Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






ĐÀO DUY VƯƠNG




THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 38 30







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Hà Nội – 2007

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM
1.1. Khái niệm thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự
1.2. Tính chất của thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
1.3. Ý nghĩa của phúc thẩm dân sự
1.4. Đối tượng của xét xử phúc thẩm dân sự
1.5. Phạm vi xét xử phúc thẩm
1.6. Sự tham gia của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp phúc thẩm
1.7. Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
1.7.1. Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm
1.7.2. Sửa bản án sơ thẩm
1.7.3. Hủy bản án bản án, quyết định sơ thẩm
Chương 2:PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Căn cứ làm phát sinh thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc
thẩm
2.1.1. Người có quyền kháng cáo
2.1.2. Kháng nghị của Viện kiểm sát các cấp
2.2. Đối tượng của xét xử phúc thẩm
2.3. Vấn đề cung cấp chứng cứ
2.4. Phạm vi xét xử phúc thẩm
2.5. Về sự tham gia của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp phúc thẩm
2.6. Thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm
2.6.1. Thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm khi có các sự kiện phát sinh trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
2.6.2. Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm khi có các tình tiết phát sinh tại
phiên tòa phúc thẩm
2.6.3. Thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm khi có căn cứ để giữ nguyên, sửa, hủy
bản án, quyết định sơ thẩm
Chương 3 : NHU CẦU, NỘI DUNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC

GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM
3.1. Nhu cầu hoàn thiện về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc
thẩm
3.2. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế
3.2.1. Các nguyên nhân khách quan
3.2.2. Các nguyên nhân chủ quan
3.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm
3.3.1. Phương hướng chung
3.3.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án
cấp phúc thẩm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO






1
Đề tài: "Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm theo
pháp luật Việt Nam"

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Tòa án nhân danh Nhà
nước ra các phán quyết bảo đảm cho quyền, lợi ích của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức và lợi ích của nhà nước. Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án
có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập

thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành
với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của
cuộc sống xã hội , ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác [12, tr 8].
Cũng như phần lớn các nước trên thế giới, nhất là các nước theo truyền
thống luật dân sự, tố tụng Tòa án tại nước ta được chia thành nhiều thủ tục
khác nhau như: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc hoặc tái thẩm. mỗi thủ tục có
mục đích, ý nghĩa khác nhau và do vậy, có tính chất khác nhau. Thủ tục phúc
thẩm, theo cách hiểu chung nhất “là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại
vụ án mà bản án quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị". Thủ tục phúc thẩm có ý nghĩa, vai trò
quan trọng, tạo điều kiện để Tòa án cấp trên xem xét, kiểm tra lại bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, nhằm kịp thời phát hiện và khắc phục
những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ sự công bằng,
nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền lợi ích của Nhà nước, của công
dân. Thủ tục phúc thẩm còn quan trọng ở chỗ, theo nguyên tắc cơ bản của


2
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam là thực hiện chế độ 2 cấp xét xử, bản án,
quyết định của Tòa án sơ thẩm thì có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử
phúc thẩm, còn bản án, quyết định án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật
ngay kể từ ngày tuyên án. Chỉ khi bản án quyết định của Tòa án cấp phúc
thẩm có vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc có tình tiết mới làm thay đổi
bản chất của vụ án thì mới được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp
quyền, cải cách hệ thống tư pháp trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế,
Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam tại kỳ họp thứ 5

từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6 năm 2004 đã thông qua Bộ luật tố
tụng dân sự và có hiệu lực từ ngày 01/01/2005. Đây là hành lang pháp lý cơ
bản, quan trọng bảo đảm cho Tòa án giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu về
dân sự, là cơ sở cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện các quyền tố tụng
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. So với các văn bản pháp luật tố
tụng dân sự trước kia thì Bộ luật tố tụng dân sự là những quy định hoàn thiện
nhất, đầy đủ nhất của pháp luật tố tụng dân sự nước ta về thủ tục phúc thẩm
dân sự, bảo đảm tính thống nhất, tính đồng bộ trong việc giải quyết các vụ án
dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự trong một vài
năm qua cho thấy còn nhiều điều bất cập, nhiều vấn đề lý luận của thủ tục giải
quyết các vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm chưa được làm rõ, tính chất của việc
xét xử phúc thẩm chưa được nhận thức một cách đầy đủ, các quy định của Bộ
luật về căn cứ phát sinh thủ tục phúc thẩm, đối tượng của xét xử phúc thẩm,
vấn đề cung cấp chứng cứ, phạm vi của xét xử phúc thẩm hay quyền hạn của
Tòa án cấp phúc thẩm chưa được cụ thể còn nhiều bất cập, dẫn đến tình
trạng vi phạm về thời hạn xét xử, tỷ lệ các bản án, quyết định phúc thẩm bị
hủy theo thủ tục giám đốc, tái thẩm còn nhiều làm giảm sút lòng tin của quần


3
chúng nhân dân đối với hệ thống Tòa án nói riêng và các cơ quan tư pháp nói
chung.
Chính vì vậy, tại Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới”; Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định
hướng 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
“về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đều nhấn mạnh việc hoàn
thiện pháp luật tố tụng, bảo đảm các phiên tòa diễn ra thực sự dân chủ,
nghiêm minh, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân.

Trong phạm vi chương trình đào tạo cao học Luật, Tôi chọn đề tài
"Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật
Việt Nam" để làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án phúc thẩm là giai đoạn tố
tụng được quy định trong các văn bản về tố tụng dân sự có ở các thời kỳ trước
đây và đã có một số công trình nghiên cứu giải quyết một số vấn đề về xét xử
phúc thẩm như trong đề tài khoa học cấp bộ về "Vấn đề tổ chức phiên tòa và
việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa của Tòa án
nhân dân", mã số 47 - 98/043/ĐT của TANDTC do TS Nguyễn Văn Hiện
(nguyên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) làm chủ nhiệm đề tài. Báo cáo
phúc trình của đề tài đã đề cập đến vấn đề tổ chức phiên tòa phúc thẩm,
nhưng đề tài chỉ đi sâu về nghiên cứu những vấn đề liên quan đến cơ sở lý
luận thực tiễn và yêu cầu sửa đổi bổ sung hình thức tổ chức phiên tòa nói
chung (bao gồm cả phiên tòa hình sự, dân sự, kinh tế, lao động hành chính) và
vấn đề thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa như thế nào
là đúng và đạt hiệu quả cao nhất [36, tr 9]. Ngoài ra, còn có luận văn tốt


4
nghiệp cử nhân luật của Lưu Xuân Thủy với đề tài "Thủ tục phúc thẩm dân sự
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam". Tuy nhiên, luận văn này chỉ nghiên
cứu các quy định của thủ tục phúc thẩm dân sự theo quy định của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Từ khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự
đến nay, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về
thủ tục xét xử phúc thẩm theo Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành. Do có nhiều khó khăn trong thu thập tài liệu, trong việc tiếp cận,
phân tích, đánh giá pháp luật nước ngoài nên trong luận văn, tùy từng vấn đề
chúng tôi chỉ sử dụng pháp luật nước ngoài mà cụ thể là Bộ luật tố tụng dân
sự của một số nước như: BLTTDS của nước Cộng hoà Pháp, BLTTDS của

Liên bang Nga, Luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
Luật tố tụng dân sự của Nhật Bản, Thái Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển hay Đài
Loan, chỉ mang tính chất so sánh, thông tin khoa học, để từ đó đưa ra quan
điểm nghiên cứu trong từng lĩnh vực.
3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề về lý luận và
thực tiễn của thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa phúc thẩm theo tố tụng
dân sự Việt Nam. Qua đó, làm rõ được tính chất của xét xử phúc thẩm, những
quy định phù hợp, những cơ chế còn bất cập và đề xuất những nội dung,
những vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định này.
Do giới hạn của một luận văn thạc sĩ luật học, luận văn này không đi
sâu tìm hiểu các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục thụ lý, chuẩn
bị xét xử, thủ tục xét xử tại phiên tòa hay quyền hạn của Tòa án, Hội đồng
xét xử phúc thẩm như quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự mà chỉ đi sâu tìm
hiểu, làm rõ một số vấn đề có tính chất cơ bản, cốt lõi và còn có những hạn
chế, bất cập cả trên phương diện điều chỉnh pháp luật và áp dụng pháp luật
của thủ tục phúc thẩm dân sự như: khái niệm, tính chất của thủ tục giải quyết


5
vụ án dân sự tại Tòa phúc thẩm, các căn cứ phát sinh thủ tục phúc thẩm,
quyền kháng cáo, kháng nghị, đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm, vấn đề cung cấp chứng cứ, vấn đề phạm vi của việc xét xử phúc thẩm,
thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm…
Về thời gian tham khảo số liệu thực tiễn, luận văn chủ yếu sử dụng số
liệu và tư liệu của ba năm, từ năm 2004 (năm Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu
lực thi hành) đến năm 2006.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học
Khi nghiên cứu luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan

điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới, xây dựng đất
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và vấn đề cải cách tư pháp, xây dựng Nhà
nước pháp quyền.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là đi từ lý luận đến thực tiễn,
dùng thực tiễn kiểm chứng lý luận. Các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng
hợp và phương pháp thống kê cũng được sử dụng để hoàn thành luận văn.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Ngoài ý nghĩa là một công trình nghiên cứu của riêng bản thân về thủ
tục xét xử phúc thẩm để hoàn thành chương trình học tập và báo cáo tốt
nghiệp lớp cao học luật dân sự khóa X, của Khoa Luật trường Đại học Quốc
gia Hà Nội. Qua việc làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng của thủ tục xét xử
phúc thẩm dân sự, phạm vi, thẩm quyền của Tòa án sơ thẩm, các cơ chế về
cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời tại giai đoạn phúc thẩm. Thông qua việc nghiên cứu, so sánh


6
pháp luật về xét xử phúc thẩm dân sự một số nước trên thế giới để từ đó đưa
ra những đề xuất, kiến nghị nhằm mục đích xây dựng, hoàn thiện pháp luật.
Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về thủ tục
phúc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam. Vì vậy, kết quả nghiên cứu trong
luận văn có thể được sử dụng như là một tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
khoa học luật và giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật.
Luận văn còn đi sâu phân tích những hạn chế, bất cập của pháp luật tố
tụng dân sự hiện hành về thủ tục phúc thẩm và đề xuất hướng hoàn thiện.
Những kết quả này có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật
tố tụng dân sự.
Kết quả nghiên cứu luận văn còn có thể được sử dung như là một tài
liệu tham khảo cho các thẩm phán, thư ký Tòa án… làm công tác xét xử phúc

thẩm dân sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung về thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp phúc thẩm
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp phúc thẩm và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Nhu cầu và nội dung hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự tại Toà án cấp phúc thẩm



7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM


1.1. Khái niệm thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự
Trong xã hội có giai cấp, để duy trì trật tự xã hội, Nhà nước thông qua
việc sử dụng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ
thống các cơ quan Nhà nước được thành lập ra để thi hành các nhiệm vụ cụ
thể nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Tòa án là một cơ quan đặc
biệt, thể hiện quyền lực của Nhà nước trong họat động tư pháp, là cơ quan
nhân danh Nhà nước. Qua hoạt động xét xử, ra các phán quyết để phân định
quyền, nghĩa vụ cho các bên tham gia trong vụ kiện. Trong lĩnh vực dân sự,
lợi ích như là tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự [56, tr 70], không có một cơ
quan phán xử công minh chắc chắn không thể giải quyết dứt điểm các mâu
thuẫn về lợi ích trong xã hội.

Việc giải quyết của Tòa án qua hai giai đoạn từ sơ thẩm và phúc thẩm.
Trong đó thủ tục phúc thẩm là thủ tục ảnh hưởng đến quyền, cũng như nghĩa
vụ của các bên tham gia trong vụ kiện nhiều nhất. Bởi quyết định phúc thẩm
đồng nghĩa với việc quyền, nghĩa vụ của các đương sự đã được phân định
rạch ròi, có ý nghĩa thực hiện trên thực tế. Bản án có hiệu lực là pháp luật và
có ý nghĩa bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng là các chủ thể có liên
quan.
Việc xét xử là một trong những phương thức thực hiện quyền lực Nhà
nước đã tồn tại từ xa xưa, từ thời kỳ Nhà nước Ai Cập Babilon cổ đại đến thời
kỳ La Mã Hy Lạp cổ đại rồi qua thời kỳ trung cổ Phục hưng. Dưới chế độ
chiến hữu nô nệ và phong kiến, họat động xét xử cũng như họat động lập
pháp và hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến mà đại


8
diện là nhà Vua, người có quyền lực cao nhất ở giai đoạn này, Tòa án chưa tổ
chức thành một hệ thống và chưa trở thành lĩnh vực hoạt động độc lập trong
bộ máy
Nhà nước [30, tr 80].
Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người dân được coi
là yêu cầu trung tâm của nội dung về Nhà nước pháp quyền [50, tr 216 - 217],
quyền tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực Nhà nước là quyền nhân danh
Nhà nước để ra các phán quyết nhằm khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân khi có sự vi
phạm. Chủ thể của hoạt động xét xử chỉ có thể là Tòa án. Xét xử là việc Tòa
án nhân danh Nhà nước xem xét đánh giá tính chất mức độ của hành vi vi
phạm pháp luật, xác định bản chất quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên
và ra các quyết định xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên.
Xét xử theo nghĩa khái quát là việc xem xét, và xử các vụ án, xét xử các
tội phạm, việc xét xử của Tòa án [26, tr 1148]. Như vậy, hiểu theo nghĩa

chung nhất hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động của các cơ quan và các
cá nhân được căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra
những quyết định pháp lý có tính bắt buộc [58, tr 144]. Việc xét xử của Tòa
án, tùy theo tính chất của thủ tục xét xử vụ án, mà có các thủ tục diễn ra tại
các cấp xét xử đó là xét xử sơ thẩm được diễn ra tại Tòa án cấp sơ thẩm, xét
xử phúc thẩm được diễn ra tại Toà án cấp phúc thẩm Mỗi thủ tục xét xử có
một đặc thù mang tính chất pháp lý khác nhau.
Phúc thẩm về mặt ngôn ngữ học là việc Tòa án cấp trên xét xử lại một
vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án [28, tr 790].
Theo Từ điển thuật ngữ luật học về dân sự, hôn nhân và gia đình và tố
tụng dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội thì phúc thẩm là việc Tòa án cấp


9
trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp
tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, sửa những sai lầm và vi phạm
của Tòa án sơ thẩm bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật [27, tr 378].
Theo Điều 242 Bộ luật tố tụng dân sự, phúc thẩm : ‘‘là việc Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị".
Như vậy, hiểu theo cách hiểu của ngôn ngữ hay quy định của luật thực
định thì khái niệm phúc thẩm cũng bao gồm ba yếu tố hợp thành:
- Là việc của Tòa án cấp trên trực tiếp;
- Xét lại bản án (hoặc xét xử lại vụ án);
- Bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Từ khái niệm phúc thẩm trên có thể đưa ra khái niệm thủ tục phúc
thẩm, theo đó, thủ tục phúc thẩm là thủ tục xem xét lại tính hợp pháp tính, có
căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị.
Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm là một giai

đoạn tố tụng độc lập, có những tính chất, đối tượng xét xử, có vai trò, ý nghĩa,
mục đích riêng, không giống với bất cứ thủ tục xét xử ở giai đoạn nào (sơ
thẩm hay giai đoạn xét lại bản án giám đốc thẩm, tái thẩm). Khái niệm phúc
thẩm dân sự là một khái niệm phức tạp bao gồm nhiều nội dung. Để tìm hiểu
được đầy đủ, toàn diện khái niệm phúc thẩm cần thiết phải làm rõ các nội
dung tiếp sau:
1.2. Tính chất của thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự


10
Tính chất là những nội dung quyết định đến các nội dung của các vấn
đề khác theo từ điển Tiếng Việt: tính chất là đặc điểm riêng của sự vật, hiện
tượng làm phân biệt nó với những sự vật, hiện tượng khác [28, tr 999].
Tính chất của xét xử phúc thẩm là việc cần phải làm rõ đầu tiên bởi nó
quyết định đến các vấn đề khác của việc xét xử phúc thẩm như phạm vi xét xử
phúc thẩm, vai trò, ý nghĩa của việc xét xử phúc thẩm. Làm rõ được tính chất
của việc xét xử từ đó sẽ làm cơ sở để xây dựng lên các cơ chế như xác định cụ
thể căn cứ phát sinh thủ tục phúc thẩm, đối tượng của xét xử phúc thẩm, phạm
vi xét xử phúc thẩm và quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm.
Thủ tục phúc thẩm dân sự là một giai đoạn tố tụng nhằm đảm bảo thực
hiện nguyên tắc xét xử hai cấp. Ở giai đoạn này, các đương sự người đại diện
của đương sự tổ chức xã hội khởi kiện Viện kiểm sát nhân dân có quyền
kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định dân sự để yêu cầu Tòa án cấp trên
trực tiếp xem xét lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Quyền kháng cáo của
đương sự là biểu hiện cụ thể quyền dân chủ công dân được pháp luật bảo vệ.
Do đó, dù bản án quyết định dân sự sơ thẩm được Tòa án coi là xét xử đúng,
nhưng nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp trên vẫn phải tiến hành
thủ tục phúc thẩm dân sự để kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của
bản án, quyết định sơ thẩm.
Từ trước đến nay hai cấp xét xử đã được pháp luật tố tụng dân sự Việt

Nam coi là nguyên tắc cơ bản. Trong các nguyên tắc hoạt động của Tòa án.
Từ ngay trong những văn bản đầu tiên của Nhà nước ta về tố tụng dân sự.
Trong Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về sự phân công giữa các
nhân viên trong Toà án đã quy định Toà án đệ nhị cấp có thẩm quyền phúc
thẩm đối với các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm. Toà án Thượng
thẩm có quyền chung thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án Đệ nhị
cấp. Tại Thông tư số 1459/HCTP của Bộ Tư pháp ngày 19/8/1955 nhấn


11
mạnh: ‘‘Nguyên tắc hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc tố tụng của
nhân dân cần phải được bảo đảm". Điều 9 Luật Tòa án nhân dân năm 1960
quy định "Tòa án nhân dân thực hành chế độ 2 cấp xét xử". Tại Công văn số
614/DS ngày 24/4/1963 của Tòa án nhân dân tối cao về việc vi phạm thủ tục
tố tụng có hướng dẫn "Một trong những nguyên tắc cơ bản của Tòa án là 2
cấp xét xử, đương sự có quyền chống bản án của Tòa án nhân dân xử sơ thẩm
lên Tòa án nhân dân trên một cấp, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên
một cấp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân’’ (Mục
III). Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 quy định rõ về chức năng của
Tòa án cấp phúc thẩm là: "xét xử lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự
sơ thẩm khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị’’.
Điều 17 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định:
"1. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do
Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án,
quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật".
2- Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ

tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của Bộ luật này’’.
Xuất phát từ nguyên tắc hai cấp xét xử nên tính chất của phúc thẩm dân
sự không có gì khác, đó chính là việc xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết
định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Tính chất của phúc thẩm dân sự được thể hiện rõ qua những nét đặc
trưng cơ bản của thủ tục phúc thẩm dân sự, qua đó cho thấy sự khác biệt về
tính chất của thủ tục phúc thẩm dân sự với các thủ tục tố tụng tại cấp sơ thẩm


12
hay các thủ tục tố tụng khác được Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết
các vụ án dân sự đó là các đặc trưng thể hiện qua:
+ Quyền kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát:
Kháng cáo là hoạt động tố tụng của đương sự và các chủ thể khác theo quy
định của pháp luật trong việc chống lại bản án, quyết định của Toà án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án dân
sự. Kháng nghị là hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát theo quy định của
pháp luật nhằm phản đối bản án, quyết định sơ thẩm, đề nghị Toà án có thẩm
quyền xem xét lại vụ án [25, tr 297]. Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự quy
định: "Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có
quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết
vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết
lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm". Điều 250 Bộ luật tố tụng dân sự quy
định: ‘‘Viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền
kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa
án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ
tục phúc thẩm’’. Về mặt nguyên tắc, sau khi ra bản án, quyết định thì bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn trong một thời
hạn nhất định. Đối với bản án là 15 ngày, đối với quyết định là 7 ngày kể từ
ngày tuyên án hoặc ngày nhận được quyết định. Các đương sự, Viện kiểm sát

cùng cấp có quyền kháng cáo, kháng nghị. Hoặc là 30 ngày đối với bản án, 10
ngày đối với quyết định thì Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có quyền kháng
nghị bản án, quyết định. Thông qua kháng cáo, kháng nghị họ thể hiện sự bất
đồng quan điểm của họ đối với bản án, quyết định của Toà án đồng thời đưa
ra những ý kiến, quan điểm, nguyện vọng của mình về việc giải quyết vụ án.
Khi có kháng cáo, kháng nghị việc xem xét, giải quyết phúc thẩm là bắt
buộc. Tòa án cấp phúc thẩm phải tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và tính có


13
căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị đồng
thời xem xét lại các phần khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
+ Tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm:
Tính hợp pháp của bản án, quyết định dân sự sơ thẩm thể hiện ở chỗ
không những bản án và quyết định dân sự sơ thẩm đó phải phù hợp với những
quy định của pháp luật về nội dung mà còn phải tuân thủ đúng những quy
định của pháp luật về tố tụng.
Tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm thể hiện ở chỗ không
những bản án, quyết định dân sự sơ thẩm đó phải phù hợp với các sự kiện
thực tế, thể hiện đúng bản chất của sự việc mà nó còn thể hiện là: tất cả các
tình tiết, các chứng cứ của vụ án phải được kiểm chứng hợp pháp tại phiên
tòa, tình tiết vụ án phải khách quan, phải được thu thập, xác định theo đúng
các thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Xem xét lại nội dung vụ án ở cấp phúc thẩm là đi sâu xác định tính chất
của vụ án trên cơ sở các chứng cứ đã được Tòa án cấp sơ thẩm thu thập và các
chứng cứ mới xuất hiện tại Tòa án cấp phúc thẩm. Pháp lệnh thủ tục giải
quyết của vụ án Dân sự 1993 và các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
Kinh tế, Lao động đều quy định cụ thể phạm vi, trách nhiệm của Tòa án cấp
phúc thẩm là: "Khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm có thể sử dụng chứng cứ
do các đương sự cung cấp hoặc do Tòa án, viện kiểm sát thu thập thêm.

Chứng cứ cũ và chứng cứ mới đều phải được xem xét tại phiên tòa " (khoản 2
Điều 63 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự). Điều 65 Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động đều quy định: "Trước khi xét xử hoặc tại phiên tòa phúc thẩm người
kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đến kháng cáo, kháng nghị người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có quyền bổ sung thêm chứng cứ mới. Tòa án cấp phúc thẩm có thể


14
tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự tiến hành hoặc ủy thác cho Tòa án
khác tiến hành xác minh chứng cứ mới được bổ sung ’’.
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 không quy định cụ thể về trách nhiệm của
Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xác minh thu thập chứng cứ như trong các
Pháp lệnh tố tụng cũ bởi theo nguyên tắc của Bộ luật tố tụng dân sự, nghĩa vụ
chứng minh thuộc về các đương sự. Nhưng để có cơ sở ra một phán quyết
đúng đắn, khách quan, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm vẫn phải xem xét toàn
bộ các chứng cứ cũ và các chứng cứ mới được bổ sung tại Tòa án cấp phúc
thẩm. Bộ luật tố tụng dân sự không quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án
trong việc điều tra thu thập chứng cứ nhưng khoản 3 Điều 244 và khoản 3
Điều 251 Bộ luật tố tụng dân sự đều có quy định: ‘‘kèm theo đơn kháng cáo
hay quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung nếu có để chứng minh
cho kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ và hợp pháp’’. Như vậy, quyền cung
cấp chứng cứ của đương sự, người kháng cáo, kháng nghị không bị hạn chế ở
bất cứ giai đoạn nào. Do đó, họ có thể tự tìm để bổ sung các chứng cứ mới và
nếu không tự bổ sung, tự thu thập được thì họ có thể đề nghị Tòa án điều tra,
xác minh, thu thập chứng cứ mới cho họ và để bảo đảm xét xử được khách
quan phù hợp với các quy định của pháp luật, làm rõ sự thật của các tình tiết
trong vụ án thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng sẽ không có quyền từ chối các yêu
cầu, đề nghị này bởi nếu từ chối hoặc điều tra xác minh không đầy đủ, kết

luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan
của vụ án thì lại là căn cứ để Tòa án cấp trên (cấp giám đốc thẩm) hủy bản án,
quyết định sơ thẩm, phúc thẩm.
Tính hợp pháp và tính có căn cứ là hai yêu cầu bắt buộc đối với các bản
án và quyết định của Tòa án khi giải quyết các vụ việc dân sự. Bản án, quyết
định của Tòa án chỉ có thể coi là đúng luật khi các quyết định đó dựa trên các
căn cứ rõ ràng, khách quan và phù hợp với các quy định của pháp luật. Tính
hợp pháp và có căn cứ là hai yêu cầu tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ với


15
nhau không thể coi nhẹ yếu tố nào. Khác với việc xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật là cấp giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ thường xem xét các
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ chứ ít có những chứng cứ mới phát sinh bởi
khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì thường không triệu tập đương sự,
phiên tòa không mở công khai. Còn khi xét xử phúc thẩm thì phiên tòa mở
công khai, tất cả các đương sự, những người tham gia tố tụng có liên quan đều
được triệu tập. Tất cả các chứng cứ đều được xem xét, tranh luận tại phiên
toà, tất cả các nội dung có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến nội
dung kháng cáo, kháng nghị đều đưa ra xem xét tranh luận cụ thể và nếu có
căn cứ đều được xem xét cải sửa cho phù hợp. Như vậy, qua phân tích những
quy định của pháp luật thì thấy tính chất của phúc thẩm dân sự chính là việc
Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
1.3. Ý nghĩa của phúc thẩm dân sự
Khi có sự tranh chấp về quyền, lợi ích nói chung mà các bên tranh chấp
không tự giải quyết được với nhau hay khi có một sự kiện pháp lý nào đó xảy
ra có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong các
quan hệ dân sự thì cá nhân tổ chức có liên quan ấy có quyền làm đơn đề nghị
Tòa án xem xét giải quyết các yêu cầu của họ, khi các đương sự đã thực hiện

đầy đủ các điều kiện về mặt hình thức, thủ tục theo đúng quy định của pháp
luật thì Tòa án có trách nhiệm thụ lý xem xét, giải quyết các tranh chấp hay
các yêu cầu về công nhận một sự kiện pháp lý nào đó. Khi các đương sự khởi
kiện hoặc có yêu cầu đến Toà án là họ đã có mong muốn, gửi gắm vào cơ
quan quyền lực, cơ quan công quyền nhân danh Nhà nước ra các phán quyết
thực sự công bằng đối với họ, trả lại cho họ quyền, lợi ích chính đáng mà họ
đáng được hưởng theo quy định của pháp luật.


16
Thực chất của quá trình tố tụng dân sự tại Tòa án là quá trình giải quyết
các tranh chấp mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật về
nội dung mà các chủ thể có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật tham gia.
Mục đích của quá trình tiến hành tố tụng tại Tòa án là nhằm lập lại trật tự của
quan hệ pháp luật có tranh chấp. Trên cơ sở của các quy tắc tố tụng dân sự để
giải quyết thấu đáo, đúng pháp luật của các quan hệ pháp luật về nội dung
đang có tranh chấp.
Quá trình áp dụng các quy định của tố tụng dân sự tại Tòa án được thực
hiện trong các giai đoạn khác nhau từ giai đoạn xem xét các yêu cầu khởi
kiện, thụ lý yêu cầu khởi kiện, các thủ tục trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đến
các giai đoạn xét xử như : xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc
thẩm hay tái thẩm. ở mỗi giai đọan giải quyết, xét xử của Tòa án đều có
những ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội hay ý nghĩa pháp lý riêng. ở giai đoạn
sơ thẩm thì ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm cũng khá quan trọng là phiên xử
đầu [31, tr 42], là nơi quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự được Toà án
ghi nhận chính thức trong các bản án, các quyết định của Tòa án. Thông qua
phiên tòa sơ thẩm việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật phổ biến pháp
luật đến những người dân tham dự phiên tòa. Nhưng việc ghi nhận quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể, ý nghĩa của việc giáo dục phổ biến pháp luật được
thể hiện rõ nét hơn cả trong quá trình xét xử tại Tòa án cấp phúc thẩm. Với

quy định "bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án" [6, tr
81], thì việc áp dụng các quy định của tố tụng dân sự trong giai đoạn phúc
thẩm vụ án dân sự có một ý nghĩa đặc biệt.
+ Ý nghĩa về mặt chính trị :
Qua xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm, hội đồng xét xử
phúc thẩm, khắc phục những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp


17
của cá nhân cũng như các lợi ích tập thể được thực hiện trong thực tế. Góp
phần bảo vệ pháp chế XHCN [25, tr 296]. Trong xã hội, các lợi ích chính
đáng của cá nhân, tổ chức, của cộng đồng được bảo vệ thì trật tự chính trị xã
hội được ổn định, pháp luật được tôn trọng làm tiền đề cho việc xây dựng một
Nhà nước pháp quyền vững mạnh. Bởi hai vấn đề cơ bản của Nhà nước pháp
quyền là dân chủ và tổ chức quyền lực Nhà nước. Trong đó vai trò của pháp
luật được đề cao. Đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền đó là: Phải tạo được ý
thức cao trong pháp luật hay quản lý xã hội, quản lý Nhà nước xác định đúng
đắn trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân, tính hợp hiến của các thể
chế, tổ chức, chính sách và toàn bộ hệ thống pháp luật và vấn đề tổ chức
quyền lực Nhà nước [50, tr 213-219]. Với việc xét xử công khai, với tư cách
xem xét, khắc phục lại những thiếu sót có thể có của bản án, quyết định sơ
thẩm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể bảo đảm hài hòa lợi ích của
Nhà nước và của công dân, thì thông qua các phán quyết chính xác, khách
quan tại cấp phúc thẩm thể hiện quan điểm của Nhà nước đấu tranh với hành
vi bị coi là không đúng pháp luật, buộc người có hành vi phạm phải khắc
phục, bồi thường đối hậu quả mà họ đã gây ra. Trên cơ sở trách nhiệm, nghĩa
vụ đó họ tự ý thức được những xử sự mà họ đã thực hiện là phù hợp mới pháp
luật hay không, qua cách thức ấy thủ tục phúc thẩm dân sự góp phần tạo được
ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã, hội quản lý Nhà nước.

+ Ý nghĩa về mặt xã hội :
Qua xét xử phúc thẩm sự công bằng, minh bạch trong các quan hệ pháp
luật dân sự được đảm bảo trong từng phán quyết của Tòa án. Qua các phán
quyết đúng đắn ấy sự tín nhiệm của người dân đối với cơ quan Toà án, đối với
quyền lực Nhà nước được trọn vẹn.
Sự công bằng, bình đẳng trong tố tụng dân sự là nguyên tắc cơ bản của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp


18
luật, trước Tòa án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp. Mọi cơ quan tổ chức đều
bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những
vấn đề khác. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng
dân sự, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình [6, tr 11-12]. Sự công bằng, bình đẳng trong xét xử phúc
thẩm không chỉ là nguyên tắc cơ bản mà còn phải là mục tiêu, gắn liền với
công việc thường xuyên của Tòa án cấp phúc thẩm. Sự bình đẳng giữa các
chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật đang có tranh chấp là việc bình đẳng
trong địa vị tố tụng, bình đẳng trong cung cấp chứng cứ, trong các quyền yêu
cầu đối với Tòa án hoặc cơ quan liên quan. Xét xử phúc thẩm được xem xét
tại Tòa án cấp phúc thẩm một cách công khai, mọi công dân đều có quyền
tham dự, mọi yêu cầu chứng cứ tài liệu đều được xem xét, các phán quyết của
Tòa án sơ thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị đều được đưa ra tranh luận công
khai, các chủ thể có liên quan đều đưa ra quan điểm của mình về các phán
quyết đó. Thông qua các ý kiến tranh luận công khai thông qua sự giải thích
pháp luật của Tòa án cấp phúc thẩm (có thể qua bản án hoặc các quyết định)
người tham dự phiên tòa, người tham gia tố tụng hiểu biết thêm về pháp luật,
nhận thức đầy đủ về đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân củng cố niềm tin của dân với

Đảng với Nhà nước.
+ Ý nghĩa về mặt pháp lý :
Xét xử phúc thẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự.
Thông qua phúc thẩm, Tòa án cấp trên có thể kiểm tra hoạt động xét xử của
Tòa án cấp dưới, qua đó có thể tìm ra những nguyên nhân, khắc phục những
thiếu sót, những lỗ hổng của chính các quy định của pháp luật về nội dung và
về hình thức từ đó có những định hướng chỉ đạo kịp thời nâng cao chất lượng
xét xử của Tòa án nhân dân các cấp nói chung và của đội ngũ thẩm phán xét


19
xử của Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng. Thực hiện cơ chế xét xử hai cấp thì có
thể nói, bản án quyết định của Tòa án phúc thẩm như là khuôn mẫu, là những
định hướng trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, bởi nhiều khi có
những vụ việc phức tạp,có nhiều quan điểm khác nhau về việc giải quyết vụ
án, thì những bản án trước đây của Tòa án cấp phúc thẩm thường được đưa ra
xem xét như là điều kiện quan trọng để áp dụng xử lý các vụ kiện sau này.
Mặc dù tố tụng dân sự Việt Nam không quy định bắt buộc trong việc áp dụng
"án lệ". Nhưng những kinh nghiệm, đường lối xét xử của Tòa án cấp trên
thường thực tế vẫn được đem ra để phân tích áp dụng một cách phù hợp.
Những quan điểm đường lối xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm cần phải là
những định hướng, những cơ sở pháp lý vững chắc cho cấp sơ thẩm vận dụng
sau này. Nó đảm bảo sự vận dụng pháp luật một cách thống nhất, tạo ra lòng
tin của người dân đối với pháp luật, đối cơ quan Tòa án điều đó cũng đòi hỏi
chất lượng xét xử của cấp phúc thẩm phải được nâng lên, thực sự trở thành
nơi đem lại sự công bằng, minh bạch, giải tỏa hết tâm lý bức xúc được thua
trong các quan hệ có tranh chấp, đáp ứng được lòng mong mỏi của mỗi người
dân, tạo niềm tin tuyệt đối của họ vào pháp luật và cơ quan Tòa án.
1.4. Đối tượng của xét xử phúc thẩm dân sự
Đối tượng là những vật, hiện tượng mà con người nhằm vào, trong suy

nghĩ trong hành động [28, tr 338]. Đối tượng của xét xử phúc thẩm là những
văn bản pháp lý do Tòa án ban hành trong quá trình giải quyết, xét xử, vụ
kiện dân sự tại Tòa án cấp Sơ thẩm. Theo các văn bản pháp luật tố tụng trước
kia như pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động định
rõ bản án, quyết định nào của Tòa án cấp sơ thẩm được xem xét để xét xử lại
theo thủ tục phúc thẩm
Do tính chất của các quyết định, các văn bản pháp luật nên pháp luật có
quy định chúng là đối tượng của việc xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định


20
tạm đình chỉ, đình chỉ của Tòa án sơ thẩm là những sự kiện làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ trực tiếp của các đương sự. Hiệu lực của các quyết định
này, là bắt buộc đối tất cả mọi chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật do
vậy nó cần phải được xem xét một cách thận trọng trước khi phát sinh hiệu
lực bắt buộc thi hành. Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự quy định ‘‘Bản án,
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án" là đối tượng của kháng
cáo, kháng nghị. Việc quy định này là hoàn toàn và phù hợp với lý luận cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật.
Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án là việc Tòa cấp phúc thẩm tạm thời
chưa giải quyết vụ án khi xuất hiện các lý do như : đương sự là cá nhân đã
chết, cơ quan tổ chức đã sát nhập, giải thể, chia tách mà chưa có cá nhân cơ
quan tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân cơ quan tổ chức
đó; Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực (Điều 189 BLTTDS). Đây là
những lý do để Tòa án cấp phúc thẩm tạm dừng việc giải quyết vụ án. Quyết
định tạm đình chỉ vụ án không mang tính chất phân định trách nhiệm quyền
lợi về việc giải quyết nội dung tranh chấp mà nó chỉ mang tính chất tạo các
điều kiện để việc xem xét, xét xử vụ án được chính xác. Nhưng xét về mặt
thời hạn xét xử thì nó cũng có ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi của các
đương sự. Bởi thời gian giải quyết vụ án dân sự cũng có thể định lượng bằng

giá trị vật chất nhất định. Khi tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án Tòa án không
xóa tên vụ án mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số ngày tháng năm của quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó. Toà án cũng không xử lý về số tiền
mà đương sự đã nộp như tiền tạm ứng án phí, tiền chi phí định giá hay tiền
chi phí giám định. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do
tạm đình chỉ không còn.
Đình chỉ việc giải quyết vụ án là việc Tòa án cấp phúc thẩm làm ngừng
lại, chấm dứt các thủ tục để giải quyết vụ kiện. Đình chỉ vụ kiện dân sự tại
Tòa án cấp phúc thẩm là một quyết định hết sức quan trọng nó liên quan trực


21
tiếp đến quyền và nghĩa vụ của đương sự. Việc đình chỉ việc giải quyết vụ án
được hiểu là vụ án đã được giải quyết xong.
Thường các đương sự không có quyền khởi kiện lại vụ án dân sự, khi
quyết định đình chỉ đã có hiệu lực pháp luật chỉ trừ một số trường hợp, đó là
trong trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp
nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Hay trong trường hợp
nguyên đơn đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt hoặc trường
hợp đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên
quan đến nghĩa vụ Tài sản của doanh nghiệp đó, hợp tác xã đó (Điều 192
BLTTDS) và chỉ trong các trường hợp này thì đương sự mới có quyền khởi
kiện lại vụ án.
Việc đình chỉ của Tòa án phúc thẩm có thể dẫn đến các hậu quả khác
nhau. Phụ thuộc vào từng lý do của việc đình chỉ. Có thể dẫn đến việc kết
thúc việc giải quyết tranh chấp và giữ nguyên trạng thái ban đầu như trước
khi xảy ra tranh chấp, đó là các trường hợp: "Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá
nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; Hay trường
hợp cơ quan tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá

nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ
chức đó". (điểm a, b khoản 1 điều 192 BLTTDS) và một trường hợp đình chỉ
đặc biệt chỉ có ở giai đoạn xét xử phúc thẩm và chỉ mới được quy định cụ thể
tại Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Trường hợp này trước đây luôn là vấn đề có
nhiều ý kiến tranh cãi, luôn có những thực tế áp dụng rất khác nhau trong
cùng một hệ thống Tòa án. Đó là vấn đề nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước
khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, mà nếu bị đơn đồng ý với việc
rút đơn khởi kiện của nguyên đơn thì Tòa án phúc thẩm ra quyết định hủy bản
án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp này các
đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm

×