặt chẽ trong thủ tục vay vốn và độ an
toàn cao về phơng diện kinh tế của nghiệp
vụ tín dụng này.
Bài viết này xin đề cập những khía cạnh
pháp lí cơ bản của giao dịch bảo lnh bằng
tài sản vay vốn ngân hàng với mong muốn
góp phần làm sáng tỏ hơn về phơng diện lí


luận đối với hợp đồng bảo lnh, trên cơ sở đó
tạo tiền đề lí thuyết cho hoạt động thực tiễn
của các ngân hàng thơng mại đợc an toàn
hơn và hiệu quả hơn trong điều kiện nền kinh
tế thị trờng hiện nay.
1. Bản chất pháp lí của hành vi bảo
lãnh bằng tài sản: Dân sự hay thơng
mại?
Câu trả lời ở đây là: Có những hành vi
bảo lnh chỉ thuần tuý là dân sự và cũng có
những hành vi bảo lnh đợc coi là hành vi
thơng mại.
Bảo lnh nói chung và bảo lnh bằng tài
sản nói riêng khi mới xuất hiện trong đời
sống, vốn dĩ là hành vi dân sự thuần tuý, bởi
lẽ khi lập văn bản bảo lnh thì ngời bảo
lnh đ tự nguyện ràng buộc mình với những
quyền và nghĩa vụ pháp lí nhất định, không
vì mục tiêu lợi nhuận nào cả. Mặt khác, hành
vi bảo lnh thuần tuý thông thờng không
bắt buộc phải có dấu hiệu hoàn trái, nghĩa là
ngời bảo lnh, với t cách là chủ nợ mới
của ngời đợc bảo lnh, có toàn quyền
quyết định việc truy đòi món nợ hay không
đối với ngời đợc bảo lnh, sau khi mình đ
thực hiện nghĩa vụ thay cho ngời đợc bảo
lnh. Ngoài ra, hành vi bảo lnh thuần tuý
thờng có tính nhất thời, không mang tính
chất chuyên nghiệp và cũng do không nhằm
mục đích rõ ràng là thu lợi nhuận nh những

hành vi thơng mại nên loại hành vi này
không phải đăng kí kinh doanh với cơ quan
có thẩm quyền của Nhà nớc. Tất cả những
hành vi bảo lnh thuần tuý không có tính
chuyên nghiệp và không nhằm mục đích
kiếm lời đều phải đợc xem là những hành vi
dân sự (phi thơng mại).
Tuy nhiên, theo đà phát triển của nền
thơng mại và kĩ nghệ, một số chủ thể kinh
doanh, đặc biệt là các ngân hàng đ bắt đầu
thực hiện thờng xuyên hoạt động bảo lnh
cho khách hàng để thu phí bảo lnh. Loại
hành vi bảo lnh này dần dần có tính chất
chuyên nghiệp và trở thành loại hình dịch vụ
đặc biệt có khả năng sinh lời cho ngời thực
hiện chúng. Vì thế, những hành vi bảo lnh
có tính chuyên nghiệp với mục đích rõ ràng
là thu lợi nhuận nh vậy đ mặc nhiên trở
thành những hành vi thơng mại và cần phải
B

* Giảng viên Khoa pháp luật kinh tế
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 55

đợc Nhà nớc đối xử nh hành vi thơng
mại.

Nh vậy, trong bối cảnh của nền kinh tế
thị trờng hiện đại, chỉ những hành vi bảo
lnh có tính chất chuyên nghiệp của các
ngân hàng (hay các tổ chức khác đợc phép
thực hiện các hoạt động ngân hàng) với mục
tiêu kiếm lời (dạng hoạt động bảo lnh đặc
thù này đợc gọi là nghiệp vụ bảo lnh ngân
hàng) mới đợc coi là hành vi thơng mại.
Còn sự bảo lnh thuần tuý của tổ chức, cá
nhân cho nghĩa vụ tài sản của ngời khác
phát sinh trong hoặc ngoài hợp đồng, không
phải là chuyên nghiệp và không có mục tiêu
kiếm lời thì cần phải đợc nhìn nhận nh là
những hành vi dân sự.
Việc xác định đúng bản chất pháp lí của
hành vi bảo lnh là dân sự hay thơng mại sẽ
có ý nghĩa, tác dụng rất lớn trong việc xác
định thẩm quyền và thủ tục giải quyết những
tranh chấp liên quan đến hành vi đó.
2. Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản
trong quan hệ vay vốn ngân hàng là giao
dịch hai bên hay ba bên?
Đây là vấn đề vẫn còn đang tranh luận
trong giới luật gia. Tuy nhiên, theo dự liệu
tại Điều 366 Bộ luật dân sự Việt Nam thì
"bảo lnh là việc ngời thứ ba (gọi là ngời
bảo lnh) cam kết với bên có quyền (gọi là
ngời nhận bảo lnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là ngời đợc
bảo lnh) nếu khi đến thời hạn mà ngời

đợc bảo lnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ".
Theo đó, bảo lnh thực chất là giao dịch
hợp đồng phát sinh giữa ngời bảo lnh với
ngời nhận bảo lnh (hợp đồng song
phơng) chứ không hề có sự tham gia của bất
kì ngời thứ ba nào, cho dù trong hoàn cảnh
này ngời đi vay (ngời đợc bảo lnh) có
những quyền lợi liên quan đến sự bảo lnh.
Tuy nhiên, với cách nhìn khác, một số ý kiến
lại cho rằng giao dịch bảo lnh bằng tài sản
nói chung và giao dịch bảo lnh bằng tài sản
trong quan hệ vay vốn ngân hàng nói riêng là
loại hình giao dịch ba bên, trong đó ngời
đợc bảo lnh cũng là chủ thể của hợp đồng
bảo lnh. ý kiến này xuất phát từ lập luận
cho rằng hợp đồng bảo lnh chẳng qua là
một hợp đồng phụ bổ sung cho hợp đồng
chính và hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu lực
của hợp đồng chính. Do vậy, chủ thể tham
gia hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng) cũng
đơng nhiên là chủ thể của hợp đồng phụ
(hợp đồng bảo lnh).
Theo ý kiến của chúng tôi, quan điểm
cho rằng hợp đồng bảo lnh bằng tài sản
thuộc loại hợp đồng ba bên là không có cơ sở
khoa học. Bởi lẽ, theo logic thông thờng,
nếu ngời đủ năng lực chủ thể đồng ý đem
tài sản của mình để trả nợ thay cho ngời
khác với mục đích trong sáng và hợp pháp,

trên cơ sở sự chấp thuận của bên có quyền
thì mặc nhiên sự cam kết này đ phát sinh
hiệu lực pháp lí và có giá trị ràng buộc đối
với các bên cam kết. Trong trờng hợp này,
việc bên có nghĩa vụ (ngời đợc bảo lnh)
có đồng ý và chấp nhận sự bảo lnh đó hay
không cũng không hề làm giảm sút giá trị
pháp lí của sự bảo lnh. Sai lầm của quan
niệm coi hợp đồng bảo lnh là giao dịch ba
bên chính là ở chỗ họ chỉ nhìn thấy tính chất
phụ thuộc về hiệu lực của hợp đồng bảo lnh
vào hiệu lực của hợp đồng chính mà không
nhìn thấy tính độc lập tơng đối của bản thân
hợp đồng bảo lnh so với hợp đồng chính.
Điều đó đ dẫn đến sự suy đoán rằng chủ thể
của hợp đồng bảo lnh không thể nào thiếu
ngời đợc bảo lnh. Cách suy luận này đ
thể hiện sự nhận thức không chính xác về vị
trí và t cách pháp lí của ngời đợc bảo
lnh trong quan hệ hợp đồng bảo lnh, vốn dĩ
ngời này chỉ đóng vai trò là ngời thứ ba có
quyền lợi liên quan đến sự bảo lnh.
Vấn đề đặt ra ở đây là mặc dù ngời
đợc bảo lnh không phải là chủ thể của hợp
đồng bảo lnh nhng liệu rằng ý chí của họ
có ảnh hởng đến hiệu lực của hợp đồng bảo


nghiên cứu - trao đổi
56 - Tạp chí luật học


lnh hay không? Theo ý kiến của chúng tôi,
việc pháp luật quy định ngời đợc bảo lnh
không phải là chủ thể hợp đồng bảo lnh là
hoàn toàn hợp lí và có cơ sở khoa học nhng
rõ ràng ý chí và hành động của ngời đợc
bảo lnh có thể gây ra những ảnh hởng nhất
định đối với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng bảo lnh. Thật
vậy, về nguyên tắc nếu ngời đợc bảo lnh
không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối
với bên có quyền (ngời nhận bảo lnh) thì
khi đó ngời bảo lnh sẽ phải đứng ra thực
hiện nghĩa vụ thay cho ngời đợc bảo lnh.
Ngợc lại, nếu ngời đợc bảo lnh đ hoàn
tất nghĩa vụ của họ đối với bên có quyền thì
mặc nhiên nghĩa vụ của ngời bảo lnh phát
sinh theo hợp đồng bảo lnh cũng chấm dứt.
Tuy nhiên, cũng cần phải lu ý rằng sự bảo
lnh trong dân luật nói chung cũng nh trong
nghiệp vụ bảo lnh của ngân hàng thơng
mại nói riêng, nếu ý chí của ngời đợc bảo
lnh có thay đổi làm cho nội dung thực chất
của nghĩa vụ đợc bảo lnh cũng thay đổi thì
về nguyên tắc không thể đơng nhiên và tự
động làm cho nghĩa vụ của ngời bảo lnh
thay đổi theo, trừ khi có sự đồng ý của ngời
này.
Ví dụ: A cam kết bảo lnh cho B vay tiền
của Ngân hàng C, với mục đích sử dụng vốn

vay vào việc đầu t dây chuyền sản xuất dép
nhựa. Sau khi nhận đợc tiền vay, do điều
kiện và thời cơ kinh doanh bị thay đổi, B
thoả thuận lại với Ngân hàng C về mục đích
sử dụng vốn vay và đợc Ngân hàng C đồng
ý cho chuyển mục đích sử dụng vốn vay sang
lĩnh vực kinh doanh hàng may mặc, kèm
theo thoả thuận về việc điều chỉnh tăng li
suất tiền vay cho phù hợp với tình hình mới.
Với thoả thuận này giữa B với Ngân hàng C,
rõ ràng nội dung nghĩa vụ đợc bảo lnh đ
có sự thay đổi nhng không vì thế mà nội
dung nghĩa vụ bảo lnh của A đối với Ngân
hàng C đơng nhiên thay đổi theo, trừ khi có
bằng cớ chứng minh rằng A đ chấp nhận
bảo lnh cho tình trạng mới của nghĩa vụ
đợc bảo lnh.
Ví dụ trên đây một lần nữa khẳng định
và chứng minh rằng ngời đợc bảo lnh
thực tế không nhất thiết phải đóng vai trò là
chủ thể của hợp đồng bảo lnh và ý chí của
họ cũng không thể đơn phơng làm thay đổi
nội dung của hợp đồng bảo lnh.
3. Tình trạng liên đới giữa nghĩa vụ
bảo lãnh với nghĩa vụ đợc bảo lãnh
Trên phơng diện lí thuyết, nghĩa vụ của
ngời đợc bảo lnh đối với bên có quyền
(hay còn gọi là nghĩa vụ đợc bảo lnh) đóng
vai trò là nghĩa vụ chính còn nghĩa vụ của
ngời bảo lnh (hay nghĩa vụ bảo lnh) chỉ là

nghĩa vụ phụ. Tính chất chính, phụ của hai
loại nghĩa vụ này không chỉ thể hiện sự lệ
thuộc về phơng diện hiệu lực pháp lí của
nghĩa vụ bảo lnh vào nghĩa vụ đợc bảo
lnh mà còn phản ánh thứ tự thực hiện hai
loại nghĩa vụ này đối với bên có quyền. Nói
khác đi, để không đồng hoá tình trạng pháp
lí của ngời bảo lnh với tình trạng pháp lí
của ngời đợc bảo lnh (vốn dĩ hai ngời
này có vị trí khác nhau đối với trái chủ) thì
pháp luật cần phải xây dựng nguyên tắc là
nghĩa vụ đợc bảo lnh (nghĩa vụ chính) cần
phải đợc trái chủ yêu cầu thực hiện trớc
còn nghĩa vụ bảo lnh (nghĩa vụ phụ) sẽ
đợc trái chủ yêu cầu thực hiện sau.
Tuy nhiên, để phát huy vai trò tích cực
của sự bảo lnh trong việc bảo đảm quyền lợi
cho trái chủ là các ngân hàng, pháp luật cũng
cho phép các bên của hợp đồng bảo lnh
đợc quyền cam kết về tính liên đới của
nghĩa vụ bảo lnh đối với nghĩa vụ đợc bảo
lnh. Nghĩa là, tình trạng liên đới giữa nghĩa
vụ bảo lnh với nghĩa vụ đợc bảo lnh chỉ
tồn tại khi chính các bên đ ghi rõ trong văn
bản hợp đồng bảo lnh về tình trạng này. Với
điều khoản cam kết về tính liên đới, bên cho


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 57


vay có quyền yêu cầu đối với bất kì ai trong
số ngời vay và ngời bảo lnh phải trả toàn
bộ món nợ vào ngày hợp đồng tín dụng đáo
hạn. Nếu trong hợp đồng bảo lnh không có
điều khoản nào nói rõ về sự liên đới nghĩa vụ
thì về nguyên tắc, trái chủ trong hợp đồng tín
dụng (bên cho vay) chỉ có thể yêu cầu bên
vay phải thực hiện nghĩa vụ của họ trớc,
nếu bên vay không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ của họ thì bên cho vay
mới thực hiện quyền yêu cầu đối với ngời
bảo lnh.
Theo ý kiến của chúng tôi, việc xác định
tình trạng liên đới giữa hai loại nghĩa vụ này
theo hớng trên đây sẽ đáp ứng đợc hai yêu
cầu cơ bản:
- Một là, không đồng hoá tình trạng pháp
lí của ngời bảo lnh với tình trạng pháp lí
của ngời đợc bảo lnh mà vốn dĩ hai loại
chủ thể này có thân phận pháp lí hoàn toàn
khác nhau trong mối quan hệ với trái chủ là
bên cho vay trong hợp đồng tín dụng. Thật
vậy, nếu ngời đợc bảo lnh - bên đi vay có
vị trí là con nợ của bên cho vay thì ngời bảo
lnh không phải là ngời thiếu nợ của bên
cho vay (ngân hàng) mà chỉ đơn thuần là
ngời cam kết sẽ dùng tài sản của mình để
bảo đảm nghĩa vụ cho ngời vay trong hợp
đồng tín dụng.

Việc không đồng hoá thân phận pháp lí
của ngời vay với ngời bảo lnh trong pháp
luật thực định không những có tác dụng củng
cố nhận thức lí luận khoa học về bản chất
pháp lí của sự bảo lnh cũng nh nguyên tắc
tự định đoạt trong chế định bảo lnh mà còn
góp phần định hớng, soi sáng cho thực tiễn
hoạt động tín dụng của các ngân hàng trong
nền kinh tế -x hội.
- Hai là, phát huy đợc vai trò tích cực
của biện pháp bảo lnh trong việc đảm bảo
quyền lợi cho trái chủ là bên cho vay trong
hợp đồng tín dụng mà vẫn đảm bảo tuân thủ
nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của
ngời bảo lnh trong việc giao kết hợp đồng
bảo lnh.
4. Tính độc lập tơng đối của hợp
đồng bảo lãnh và mối liên hệ tơng hỗ với
hợp đồng tín dụng
Về nguyên tắc, hợp đồng bảo lnh mặc
dù là hợp đồng phụ và bổ sung cho nội dung
của hợp đồng tín dụng (với ý nghĩa nh là
hợp đồng chính) nhng bản thân hợp đồng
bảo lnh cũng có tính độc lập tơng đối
trong mối quan hệ với hợp đồng tín dụng
đồng thời có tác động tơng hỗ với hợp đồng
tín dụng.
Tính độc lập tơng đối của hợp đồng bảo
lnh, xét trong mối quan hệ với hợp đồng tín
dụng đợc thể hiện trên những khía cạnh sau

đây:
- Một là, về phơng diện chủ thể, hợp
đồng bảo lnh đợc xác lập giữa bên bảo
lnh với bên nhận bảo lnh (ngời này có t
cách là bên cho vay trong hợp đồng tín
dụng). Còn hợp đồng tín dụng lại đợc xác
lập giữa bên cho vay với bên đi vay (ngời
này có t cách là bên nhận bảo lnh trong
hợp đồng bảo lnh).
Do sự khác nhau về cơ cấu thành phần
chủ thể giữa hợp đồng bảo lnh với hợp đồng
tín dụng (nghĩa là các chủ thể của hợp đồng
bảo lnh không đồng thời là chủ thể của hợp
đồng tín dụng) nên về lí thuyết có thể suy
luận rằng các chủ thể của hợp đồng bảo lnh
hoàn toàn có khả năng tự mình quyết định
việc xác lập hợp đồng bảo lnh hay không
mà không hề phụ thuộc vào ý chí của các
chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng. Điều
này thể hiện tính độc lập tơng đối của hợp
đồng bảo lnh trong mối quan hệ với hợp
đồng tín dụng.
- Hai là, về phơng diện nội dung, các
điều khoản của hợp đồng bảo lnh vay vốn
ngân hàng hoàn toàn do bên bảo lnh và bên


nghiên cứu - trao đổi
58 - Tạp chí luật học


nhận bảo lnh thoả thuận với nhau trên
nguyên tắc bình đẳng và tự do ý chí. Các
điều khoản này chỉ có thể đợc sửa đổi, bổ
sung hay huỷ bỏ bởi ý chí của chính các bên
giao kết hợp đồng bảo lnh chứ không thể là
chủ thể nào khác.
Ngoài ra, việc pháp luật Việt Nam quy
định hợp đồng bảo lnh trong quan hệ vay
vốn ngân hàng phải đợc các bên xác lập
bằng hình thức một văn bản riêng rẽ, tách
biệt hẳn với văn bản hợp đồng tín dụng
(1)

cũng phần nào phản ánh tính độc lập tơng
đối của hợp đồng bảo lnh trong mối quan hệ
với hợp đồng tín dụng.
Tuy nhiên, cũng cần phải lu ý rằng mặc
dù các điều khoản của hợp đồng bảo lnh là
do các bên giao kết hợp đồng bảo lnh tạo
lập ra để chính họ thực hiện nhng về
phơng diện hiệu lực pháp lí thì các điều
khoản của hợp đồng này lại phụ thuộc vào
hiệu lực pháp lí của các điều khoản đợc ghi
trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm này thể
hiện mối liên hệ pháp lí giữa hợp đồng bảo
lnh với hợp đồng tín dụng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành, mối liên hệ pháp lí giữa hợp đồng
bảo lnh với hợp đồng tín dụng đợc thể hiện
ở hai khía cạnh sau đây:

- Nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu thì
đơng nhiên làm cho hợp đồng bảo lnh bị
vô hiệu theo. Bởi lẽ, hợp đồng tín dụng đóng
vai trò là hợp đồng chính còn hợp đồng bảo
lnh chỉ có ý nghĩa nh là hợp đồng phụ và
do đó hiệu lực của hợp đồng bảo lnh đơng
nhiên phải phụ thuộc vào hiệu lực của hợp
đồng tín dụng. Quy tắc này trong pháp luật
thực định của Việt Nam không có ngoại lệ,
nghĩa là nếu ngời bảo lnh đa ra đợc
bằng chứng về sự vô hiệu của hợp đồng tín
dụng thì do đó họ có lí do để thuyết phục tòa
án chấp nhận cho họ đợc giải thoát khỏi
tình trạng là ngời bảo lnh.
- Nếu hợp đồng bảo lnh vô hiệu thì chỉ
có thể khiến cho hợp đồng tín dụng bị vô
hiệu theo khi các bên trong hợp đồng tín
dụng có thoả thuận hoặc pháp luật có quy
định rằng sự bảo lnh là điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng tín dụng.
Tuy nhiên, theo ý kiến của chúng tôi,
quy tắc này vẫn có ngoại lệ thể hiện ở chỗ
trong trờng hợp các bên tham gia hợp đồng
tín dụng có thoả thuận coi sự bảo lnh là
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
nhng nếu có bằng chứng chứng minh rằng
bên cho vay đ biết trớc sự vô hiệu của hợp
đồng bảo lnh mà vẫn kí kết hợp đồng tín
dụng với bên vay thì hợp đồng tín dụng
không vì thế mà bị coi là vô hiệu.

Ví dụ: Ngày 25/3/2000, Ngân hàng A kí
hợp đồng tín dụng cho doanh nghiệp B vay
tiền, với điều kiện doanh nghiệp B phải có sự
bảo lnh bằng tài sản của ngời thứ ba. Để
vay đợc tiền của Ngân hàng A, doanh
nghiệp B yêu cầu chi nhánh Ngân hàng C tại
địa phơng nơi doanh nghiệp B đóng trụ sở
đứng ra bảo lnh và đợc chi nhánh ngân
hàng này chấp nhận bằng giấy bảo lnh có
chữ kí của ngời đại diện chi nhánh Ngân
hàng C là ông trởng phòng tín dụng (ngoài
giấy bảo lnh này, không hề có bất cứ giấy tờ
nào thể hiện sự uỷ quyền hợp lệ đợc gửi
kèm theo). Ngân hàng A đ kí hợp đồng tín
dụng cho doanh nghiệp B vay tiền với tình
trạng giấy bảo lnh nh trên.
Với tình huống này, theo ý kiến của
chúng tôi, cần phải cho rằng hợp đồng bảo
lnh vô hiệu vì ngời kí hợp đồng bảo lnh
không có thẩm quyền đại diện cho Ngân
hàng C, tuy nhiên hợp đồng tín dụng giữa
Ngân hàng A và doanh nghiệp B không vì
thế mà vô hiệu, bởi lẽ, trong trờng hợp này
Ngân hàng A đ có khả năng biết trớc sự vô
hiệu của hợp đồng bảo lnh mà vẫn đồng ý
cho vay đối với doang nghiệp B thì điều kiện
để cho vay (phải có sự bảo lnh của ngời
thứ ba) do ngân hàng này đa ra sẽ mặc



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 59

nhiên bị coi là huỷ bỏ bởi chính họ. Do đó,
hợp đồng tín dụng trong trờng hợp này vẫn
có hiệu lực và trở thành hợp đồng tín dụng
không có bảo đảm bằng tài sản.
5. Vấn đề thời hạn sử dụng vốn vay và
thời hạn bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ tiền vay
trong hợp đồng tín dụng
Trên phơng diện khoa học pháp lí ngân
hàng, cần phải thừa nhận rằng khái niệm thời
hạn sử dụng vốn vay và khái niệm thời hạn
bảo lnh nghĩa vụ trả nợ tiền vay là hoàn
toàn khác nhau nhng có mối liên hệ với
nhau.
Nếu thời hạn sử dụng vốn vay là khoảng
thời gian do các bên thoả thuận, theo đó bên
vay có quyền chiếm hữu và khai thác giá trị
sử dụng của tài sản vay (vốn vay bằng tiền)
vào mục đích đ đợc ghi trong hợp đồng tín
dụng thì thời hạn bảo lnh nghĩa vụ trả nợ
tiền vay lại đợc hiểu là khoảng thời gian
theo đó ngời bảo lnh cam kết sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho ngời đợc bảo lnh (bên
vay) theo điều kiện đ đợc ghi trong hợp
đồng bảo lnh.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là thời hạn
sử dụng vốn vay có đồng nghĩa với thời hạn
có hiệu lực của hợp đồng vay (hợp đồng tín

dụng) hay không và thời hạn bảo lnh có
đồng nghĩa với thời hạn có hiệu lực của hợp
đồng bảo lnh?
Theo ý kiến của chúng tôi, về thời hạn sử
dụng vốn vay, cần phải thấy rằng khi kết
thúc thời hạn này thì quyền và nghĩa vụ pháp
lí của các bên trong hợp đồng tín dụng cha
thực hiện xong, do đó hợp đồng tín dụng
cha thể coi là chấm dứt hiệu lực vào thời
điểm thời hạn sử dụng vốn vay kết thúc. Còn
về thời hạn bảo lnh nghĩa vụ trả nợ tiền vay
thì lại khác, cần phải hiểu rằng mục đích của
bảo lnh tiền vay là vì quyền lợi của chủ nợ
(bên cho vay) nên thời hạn bảo lnh phải là
khoảng thời gian tồn tại nghĩa vụ đợc bảo
lnh (điều này đúng cả trong trờng hợp hợp
đồng tín dụng có hiệu lực trớc và hợp đồng
bảo lnh có hiệu lực sau). Chừng nào nghĩa
vụ đợc bảo lnh còn tồn tại thì chừng đó
thời hạn bảo lnh cha thể coi là kết thúc.
Nh vậy, nếu thời hạn sử dụng vốn vay hoàn
toàn do các bên thoả thuận và hoàn toàn có
thể ấn định trớc đợc tại thời điểm kí kết
hợp đồng tín dụng thì thời hạn bảo lnh
nghĩa vụ trả nợ tiền vay, mặc dù cũng do các
bên thoả thuận nhng thời hạn này không thể
nào ấn định trớc đợc, do các bên không
thể biết trớc khi nào thì nghĩa vụ trả nợ tiền
vay sẽ đợc thực hiện xong bởi ngời vay
hay ngời bảo lnh. Điều này cho thấy rằng

trong thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng có điều kiện bảo lnh, ngời
bảo lnh không thể dựa vào lí do thời hạn sử
dụng vốn vay đ kết thúc và từ đó suy luận
rằng thời hạn bảo lnh cũng kết thúc để từ
chối nghĩa vụ trả nợ thay với t cách ngời
bảo lnh. Rõ ràng, khoảng thời gian sử dụng
vốn vay và khoảng thời gian bảo lnh nghĩa
vụ trả nợ tiền vay thờng có khoảng cách
khá xa và rất khó ớc định trớc.
Tóm lại, với sự phân tích trên đây về các
khía cạnh pháp lí của giao dịch bảo lnh
bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân
hàng, có thể nhận xét rằng bảo lnh bằng tài
sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng là loại
hình giao dịch rất phức tạp và đa dạng trong
thực tiễn hoạt động tín dụng. Chỉ khi nào
nhận thức đúng bản chất và các đặc trng
pháp lí của loại hình giao dịch bảo đảm đặc
biệt này thì các luật s, thẩm phán hay những
ngời hành nghề t vấn pháp luật mới có thể
đa ra đợc những phơng án, đờng lối giải
quyết thoả đáng các vụ kiện về hợp đồng tín
dụng có điều kiện bảo lnh bằng tài sản./.

(1).Xem: Điểm 6, Thông t số 06/2000/TT-NHNN1
ngày 4/4/2000 của Ngân hàng Nhà nớc về việc
hớng dẫn thực hiện Nghị định số 178/1999/NĐ-CP
ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức
tín dụng.

×