Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.41 KB, 87 trang )

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN ĐỊNH THẨM
QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA CÁC TÒA ÁN
6
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các tòa án
6
1.1.1.
Khái niệm về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án
6
1.1.2.
Ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của


Tòa án
9
1.2.
Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về phân
định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các tòa án
11
1.3.
Lược sử các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các tòa án
19
1.3.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
19
1.3.2.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
25
1.3.3.
Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
30

Chương 2: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM
DÂN SỰ GIỮA CÁC TÒA ÁN
31
2.1.
Các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa
tòa án các cấp
31
2.1.1.
Quy định về những vụ việc thuộc thẩm quyền sơ thẩm dân

sự của Tòa án cấp huyện
31
2.1.2.
Quy định về những vụ việc thuộc thẩm quyền sơ thẩm dân
sự của Tòa án cấp tỉnh
35
2.2.
Các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa
các Tòa án cùng cấp
40
2.2.1.
Các quy định có tính nguyên tắc về phân định thẩm quyền
sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp
40
2.2.1.1.
Thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản
40
2.2.1.2.
Thẩm quyền của Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ
sở của bị đơn, người bị yêu cầu
42
2.2.2.
Các quy định khác về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
giữa các Tòa án cùng cấp
47
2.2.2.1.
Quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo sự
thỏa thuận của các đương sự
47
2.2.2.2.

Quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án cùng cấp theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người
yêu cầu
48
2.2.2.3.
Quy định riêng biệt về phân định thẩm quyền sơ thẩm của
Tòa án đối với các vụ việc dân sự
52

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÂN
ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA CÁC
TÒA ÁN VÀ KIẾN NGHỊ
58
3.1.
Thực tiễn thực hiện pháp luật về phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các tòa án
58
3.1.1.
Thực tiễn thực hiện các quy định về phân định thẩm quyền
sơ thẩm dân sự giữa Tòa án các cấp
58
3.1.2.
Thực tiễn thực hiện các quy định về phân định thẩm quyền
sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp
61
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân định
thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các tòa án
72
3.2.1.

Kiến nghị sửa đổi các quy định về phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa Tòa án các cấp
72
3.2.2.
Kiến nghị sửa đổi các quy định về phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp
74

KẾT LUẬN
80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
81


1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống cơ quan tư pháp của Việt Nam thì Tòa án là cơ quan
thực hiện quyền tư pháp chủ yếu, với chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án
mà pháp luật quy định để bảo vệ pháp luật và sự công bằng xã hội. Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ:
Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội…kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã
đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu có
chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh
của nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế…; đổi mới thủ
tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận

lợi cho người dân tiếp cận công lý… [7].
Đường lối cải cách tư pháp nói trên có ý nghĩa quan trọng trong việc
hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, trong đó có các quy định về
phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án. Bởi vì, các quy định
này nếu được quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch sẽ là phương tiện cần thiết,
tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc tiếp cận công lý.
Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam 2004 được thông qua ngày 15/06/2004
và được sửa đổi năm 2011 đã dành một chương gồm 13 điều luật để quy định
về thẩm quyền của Tòa án, trong đó có quy định về thẩm quyền của Tòa án
theo loại việc, thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và Tòa án tỉnh, thẩm quyền
của Tòa án theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu.
Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng để phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các Tòa án.

2
Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn cho thấy, sau khi đã xác định được
vụ việc thuộc thẩm quyền sơ thẩm về dân sự của Tòa án theo loại việc thì
bước quan trọng tiếp theo là phải xác định được vụ việc đó thuộc thẩm quyền
sơ thẩm của Tòa án cấp nào và Tòa án nơi nào sẽ có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề phân định thẩm quyền
sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cũng còn nhiều khiếm khuyết. Sự thiếu cụ
thể, rõ ràng của pháp luật làm cho đương sự lúng túng trong việc xác định
Tòa án mà họ có thể nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc.
Trong thực tiễn xét xử, các Tòa án cũng gặp không ít khó khăn, vướng
mắc khi xác định một vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án mình hay không. Từ thực tiễn công việc tại ngành Tòa án và nhận thức
được những khó khăn, vướng mắc mà các Tòa án thường gặp phải trong việc
phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án, tác giả luận văn thấy
rằng đây là vấn đề cần phải được nghiên cứu để tháo gỡ.
Xét về lý luận, nếu các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm

dân sự giữa các Tòa án được xây dựng một cách chính xác, khoa học sẽ tránh
được sự chồng chéo khi Tòa án thực hiện nhiệm vụ, giảm bớt phiền hà cho
người dân khi thực hiện quyền khởi kiện của mình. Các luật sư, Thẩm phán
nếu nhận thức và vận dụng đúng các quy định về phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các Tòa án cũng sẽ góp phần đảm bảo quyền tiếp cận công
lý của công dân.
Xét về thực tế, việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa
án có ý nghĩa xác định một Tòa án cụ thể nào đó sẽ có thẩm quyền thụ lý giải
quyết vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án. Đây là hai vấn đề căn bản trong quá
trình phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án. Do vậy, khi nghiên
cứu về phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa các Tòa án thì hai vấn đề sẽ được
chú trọng, đó là phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án các cấp và
phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo phạm vi lãnh thổ.

3
Từ thực trạng pháp luật về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án, vướng mắc trong thực tiễn vận dụng, tác giả luận văn thấy rằng cần
thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ hơn nữa những vấn đề
lý luận và thực tiễn nhằm phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa
án cũng như đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân
sự giữa các Tòa án" để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy đã có một số công trình
nghiên cứu về vấn đề thẩm quyền sơ thẩm về dân sự của Tòa án. Có thể nói
đến Luận án tiến sĩ "Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong
hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Lê Thu Hà;
Luận án thạc sĩ "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam" của tác giả Lê Hoài Nam.v.v Tuy nhiên, những công trình nói
trên chỉ đề cập tới những khía cạnh khác nhau về vấn đề thẩm quyền sơ thẩm

dân sự của Tòa án. Đề tài "Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án" là đề tài đầu tiên tập trung nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề phân định
thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án một cách tổng thể và toàn diện.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về phân
định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án. Tìm hiểu những quy định
của pháp luật hiện hành liên quan tới phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
giữa các Tòa án, phát hiện những điểm còn hạn chế, bất cập của pháp luật khi
áp dụng vào thực tiễn, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này.
Từ mục đích nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác
định như sau:

4
- Đề tài không đi sâu nghiên cứu về việc phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự của Tòa án theo loại việc mà chỉ tập trung vào nghiên cứu hai
vấn đề có mối liên quan trực tiếp tới việc phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa
các Tòa án. Đó là, phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án các cấp;
phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh thổ giữa các Tòa án cùng cấp.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các Tòa án, ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân
sự giữa các Tòa án. Bên cạnh đó, đề tài cũng mở rộng phạm vi nghiên cứu về
vấn đề này trong pháp luật tố tụng dân sự một số nước trên thế giới nhằm so
sánh, tham khảo.
- Nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án, thực tiễn áp
dụng chúng tại các Tòa án.
- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn sẽ xác định những
hạn chế, vướng mắc, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật,
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và
nhà nước qua các giai đoạn lịch sử.
Việc thực hiện đề tài được tiến hành trên cơ sở các phương pháp
nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn
logic v.v
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:

5
Chương1: Một số vấn đề lý luận về phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các Tòa án.
Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về phân định
thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các Tòa án và kiến nghị.

6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN ĐỊNH
THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA CÁC TÒA ÁN

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN
SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA CÁC TÒA ÁN
1.1.1. Khái niệm về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa
các Tòa án
Đề tài đi vào nghiên cứu về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự

giữa các Tòa án. Tuy nhiên, để có thể làm rõ vấn đề này thì chúng ta cũng cần
nhận diện được những khái niệm cơ bản về thẩm quyền và phân định thẩm
quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án.
Khái niệm thẩm quyền được nghiên cứu, đề cập đến trong pháp luật
của nhiều nước khác nhau trên thế giới. Có quan điểm cho rằng thẩm quyền là
quyền xét xử, bao gồm nhiều mặt nhiều khía cạnh, mang tính lịch sử cụ thể
quy định quyền xét xử của Tòa án. Nội dung của nó do các điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội và các điều kiện khác quyết định. Theo quan điểm của một số
nước trên thế giới như ở Pháp thì, "thuật ngữ thẩm quyền (compétence) được
hiểu là khả năng mà pháp luật trao cho công quyền hoặc cơ quan tài phán
thực hiện công việc nhất định hoặc thẩm cứu và xét xử một vụ kiện" [51].
Theo Từ điển luật học của Mỹ thì "thẩm quyền được hiểu là một khả năng cơ
bản và tối thiểu để cơ quan công quyền xem xét và giải quyết một việc gì theo
pháp luật" [50]. Trong tiếng Anh, thuật ngữ Jurisdition được dùng để chỉ thẩm
quyền hoặc quyền tài phán của Tòa án. Còn theo Từ điển tiếng Việt của Viện
Ngôn ngữ học xuất bản năm 2003 thì "thẩm quyền là quyền xem xét để kết
luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật" [49].
Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền
và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan tổ chức thuộc hệ thống bộ

7
máy nhà nước do pháp luật quy định. Điểm chung về thẩm quyền của Tòa án
đều được các nước thừa nhận là quyền xem xét giải quyết các vụ việc trong
phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải
quyết vụ việc đó. Quyền xem xét giải quyết vụ việc và quyền ra các quyết
định khi giải quyết vụ việc đó là hai nội dung quan trọng có mối quan hệ mật
thiết với nhau tạo thành thẩm quyền của Tòa án.
Ở nước ta hiện nay, các Tòa án được tổ chức theo các đơn vị hành
chính lãnh thổ. Tòa án cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các việc
mà pháp luật quy định, trong khi đó Tòa án cấp tỉnh có quyền xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có quyền xét
xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Vì vậy, thẩm quyền dân sự của Tòa
án được hiểu là quyền của Tòa án đối với việc xem xét và ra các bản án, quyết
định giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm.
Trong các loại thẩm quyền trên thì thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án có vai trò quan trọng. Bởi vì, sơ thẩm là cấp đầu tiên giải quyết vụ
việc dân sự bằng một phiên tòa sơ thẩm hoặc phiên họp. Thuật ngữ "vụ việc
dân sự" được sử dụng ở đây với hàm ý, bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự.
Vụ án dân sự phát sinh do có tranh chấp về quyền lợi ích giữa các chủ thể
trong các quan hệ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và
lao động. Việc dân sự là việc không có tranh chấp về quyền và lợi ích nhưng
đương sự yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện pháp lý hoặc công nhận các
quyền, nghĩa vụ nhất định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động. Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa thẩm
quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án như sau: Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án là quyền của Tòa án trong việc xem xét giải quyết các vụ việc dân sự
theo thủ tục sơ thẩm dân sự.
Vậy phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án có nghĩa là như
thế nào? Việc nhận diện khái niệm và xác định nội hàm của khái niệm này sẽ

8
là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu và định hướng của việc nghiên cứu.
Hiện nay, ở Việt Nam, hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp hành chính đồng
thời trong mỗi cấp Tòa án lại có các Tòa chuyên biệt theo từng lĩnh vực. Đó là
các Tòa chuyên về từng loại việc như các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân
dân tối cao và các Tòa được giải quyết tất cả các loại việc ví dụ như Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Như vậy, chúng ta có thể thấy thẩm quyền của
Tòa chuyên biệt và thẩm quyền của Tòa án là hai khái niệm khác nhau.
Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa chuyên biệt về bản chất là thẩm

quyền theo loại việc của các Tòa chuyên biệt (Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa
lao động) trong cùng một cấp Tòa án theo nhóm quan hệ pháp luật nội dung
có cùng tính chất. Còn thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án được tiếp cận
dưới ba góc độ bao gồm: thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo loại
việc, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án các cấp và thẩm quyền sơ thẩm
dân sự của Tòa án theo lãnh thổ. Trong đó, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án theo loại việc là thẩm quyền chung của Tòa án trong việc thụ lý giải
quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự. Thẩm quyền sơ thẩm dân
sự của Tòa án các cấp là thẩm quyền sơ thẩm của một cấp Tòa án nào đó (cấp
huyện, cấp tỉnh) trong việc thụ lý giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng
dân sự. Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là thẩm quyền
của một Tòa án trong việc thụ lý, giải quyết một vụ việc dân sự cụ thể.
Trong quá trình thụ lý vụ việc dân sự nói chung, Tòa án bao giờ cũng
phải xem xét là vụ việc đó có thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại
việc hay không. Sau đó mới tiến hành xác định những vấn đề tiếp theo, đó là
vụ việc đó thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp nào và trong số các Tòa
cùng cấp đó thì Tòa án nào sẽ có thẩm quyền giải quyết.
Với mong muốn cung cấp cho người nghiên cứu luật học, người thực
hành nghề luật một góc nhìn toàn diện khi nhận đơn yêu cầu giải quyết vụ
việc dân sự, hai vấn đề chính yếu về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự

9
của Tòa án sẽ được tập trung nghiên cứu. Cụ thể đề tài này không đi vào
nghiên cứu về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo loại việc mà chỉ
tập trung vào việc xác định một vụ việc dân sự nếu có phát sinh tại Tòa án thì
Tòa án nào sẽ có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Theo logic này thì hai vấn đề
mang tính tổng thể và xuyên suốt mà Tòa án cần xác định, bao gồm việc phân
định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án các cấp, việc phân định thẩm
quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp theo phạm vi lãnh thổ.
Như vậy, khi phát sinh một vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền sơ thẩm

dân sự của Tòa án theo loại việc thì Tòa án nhận đơn sẽ phải tiếp tục dựa vào
luật thực định để xác định xem vụ việc đó thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa
án nào (Tòa án cấp tỉnh hay Tòa án cấp huyện, quận, thị xã…) và bước sau
cùng là xác định trong số các Tòa án cùng cấp đó thì Tòa án cụ thể nào sẽ có
thẩm quyền giải quyết. Có thể thấy, đây chính là hai nội dung cơ bản cần làm
rõ để có thể phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án với nhau.
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về phân định
thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án như sau:
Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án là việc phân
định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án cấp huyện với Tòa án cấp tỉnh
và phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp theo
phạm vi lãnh thổ. Ngoài ra, chúng ta có thể xem xét vấn đề này dưới cách
nhìn khác, đó là phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án là
việc Tòa án dựa trên những tiêu chí nhất định (theo cấp hay theo lãnh thổ) để
quyết định một vụ việc thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án sẽ thuộc quyền
xem xét giải quyết của một Tòa án cụ thể nào.
1.1.2. Ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án
Trong các loại thẩm quyền (thẩm quyền sơ thẩm dân sự, thẩm quyền
phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm) thì thẩm quyền sơ thẩm dân sự của

10
Tòa án có ý nghĩa và tầm quan trọng hơn cả. Việc phân định đúng thẩm quyền
sơ thẩm dân sự của Tòa án sẽ là cơ sở để xác định đúng thẩm quyền phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Việc xây dựng các tiêu chí để xác định thẩm quyền của Tòa án có ý
nghĩa tạo cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa các cấp Tòa án
và giữa các Tòa án cùng cấp với nhau trong việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân
sự. Việc Tòa án áp dụng đúng pháp luật để xác định đúng đắn, chính xác
những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án sẽ tránh tình trạng giải

quyết không đúng thẩm quyền hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các Tòa án
trong việc thụ lý giải quyết. Ngoài ra, việc phân định đúng thẩm quyền sẽ
tránh được những vụ việc bị hủy để xét xử sơ thẩm lại, gây mất thời gian, tổn
phí vật chất cho cả Tòa án và đương sự.
Mỗi cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh
vực nhất định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và luật đã quy định. Các cơ
quan này tuyệt đối không được phép hoạt động ngoài thẩm quyền của mình.
Sự phân định thẩm quyền là điều kiện cần thiết đảm bảo cho bộ máy tư pháp
hoạt động bình thường, không chồng chéo lên nhau. Chính vì vậy, việc phân
định đúng thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Việc làm này tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện
nhiệm vụ giữa các Tòa án mà cụ thể là giữa các cấp Tòa án và giữa các Tòa
án cùng cấp với nhau. Điều này góp phần tạo điều kiện cho Tòa án giải quyết
đúng đắn, nhanh chóng vụ việc dân sự.
Vì vậy, việc phân định thẩm quyền của Tòa án một cách chính xác,
thực sự khoa học sẽ tránh được sự chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ giữa các
Tòa án với nhau, giữa các Tòa án trong cùng cấp… góp phần làm cho các Tòa
án giải quyết đúng đắn có hiệu quả các vụ việc dân sự, tạo điều kiện cho các bên
đương sự tham gia tố tụng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
tiết kiệm được thời gian, công sức, các chi phí, giảm bớt các phiền hà cho
đương sự và cho cả Tòa án. Trong những trường hợp đương sự gửi nhầm đơn

11
đến Tòa án không có thẩm quyền thụ lý thì thông qua việc phân định thẩm
quyền của mình, Tòa án nhận đơn có thể nhanh chóng kịp thời chuyển đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự tới Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Việc Tòa án thụ lý và giải quyết đúng thẩm quyền còn có ý nghĩa tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án dân sự, đảm bảo sự phối hợp giữa
Tòa án và Cơ quan thi hành án dân sự trong việc chuyển giao bản sao bản án,
quyết định, giải thích bản án, quyết định. Bởi vì, theo quy định của pháp luật

thì thông thường Cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã sơ thẩm vụ việc
dân sự sẽ có thẩm quyền thi hành án.
Ngoài ra, các quy tắc về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự nếu
được pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể và khoa học sẽ tạo thuận lợi cho
đương sự xác định đúng Tòa án để gửi đơn, tránh tình trạng gửi nhầm đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu đến Tòa án không có thẩm quyền giải quyết dẫn tới bị
trả lại đơn… gây mất thời gian và tổn phí không đáng có. Các quy tắc này
cũng tạo cơ sở pháp lý để tránh việc đương sự lạm dụng quyền khởi kiện để
cùng một lúc khởi kiện ở nhiều Tòa án khác nhau gây ra tình trạng có nhiều
Tòa án cùng giải quyết về một vụ việc và ra những phán quyết trái ngược
nhau, gây mất niềm tin vào cơ quan bảo vệ pháp luật.
1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA CÁC TÒA ÁN
Để hệ thống Tòa án hoạt động một cách hiệu quả, nhịp nhàng không
chồng chéo lên nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình thì việc xây
dựng các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án
phải được dựa trên một số tiêu chí nhất định.
- Tiêu chí về sự phù hợp với quy tắc phân định thẩm quyền tài phán
quốc tế và quốc gia
Hiện nay, sự phát triển đa dạng không ngừng của nền kinh tế, cùng
với sự hội nhập toàn cầu, các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh

12
thương mại, lao động cũng ngày càng trở nên phong phú hơn. Do vậy, trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì pháp luật của Việt Nam về vấn
đề phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án phải được xây dựng
sao cho không quá khác biệt với kỹ thuật lập pháp của các nước tiên tiến trên
thế giới.
Để thực hiện được vấn đề này cần phải nghiên cứu kinh nghiệm lập
pháp của các quốc gia để rút ra bài học cho Việt Nam. Ngoài ra, cũng có thể

vận dụng kinh nghiệm về xác định thẩm quyền tài phán quốc tế để xây dựng
các quy định trong pháp luật của Việt Nam. Việc nghiên cứu cho thấy các
quốc gia thường thiết lập một hệ thống các tiêu chí làm cơ sở để xác định
thẩm quyền tài phán giữa Tòa án của các quốc gia với nhau, đồng thời xác
định các tiêu chí để xác định thẩm quyền tài phán của các Tòa án trong phạm
vi quốc gia đó. Thông thường các dấu hiệu được áp dụng để phân định thẩm
quyền tài phán giữa các quốc gia và thẩm quyền tài phán giữa các Tòa án
trong phạm vi một quốc gia cần được tham khảo là dấu hiệu về nơi cư trú của
đương sự; nơi có vật tranh chấp; nơi phát sinh sự kiện; sự thỏa thuận lựa chọn
các đương sự v.v
- Tiêu chí về điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
và sự độc lập, khách quan của đội ngũ cán bộ Tòa án
Trong hệ thống cơ quan tư pháp thì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền
tư pháp chủ yếu, với chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án mà pháp luật
quy định để bảo vệ pháp luật và sự công bằng xã hội. Để hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình, trước hết đòi hỏi đội ngũ thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, khách quan, vô tư, khi làm
nhiệm vụ, trung thực, có kiến thức chuyên môn sâu, nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật. Ngoài những yêu cầu, tiêu chuẩn riêng đối với đội ngũ thẩm phán
thì hội thẩm nhân dân hiện nay cũng cần phải có những điều kiện nhất định về
trình độ chuyên môn để tham gia vào quá trình tố tụng.

13
Việc nghiên cứu cho thấy điều kiện về cơ sở vật chất của Tòa án các
cấp hiện nay là khác nhau. Để tiến hành xác minh những vụ việc phức tạp, có
liên quan đến ủy thác tư pháp với nước ngoài thì thông thường Tòa án cấp
tỉnh là Tòa án có điều kiện tốt hơn cả về phương tiện thông tin, cập nhật văn
bản và nguồn nhân lực. Xét về thực tế thì thông thường cán bộ làm công tác
xét xử muốn được thăng tiến ở Tòa án cấp cao hơn đều phải trải qua thời gian
kinh nghiệm, sự từng trải, rèn luyện và va đập với công việc ở Tòa án cấp

dưới. Do vậy, có thể thấy xét về thực tế thì việc bổ nhiệm cán bộ xét xử thuộc
Tòa án cấp trên thường được lựa chọn từ những người có năng lực, trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm xét xử cao trong số những cán bộ xét xử của Tòa
án cấp dưới. Theo pháp luật hiện hành, đối với Tòa án cấp tỉnh đòi hỏi trình
độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ cao hơn Tòa án cấp huyện. Theo quy
định tại Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân năm 2002, để tuyển chọn
và bổ nhiệm làm thẩm phán Tòa án cấp tỉnh thì đòi hỏi phải là người đáp ứng
đủ những điều kiện chung và đã là thẩm phán Tòa án cấp huyện ít nhất 5 năm.
Việc nghiên cứu cho thấy, trên thực tế hiện nay điều kiện cơ sở vật
chất và trình độ chuyên môn và kinh nghiệm xét xử giữa các địa phương còn
chênh lệch nhau. Đặc biệt, ở Việt Nam sự phát triển kinh tế, văn hoá xã còn,
chênhrí ở các vùng miền không đồng đều. Ở những vùng sâu, vùng xa cơ sở
vật chất chưa đầy đủ, cán bộ xét xử còn thiếu về số lượng và chưa thực sự đạt
chuẩn về chất lượng. Chính sách đãi ngộ của Nhà nước cũng chưa thực sự đủ
mạnh để thu hút và giữ chân được những cán bộ có trình độ, năng lực tốt.
Từ những phân tích trên, có thể thấy sự khác biệt trên thực tế về điều
kiện cơ sở vật chất cũng như trình độ chuyên môn, năng lực xét xử của đội
ngũ cán bộ ở từng cấp Tòa án. Chính từ sự khác nhau này đặt ra vấn đề cần
phải phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự ở từng cấp Tòa án để mỗi cấp Tòa
án có thể giải quyết tốt các vụ việc dân sự trong phạm vi thẩm quyền xét xử
của mình phù hợp với điều kiện vật chất, năng lực chuyên môn và kinh
nghiệm xét xử của đội ngũ cán bộ.

14
Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng cho thấy việc xây dựng các quy định
về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các cấp Tòa án cũng phải được
tiến hành sao cho có thể đảm bảo thuận lợi nhất cho người dân trong việc tiếp
cận công lý để đòi hỏi quyền lợi hợp pháp của mình. Do vậy, trong những
trường hợp mà Tòa án nhận đơn không đảm bảo được sự độc lập, khách quan
trong việc giải quyết vụ việc thì cần phải quy định theo hướng Tòa án này sẽ

không có thẩm quyền sơ thẩm vụ việc dân sự.
- Tiêu chí về sự thuận lợi trong quá trình giải quyết vụ việc
Khi có đơn khởi kiện vụ án dân sự hay yêu cầu giải quyết việc dân sự
của đương sự, Tòa án có nhiệm vụ hoàn thiện hồ sơ, xác minh, thu thập chứng
cứ trong những trường hợp cần thiết, nhiệm vụ này được thực hiện một cách
khách quan, chính xác và đầy đủ. Để làm tốt điều này yêu cầu cán bộ Tòa án
phải tiếp xúc, gần gũi với dân, có mối quan hệ tốt với chính quyền cấp cơ sở ở
địa phương mình.
Trong tố tụng dân sự nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho
yêu cầu khởi kiện thuộc về đương sự. Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ
khi đương sự đã áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không tự thu thập được và
có yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập hoặc trong một số trường hợp mà pháp
luật có quy định. Quy định này một mặt gắn trách nhiệm cho đương sự, giảm
áp lực công việc cho Tòa án, mặt khác cũng là cơ chế bảo đảm tính khách
quan, tránh tình trạng Tòa án lạm dụng trong việc thu thập chứng cứ có lợi để
thiên vị cho một trong các bên.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành những quy định này đã gặp không ít khó
khăn cho cả đương sự và Tòa án. Xét về khoảng cách địa lý thì Tòa án cấp
huyện sẽ có điều kiện thuận lợi hơn so với Tòa án cấp tỉnh khi thu thập chứng
cứ ở địa phương. Tòa án cấp tỉnh sẽ có những khó khăn nhất định khi xem xét
giải quyết vụ việc dân sự nhất là ở khâu hoàn thiện hồ sơ. Bên cạnh đó, việc
giải quyết các vụ việc dân sự ở Tòa án cấp huyện cũng tạo điều kiện thuận lợi

15
cho các đương sự trong việc tham gia vào quá trình tố tụng như cung cấp
chứng cứ và khi Tòa án triệu tập.
Như vậy, vụ việc dân sự nếu được xét xử sơ thẩm ở Tòa án cấp thấp
hơn thì càng tiết kiệm được thời gian, công sức, chi phí của những người
tham gia tố tụng. Tuy nhiên, ở những vụ việc có tính chất phức tạp, đòi hỏi
phải liên hệ, ủy thác tư pháp với người nước ngoài thì Tòa án nhân dân cấp

huyện lại có thể gặp nhiều khó khăn vướng mắc khi tiến hành nhiệm vụ này.
Do vậy, sự thuận lợi khó khăn trong việc giải quyết vụ việc cũng là một cơ sở
quan trọng để xây dựng nguyên tắc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
giữa Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện.
- Tiêu chí về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của một trong các
bên đương sự
Khi xây dựng pháp luật cần căn cứ vào tiêu chí này và xét trong từng
loại vụ việc dân sự thì Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của đương sự nào
sẽ là Tòa án có điều kiện tốt nhất để giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ
việc và thuận tiện cho đương sự trong việc tham gia tố tụng. Trên cơ sở đó, có
thể xây dựng các quy tắc để xác định thẩm quyền cho phù hợp.
Nếu các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự không hợp lý sẽ dẫn
tới hậu quả là Tòa án thụ lý sẽ khó khăn trong việc xác minh hay thu thập
chứng cứ tài liệu để giải quyết vụ việc, dẫn tới kéo dài thời gian giải quyết vụ
việc. Thông thường, nếu vụ việc không phải là tranh chấp về bất động sản thì
Tòa án có thẩm quyền sẽ là Tòa án nơi cư trú, nơi có trụ sở của bị đơn, người
bị yêu cầu trong vụ việc dân sự.
Để đảm bảo công bằng giữa những người tham gia tố tụng thì người bị
động trong việc tham gia tố tụng cần phải được trao cho những lợi thế hơn so
với người ở thế chủ động trong việc thực hiện quyền tự bảo vệ của mình. Bị
đơn chỉ là người được giả thiết hay phỏng đoán có quyền lợi bị xâm phạm và
bị đơn chỉ mới là người được giả thiết hay phỏng đoán xâm phạm tới quyền

16
lợi của nguyên đơn. Trong thực tiễn, nhiều trường hợp những yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn không có căn cứ pháp lý và không được Tòa án chấp
nhận, trong khi đó, bị đơn vẫn phải tham gia vào vụ kiện mặc dù họ không
phải là người xâm phạm quyền lợi của nguyên đơn, không có lỗi trong việc
làm phát sinh vụ việc dân sự tại Tòa án. Do vậy bị đơn cần được tạo điều kiện
thuận lợi nhất để thực hiện quyền tự bảo vệ của mình trước Tòa án. Vì lẽ đó,

để tạo điều kiện thuận lợi cho bị đơn, người bị yêu cầu có thể được hưởng
những lợi thế trong việc tham gia tố tụng thì pháp luật cần quy định Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự là Tòa án nơi cư trú, làm việc, nơi có trụ
sở của bị đơn, người bị yêu cầu.
Xét về mặt tâm lý thì bị đơn, người bị yêu cầu thường không muốn
hợp tác và thường trốn tránh không tham gia tố tụng khi được Tòa án triệu
tập. Việc quy định Tòa án nơi cư trú của bị đơn, người bị yêu cầu, nơi có trụ
sở của pháp nhân sẽ tạo điều kiện thuận lợi để bị đơn, người bị yêu cầu, người
đại diện hợp pháp của pháp nhân tham gia tố tụng. Mặt khác, trong trường
hợp bị đơn không hợp tác với Tòa án thì Tòa án nơi bị đơn, người bị yêu cầu
cư trú, làm việc, có trụ sở là Tòa án có khả năng và điều kiện tốt hơn cả trong
việc xác minh các tình tiết, sự kiện trong vụ việc.
Xét về góc độ thuận lợi trong công tác thi hành án, thì trên thực tế
người phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định về dân sự thường là bị
đơn, người bị yêu cầu. Do vậy, thông thường nếu quy định Tòa án có thẩm
quyền là Tòa án nơi bị đơn, người yêu cầu cư trú, làm việc, có trụ sở sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp giữa cơ quan thi hành án nơi người phải
thi hành án cư trú, làm việc, có trụ sở và Tòa án đã giải quyết vụ việc trong
việc thi hành bản án, quyết định, nhất là trong việc chuyển giao bản án, quyết
định và giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định.
- Tiêu chí về nơi có tài sản tranh chấp
Việc xây dựng quy định về phân định thẩm quyền theo lãnh thổ được
dựa trên tiêu chí Tòa án nơi có bất động sản tranh chấp. Bởi vì, tính chất đặc

17
biệt của bất động sản là loại tài sản gắn liền với đất không di chuyển được và
Tòa án nơi có bất động sản là Tòa án có điều kiện giải quyết nhanh chóng,
chính xác vụ việc dân sự để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Tòa
án nơi có bất động sản này sẽ là Tòa án có điều kiện thuận lợi hơn cả trong
việc xác minh, thu thập chứng cứ và giải quyết chính xác vụ việc. Trong một

số trường hợp đặc biệt, thì việc phân định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án
theo lãnh thổ cũng có thể dựa trên tiêu chí Tòa án nơi có động sản của đương
sự. Chẳng hạn, việc yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam một bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài có thể thuộc thẩm quyền của
Tòa án nơi có tài sản là động sản của người phải thi hành án.
Đối với những tranh chấp về bất động sản, thông thường các giấy tờ,
tài liệu liên quan đến bất động sản sẽ do cơ quan tài nguyên môi trường, nhà
đất, chính quyền nơi có bất động sản đó lưu giữ và các cơ quan này cũng là
những cơ quan nắm vững những thông tin về nguồn gốc, hiện trạng tài sản và
tình trạng pháp lý của tài sản. Do vậy, Tòa án nơi có bất động sản sẽ là Tòa án
có điều kiện thuận lợi nhất trong việc xác minh, thu thập các tài liệu, các
thông tin liên quan đến bất động sản đang tranh chấp.
Ngoài ra, đối với những tranh chấp về bất động sản thì Tòa án nơi có
bất động sản là Tòa án có điều kiện thuận lợi nhất trong việc kiểm tra, xem
xét tại chỗ tình trạng của bất động sản. Trong trường hợp này việc xây dựng
tiêu chí phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án dựa trên nơi có bất
động sản sẽ tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ việc được nhanh chóng và sát
với thực tế. Hơn nữa, việc xây dựng quy định dựa trên tiêu chí này còn có ý
nghĩa tránh cho Tòa án thụ lý vụ việc không phải tiến hành các hoạt động ủy
thác thu thập chứng cứ.
- Tiêu chí nơi phát sinh sự kiện
Tiêu chí nơi phát sinh sự kiện như nơi đăng ký kết hôn, nơi xảy ra
hành vi gây thiệt hại, nơi thực hiện hợp đồng cũng là một trong những tiêu chí

18
quan trọng cần xem xét đến khi xây dựng quy định về thẩm quyền sơ thẩm
dân sự của Tòa án theo lãnh thổ. Ngoài ra, trong những trường hợp đặc biệt,
nơi phát sinh sự kiện cũng có thể được hiểu theo nghĩa rộng là nơi cơ quan
trọng tài hoặc Tòa án đã ra phán quyết. Chẳng hạn như: Tòa án nơi Trọng tài
ra quyết định có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy quyết định trọng tài; Tòa

án đã ra quyết định tuyên bố một người là mất tích hoặc đã chết có thẩm
quyền hủy bỏ quyết định về việc tuyên bố một người là mất tích hoặc đã chết.
- Vấn đề đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa
chọn Tòa án giải quyết
Quyền tự định đoạt của đương sự được quy định là một nguyên tắc cơ
bản của luật tố tụng dân sự. Theo nguyên tắc này đương sự tự mình quyết
định về việc tham gia tố tụng dân sự, tự quyết định quyền và lợi ích của mình
theo quy định của pháp luật.
Đối với những vụ việc về tranh chấp bất động sản, thì việc xây dựng
các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ được dựa trên cơ sở ưu tiên, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho Tòa án nơi có bất động sản giải quyết. Việc tạo
điều kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng trong trường hợp chỉ
giữ vai trò thứ yếu. Tòa án nơi có bất động sản giải quyết sẽ thuận lợi trong
việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm giải quyết đúng đắn nhanh
chóng vụ việc dân sự. Trong những trường hợp này, vấn đề quyền tự định
đoạt của các đương sự về thẩm quyền, giải quyết tranh chấp không được đặt ra.
Đối với những tranh chấp khác không liên quan tới bất động sản thì về
nguyên tắc Tòa án có thẩm quyền sẽ là Tòa án nơi cư trú, nơi có trụ sở của bị
đơn, người bị yêu cầu trong vụ việc dân sự. Việc phân định thẩm quyền trong
những trường hợp này phải đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự
tham gia tố tụng chứ không mang tính bất di, bất dịch như đối với tranh chấp
bất động sản. Do vậy, trong những trường hợp này nguyên đơn, người yêu
cầu có tự do hơn trong việc phân định Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc.

19
Việc xây dựng các quy tắc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa
Tòa án trong các trường hợp này được dựa trên cơ sở quyền tự định đoạt của
đương sự, đảm bảo cho đương sự có điều kiện thuận lợi để tham gia tố tụng.
Do đó, trong trường hợp này nguyên đơn, người yêu cầu có quyền tự do trong
việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc.

1.3. LƢỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM VỀ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA CÁC
TÒA ÁN
Việc nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng pháp luật qua các thời kỳ lịch
sử về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án sẽ giúp chúng ta
có một cái nhìn thấu đáo hơn, trên cơ sở đó có thể rút ra bài học kinh nghiệm
hoặc kế thừa một cách hợp lý kinh nghiệm lập pháp vào việc nghiên cứu hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này trong giai đoạn hiện nay.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Việc nghiên cứu các quy định về phân định thẩm quyền dân sự giữa
các Tòa án trong giai đoạn này sẽ được tiến hành theo hai thời kỳ chính là từ
năm 1945 đến năm 1960 và từ năm 1960 đến 1989.
- Thời kỳ từ năm 1945 đến 1960
Thời kỳ này đầu tiên phải kể đến Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01
năm 1945 về tổ chức các Tòa án và ngạch thẩm phán, một văn bản quy định
về tổ chức, thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án. Tiếp đó, ngày 17 tháng 4 năm
1946, Sắc lệnh số 51 ấn định thẩm quyền của Tòa án và sự phân công giữa
các nhân viên của Tòa án được ban hành. Sắc lệnh số 13 và số 51 là những
văn bản pháp luật đầu tiên về tố tụng dân sự của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
Hai văn bản trên đã đề cập đến vấn đề thẩm quyền giữa các cấp Tòa án
đó là: Tòa án sơ cấp (ở các quận) và Tòa án đệ nhị cấp (ở các tỉnh) tại Điều thứ 7

20
của Sắc lệnh số 13 quy định ở mỗi quận (phủ, huyện, châu) có một Tòa án sơ
cấp và tại Điều thứ 12 quy định ở mỗi tỉnh và các thành phố Hà Nội, Hải
Phòng và Sài Gòn - Chợ Lớn, có một Tòa án đệ nhị cấp.
- Thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1989
Sau sắc lệnh số 51, nhiều văn bản pháp luật về tố tụng dân sự được
ban hành. Luật tổ chức Tòa án ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1960 quy định

các Tòa án nhân dân được chia thành ba cấp Tòa án, gồm Tòa án nhân dân
cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao.
Trong thời kỳ này, các văn bản tố tụng là cơ sở cho hoạt động giải
quyết vụ án dân sự chủ yếu được ban hành dưới hình thức các công văn, chỉ
thị, điều lệ và đặc biệt là các thông tư do Tòa án nhân dân tối cao ban hành.
Đáng chú ý nhất là các văn bản sau: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1960,
Công văn số 03-NCPL ngày 03/03/1966 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn trình tự giải quyết việc ly hôn; Thông tư số 39-NCPL ngày 21/01/1972
của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp
những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp về dân sự; Thông tư số
06-TATC ngày 25/02/1974 của Tòa án nhân dân tối cao về công tác điều tra
trong tố tụng dân sự; Thông tư 09/TATC ngày 28/6/1974; Thông tư số 25-TATC
ngày 30/11/1974 của Tòa án nhân dân tối cao về công tác hòa giải trong tố
tụng dân sự; Công văn 96/NCPL ngày 08/02/1977 hướng dẫn về trình tự xét
xử sơ thẩm; Thông tư số 82/TATC ngày 07/01/1982 hướng dẫn thực hiện
thẩm quyền xét xử sơ thẩm về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động…của Tòa
án địa phương, Thông tư số 02/TTLN ngày 02/10/1985 của TANDTC - Bộ tư
pháp - Bộ lao động - Tổng cục dạy nghề. Trong các văn bản pháp luật này,
vấn đề phân định thẩm quyền giữa các Tòa án và phân định thẩm quyền trong
cùng một cấp Tòa án với nhau bắt đầu được quy định.
* Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1960 thì "Tòa án nhân dân cấp
huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương có
nhiệm vụ hòa giải những tranh chấp về dân sự…" [19, Điều 16].

21
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc
đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền: Sơ thẩm những vụ
án hình sự và dân sự do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của
các Tòa án đó và những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp dưới mà các Tòa án đó lấy lên để xét xử [19, Điều 18].

* Công văn số 03-NCPL, ngày 03/3/1966 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn trình tự giải quyết việc ly hôn đã chỉ ra những tư tưởng chỉ đạo và
các quy tắc cụ thể để phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án trong
những vụ án ly hôn. Theo thông tư này, tư tưởng chỉ đạo cho việc phân định
thẩm quyền theo lãnh thổ đối với các vụ án về ly hôn là "Tòa án có thẩm
quyền xét xử một vụ xin ly hôn là Tòa án có điều kiện tốt nhất để giải quyết
vụ kiện ấy, cụ thể là điều tra sát, hòa giải kịp thời, thuận tiện cho sự đi lại của
hai bên đương sự…" [30].
Theo tinh thần này, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn cụ thể về
cách phân định thẩm quyền sơ thẩm theo lãnh thổ đối với các vụ án ly hôn
như sau: Đối với những đôi vợ chồng sống chung với nhau, thì Tòa án có
thẩm quyền là Tòa án cơ sở nơi họ ở (trừ những trường hợp được quy định là
thuộc thẩm quyền của Tòa án trên); đối với những đôi vợ chồng sống riêng ở
hai địa phương khác nhau (cán bộ công tác xa nhà) quân nhân tại ngũ… thì
Tòa án có thẩm quyền là Tòa án cơ sở nơi quê quán chung của họ và là nơi
một bên hiện ở, hoặc nếu nơi này không phải là quê quán chung thì là nơi họ
đã sống chung lâu v.v…
Tòa án nhân dân tối cao cũng đã chỉ rõ rằng, Tòa án có thẩm quyền
xét xử một vụ ly hôn là Tòa án có điều kiện tốt nhất để giải quyết vụ kiện ấy,
cụ thể là điều tra sát, hòa giải kịp thời, thuận tiện cho sự đi lại của hai bên
đương sự, là một nguyên tắc căn bản để phân định thẩm quyền dân sự của
Tòa án theo lãnh thổ đối với các vụ án ly hôn. Theo tinh thần này, Tòa án
nhân dân tối cao đã hướng dẫn các Tòa án nhân dân địa phương như sau:

22
Trong những trường hợp khác, các Tòa địa phương sẽ vận dụng nguyên tắc
trên đây để giải quyết vấn đề thẩm quyền. Người xin ly hôn có thể gửi đơn
đến Tòa án nơi mình ở hoặc gửi đến Tòa án nơi chồng hoặc vợ mình ở. Tòa
án nào nếu nhận được đơn sẽ điều tra sơ bộ và căn cứ vào tình hình mà giữ lại
để giải quyết hoặc chuyển qua Tòa án kia với những tài liệu đã điều tra được

về phần của mình.
* Thông tư số 39-NCPL ngày 21/01/1972 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và
gia đình và tranh chấp về dân sự cũng đã có những quy định theo hướng mở
rộng nguyên tắc để phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với
các vụ án dân sự theo nơi ở, nơi cam kết, nơi phát sinh sự kiện:
Đối với những việc ly hôn, Công văn số 03-NCPL ngày
03/3/1966 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trình tự giải
quyết việc ly hôn đã hướng dẫn rõ những trường hợp Tòa án có
thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi vợ chồng sống chung, hoặc Tòa án
nơi ở của vợ, của chồng.
- Đối với việc tranh chấp về quyền sở hữu ruộng đất, nhà
cửa, Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có những tài sản đó.
- Đối với những tranh chấp về tiền bạc, đồ vật, Tòa án có
thẩm quyền là Tòa án nơi ở của bị đơn, hoặc nơi hai bên đã cam
kết, đã giao nhận tiền bạc, đồ vật.
- Đối với những tranh chấp về thừa kế, Tòa án có thẩm
quyền là Tòa án nơi phát sinh việc thừa kế và là nơi có những tài
sản chủ yếu của người chết để lại v.v…[31].
* Theo Thông tư 09/TATC ngày 28/6/1974 hướng dẫn các vụ ly hôn
ở vùng biên giới Việt - Trung có quy định "Nói chung, đối với các việc xin
ly hôn và tranh chấp khác có liên quan nói trên, Tòa án nhân dân của ta có

×