Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Phiên tòa phúc thẩm dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 108 trang )




I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




HONG TH BCH HI





PHIấN TềA PHC THM DN S THEO QUY
NH
CA B LUT T TNG DN S VIT NAM




luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2009







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



HOÀNG THỊ BÍCH HẢI




PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ THEO QUY
ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình





Hµ néi - 2009





MỤC LỤC



Trang

TRANG PHỤ BÌA


Lời cam đoan


MỤC LỤC


Danh mục các chữ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA PHÚC

THẨM DÂN SỰ
6
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm dân
sự
6
1.1.1.
Khái niệm phiên tòa phúc thẩm dân sự
6
1.1.2.
Đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm dân sự
10
1.1.3.
ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm dân sự
14
1.1.3.1.
ý nghĩa về mặt chính trị
15
1.1.3.2.
Ý nghÜa vÒ mÆt x· héi
16
1.1.3.3.
ý nghÜa vÒ mÆt ph¸p lý
17
1.2.
Các nội dung cơ bản của phiên tòa phúc thẩm dân sự
18
1.2.1.
Nguyên tắc tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự
18

1.2.2.
Các chủ thể trong phiên tòa phúc thẩm dân sự
20
1.2.3.
Phạm vi xét xử phúc thẩm dân sự
22
1.2.4.
Thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự
23


1.2.5.
Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm
25

Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN
SỰ
28
2.1.
Các quy định chung về phiên tòa phúc thẩm dân sự
28
2.1.1.
Một số nguyên tắc tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự
28
2.1.1.1.
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
28
2.1.1.2.
Nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

28
2.1.1.3.
Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể
28
2.1.1.4.
Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai
29
2.1.1.5.
Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân
sự
29
2.1.1.6.
Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
29
2.1.1.7.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
30
2.1.1.8.
Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự
30
2.1.2.
Các quy định về chủ thể trong phiên tòa phúc thẩm dân sự
31
2.1.2.1.
Các quy định về người tiến hành tố tụng tại phiên tòa phúc
thẩm dân sự
31
2.1.2.2.
Các quy định về người tham gia phiên tòa phúc thẩm dân sự

34
2.1.3.
Các quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm
36
2.2.
Các quy định về thủ tục phiên tòa phúc thẩm dân sự
38
2.2.1.
Các quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm dân sự
38
2.2.2.
Các quy định về thủ tục hỏi tại phiên tòa phúc thẩm dân sự
46
2.2.3.
Các quy định về tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm dân sự
52
2.2.4.
Các quy định về nghị án phúc thẩm
54


2.2.5.
Các quy định về tuyên án phúc thẩm
55
2.3.
Các quy định về quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm
57
2.3.1.
Quyền giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm
57

2.3.2.
Quyền sửa bản án sơ thẩm
57
2.3.3.
Quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án sơ
thẩm giải quyết lại vụ án
60
2.3.4.
Quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án
62

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM,
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
65
3.1.
Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
về phiên tòa phúc thẩm dân sự
65
3.1.1.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm
65
3.1.2.
Những tồn tại trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm
70
3.1.3.
Một số nguyên nhân của tồn tại trong việc thực hiện các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự

76
3.2.
Các yêu cầu hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự Việt Nam năm 2004 về phiên tòa phúc thẩm dân sự
78
3.2.1.
Yêu cầu nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm
79
3.2.2.
Yêu cầu mở rộng tranh tụng trong tố tụng dân sự
79
3.2.3.
Yêu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
80
3.2.4.
Yêu cầu về đổi mới hệ thống Tòa án
81
3.2.5.
Yêu cầu nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán
82
3.3.
Các giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân
82


sự Việt Nam năm 2004 về phiên tòa phúc thẩm dân sự

KẾT LUẬN
89


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
HĐTPTANDTC
: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
HĐXX
: Hội đồng xét xử
LTCTAND
: Luật tổ chức Tòa án nhân dân
LTCVKSND
: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
PLTTGQCVADS
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
PLTTGQCTCLĐ
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
VKS

: Viện kiểm sát
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới. Ngoài những thành tựu về
văn hóa - xã hội thì các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại và lao động cũng nảy sinh hết sức đa dạng và phức tạp,
trong đó các tranh chấp có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều. Việc giải
quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,
lao động góp phần bảo vệ trật tự và an ninh xã hội là nhiệm vụ quan trọng của
các cơ quan nhà nước, trong đó Tòa án nhân dân (TAND) giữ vai trò trung
tâm.
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã đề ra
nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp, trong đó nhấn mạnh đến việc phát
huy dân chủ, phát triển tranh tụng, đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi
ích hợp pháp của con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết đã xác định yêu cầu:
Nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, của Viện kiểm sát
tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào
chữa và người tham gia tố tụng khác… Khi xét xử Tòa án phải đảm
bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thật sự dân
chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu và
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn

diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị
cáo, các đương sự… [8].
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về
chiến lược cải cách tư pháp, trong đó có nhiệm vụ: "Xây dựng nền tư pháp trong


2
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động
tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành và có hiệu quả cao".
Vì vậy, việc ban hành, sửa đổi các quy định của pháp luật để xây dựng một
thủ tục tố tụng thống nhất, ổn định, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội
trong thời gian trước mắt cũng như trong tương lai là một trong những nhiệm
vụ cơ bản của cải cách tư pháp tại Việt Nam.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, ngày 15/6/2004 Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Bộ luật
Tố tụng dân sự (BLTTDS) thay thế Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự năm 1989 (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế (PLTTGQCVAKT) và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động (PLTTGQCTCLĐ). So với các Pháp lệnh trước, BLTTDS có nhiều
quy định mới, trong đó có cả những quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa
phúc thẩm vụ án dân sự. Việc tuân thủ các quy định này sẽ đảm bảo cho công
tác xét xử được toàn diện, khách quan và chính xác.
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp thẩm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp
dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Thông qua việc xét
xử phúc thẩm, một mặt Tòa án cấp trên trực tiếp sửa chữa những sai sót trong
công tác xét xử của Tòa án cấp dưới để đảm bảo cho vụ án được xét xử công
bằng, chính xác và đúng pháp luật; mặt khác, ở một mức độ nhất định còn
uốn nắn về nghiệp vụ và định hướng về đường lối xét xử cho hoạt động xét

xử của Tòa án cấp dưới. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định của BLTTDS
về xét xử phúc thẩm trong những năm qua cho thấy các quy định này còn
nhiều bất cập. Ngoài ra, do có nhiều nguyên nhân khác nhau, hiện tượng vi
phạm các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm vẫn còn xảy ra ở
nhiều nơi làm ảnh hưởng đến hiệu quả xét xử phúc thẩm, gây thiệt hại đến


3
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của
Nhà nước.
Những lý do trên cho thấy việc nghiên cứu về phiên tòa phúc thẩm
dân sự là hết sức cần thiết, nhất là trong điều kiện hiện nay khi chúng ta đang
đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Phiên tòa
phúc thẩm dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam" làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay, nhất là từ sau khi BLTTDS năm 2004 được ban hành
đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý, trong đó có đề cập đến
phiên tòa phúc thẩm như đề tài "Thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm và
giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao" của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), 2006; bài "Chế định
phúc thẩm vụ án dân sự" của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên đặc san
Tạp chí Luật học, 2005; bài "Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án như thế
nào khi Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập sai tư cách người tham gia tố tụng" của
tác giả Nguyễn Đình Huề đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/2005; bài
"Nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thực hiện quyền kháng nghị
phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự" của tác giả Đào Hữu
Đăng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 1/2005…; luận văn thạc sĩ: "Thủ tục giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật Việt Nam" của
tác giả Đào Duy Vương; luận văn thạc sĩ: "Các cấp xét xử trong tố tụng dân

sự Việt Nam" của tác giả Lê Thị Hà; bài "Tòa án cấp phúc thẩm cần gì ở Tòa
án cấp sơ thẩm" của tác giả Nguyễn Tuấn Minh đăng trên Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 6, 1990; "Một số quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân
sự" của tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 6,


4
2005… Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa
học pháp lý nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về phiên tòa phúc
thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2004.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận;
nội dung các quy định của pháp luật về phiên tòa phúc thẩm dân sự và thực
tiễn thực hiện, từ đó tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả của phiên tòa
phúc thẩm dân sự.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ
giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về phiên tòa phúc thẩm dân
sự;
- Phân tích các quy định của BLTTDS Việt Nam về phiên tòa phúc
thẩm dân sự.
- Khảo sát việc thực hiện các quy định của BLTTDS Việt Nam về
phiên tòa phúc thẩm dân sự tại Tòa án Việt Nam.
- Tìm ra những yêu cầu và các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm dân sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về phiên tòa
phúc thẩm dân sự; các quy định của BLTTDS về phiên tòa phúc thẩm dân sự
và thực tiễn xét xử phúc thẩm của các Tòa án; đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về cải cách hành chính và cải cách tư pháp ở nước ta.

Phiên tòa phúc thẩm dân sự là một đề tài rất rộng, bao gồm nhiều vấn
đề về lý luận cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi luận
văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: Khái


5
niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nội dung của phiên tòa phúc thẩm dân sự; nội
dung các quy định của BLTTDS Việt Nam về nguyên tắc tiến hành phiên tòa
phúc thẩm dân sự, các chủ thể tại phiên tòa phúc thẩm dân sự, thủ tục tiến
hành phiên tòa phúc thẩm, quyền hạn của Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc
thẩm; thực tiễn áp dụng và các giải pháp hoàn thiện chúng.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp so sánh, phương pháp lịch sử và phương pháp thống kê.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên có tính hệ
thống và toàn diện về phiên tòa phúc thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS
Việt Nam với những đóng góp mới cho khoa học pháp lý như sau:
- Luận văn đã làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về phiên tòa
phúc thẩm dân sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nội dung của phiên tòa
phúc thẩm dân sự.
- Phân tích làm rõ các quy định của BLTTDS Việt Nam về phiên tòa
phúc thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện.
- Chỉ ra những điểm còn bất cập của BLTTDS Việt Nam hiện hành về
phiên tòa phúc thẩm và đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện chúng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phiên tòa phúc thẩm dân sự


6
Chương 2: Nội dung các quy định của BLTTDS Việt Nam về phiên
tòa phúc thẩm dân sự
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS Việt Nam về
phiên tòa phúc thẩm dân sự, các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện.


7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA PHIÊN TÒA PHÚC
THẨM DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm phiên tòa phúc thẩm dân sự
Khái niệm "phiên tòa", đến nay chưa được văn bản pháp luật nào định
nghĩa. Trong tiếng Việt "phiên tòa" được Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học giải thích là "lần họp để xét xử của Tòa án" [46, tr. 779]. Tuy nhiên,
có thể hiểu đây là lần họp đặc biệt và các trình tự, thủ tục của lần họp này do
pháp luật về tố tụng quy định chặt chẽ mà ở đó HĐXX vụ án không thể tùy
tiện thêm, bớt các bước trong quá trình xét xử hoặc làm sai các trình tự này.
Nếu vi phạm các quy định đó, ít nhiều sẽ có ảnh hưởng đến kết quả xét xử.
"Xét xử" - hiểu theo nghĩa khái quát là việc "xem xét và xử các vụ
án" [46, tr. 1148]. Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, hoạt động xét xử của
Tòa án là hoạt động của các cá nhân có chức danh cụ thể (Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân) đại diện cho Tòa án được căn cứ vào pháp luật để xem xét
những vấn đề trong phạm vi luật định để đưa ra những quyết định có tính bắt

buộc. Việc xét xử của Tòa án tương ứng với tính chất của thủ tục xét xử vụ án
mà có các thủ tục diễn ra theo cấp xét xử như xét xử sơ thẩm được diễn ra tại
Tòa án cấp sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được diễn ra tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Mỗi thủ tục xét xử có một đặc thù riêng mang tính chất pháp lý khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt thì "phúc thẩm" là việc "Tòa án cấp trên xét
xử lại một vụ án do cấp dưới đã xử sơ thẩm mà có chống án" [46, tr. 1148].
Theo Từ điển Thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì "phúc
thẩm là xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, bị kháng nghị" [38, tr. 221].


8
Cả hai cách giải thích trên, theo tác giả là chưa thỏa đáng. Khái niệm
phúc thẩm có thể được hiểu ở các góc độ khác nhau, cả ở nghĩa hẹp và nghĩa
rộng. Theo nghĩa hẹp, khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu với một trong
các nghĩa sau: phúc thẩm là một giai đoạn trong tố tụng dân sự (giai đoạn
phúc thẩm); phúc thẩm là một chế định (chế định phúc thẩm) của tố tụng dân
sự; phúc thẩm là một thủ tục tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Theo nghĩa
rộng, khái niệm phúc thẩm được hiểu ở cả ba nghĩa nêu trên: phúc thẩm là
một giai đoạn, một chế định của tố tụng dân sự, đồng thời là một thủ tục xét
xử. Như vậy, xét về nội hàm thì khái niệm "phúc thẩm" là một khái niệm rộng
nhất, bao hàm các khái niệm hẹp hơn: "giai đoạn phúc thẩm", "chế định phúc
thẩm" và "thủ tục xét xử phúc thẩm".
Dưới góc độ là giai đoạn phúc thẩm, phúc thẩm được hiểu là một giai
đoạn của tố tụng dân sự, có tính độc lập và liên quan chặt chẽ với các giai
đoạn tố tụng khác. So với các giai đoạn tố tụng khác, phúc thẩm có một số
đặc trưng sau đây:
- Tính chất của phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại
vụ án;
- Nhiệm vụ trực tiếp của phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và có

căn cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị;
- Các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng ở giai đoạn phúc thẩm bao
gồm: Tòa án cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát (VKS) cấp phúc thẩm (trong
trường hợp bắt buộc phải tham gia); những người có quyền kháng cáo theo
quy định của pháp luật; những người liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và
những người tham gia tố tụng khác mà Tòa án cấp phúc thẩm thấy cần thiết
triệu tập tham gia phiên tòa. Ngoài ra, ở một mức độ nhất định, chủ thể tham
gia ở giai đoạn tố tụng này còn bao gồm cả Tòa án cấp sơ thẩm (trong việc
thông báo kháng cáo, kháng nghị, xác minh lí do kháng cáo quá hạn) và Viện


9
kiểm sát cấp sơ thẩm (trong việc kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật).
- Các thủ tục tố tụng được tiến hành ở giai đoạn phúc thẩm có những
đặc thù như Tòa án phải thông báo kháng cáo, kháng nghị; trước khi tiến hành
xét hỏi, một thành viên HĐXX tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án
sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị…
- Giai đoạn phúc thẩm là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử sơ
thẩm. Nó được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm được tuyên và kết thúc
khi bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc được thay thế bằng
bản án, quyết định phúc thẩm.
Giai đoạn phúc thẩm có thể dài, ngắn khác nhau tùy thuộc vào việc
kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể và quá trình giải quyết đối với từng vụ
án cụ thể. Ví dụ, đối với vụ án được xét xử trong trường hợp có mặt đầy đủ
những người có quyền kháng cáo tại phiên tòa sơ thẩm, thì giai đoạn phúc
thẩm sẽ kết thúc, nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm theo quy
định (30 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm) không có ai kháng cáo, kháng
nghị vì thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với những người có mặt được tính

kể từ ngày tuyên án. Còn những vụ án xét xử trong trường hợp có đương sự
vắng mặt thì giai đoạn phúc thẩm sẽ kết thúc, nếu hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị mà không có ai kháng cáo, VKS không kháng nghị. Tuy nhiên,
thời gian không phải là 30 ngày kể từ ngày tuyên án mà có thể dài hơn vì nó
phụ thuộc vào thời điểm người có quyền kháng cáo được tống đạt hợp lệ bản
án, quyết định. Đối với trường hợp vụ án tuy có kháng cáo hoặc kháng nghị,
nhưng sau đó người đã kháng cáo hoặc VKS kháng nghị rút toàn bộ kháng
cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa, thì giai đoạn phúc thẩm sẽ kết thúc ở
thời điểm Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm
vụ án. Còn đối với các vụ án khác thì giai đoạn phúc thẩm kết thúc sau khi
tuyên án phúc thẩm.


10
Dưới góc độ là chế định phúc thẩm, phúc thẩm được hiểu là một hệ
thống những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong quá trình giải quyết lại vụ án trong trường hợp bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị. Chế định phúc thẩm bao gồm các quy phạm pháp luật quy định về thủ
tục kháng cáo, kháng nghị; thời hạn kháng cáo, kháng nghị; HĐXX phúc
thẩm; những người tham gia phiên tòa phúc thẩm; phạm vi xét xử phúc thẩm;
thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm v.v Các quy phạm pháp luật này
không chỉ bao gồm các quy định trong BLTTDS mà còn bao gồm cả các quy
định trong các văn bản pháp luật khác như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân
(LTCTAND), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (LTCVKSND).
Dưới góc độ là thủ tục xét xử phúc thẩm, phúc thẩm được hiểu là một
trong những hình thức giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa
án cấp dưới. Thủ tục xét xử phúc thẩm đối với một vụ án chỉ phát sinh khi
bản án, quyết định sơ thẩm về vụ án đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo
quy định của pháp luật. Vì vậy, không phải tất cả các vụ án dân sự sau khi xét

xử sơ thẩm đều được xem xét lại theo thủ tục này. Thủ tục phúc thẩm sẽ kết
thúc sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó.
Như vậy, giai đoạn phúc thẩm là một phần của quá trình tố tụng dân
sự được phân biệt với những phần khác bởi những đặc điểm riêng. Thủ tục
xét xử phúc thẩm là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để
tiến hành giải quyết vụ án tại giai đoạn phúc thẩm. Thời điểm bắt đầu của giai
đoạn phúc thẩm là cố định, không thay đổi và diễn ra trước thủ tục xét xử
phúc thẩm: ngay sau khi tuyên bản án (quyết định) sơ thẩm. Thủ tục xét xử
phúc thẩm có phát sinh hay không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể có
quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật và được xác định từ
thời điểm Tòa án nhận được đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị. Thời
điểm kết thúc của giai đoạn phúc thẩm và thời điểm kết thúc của thủ tục xét
xử phúc thẩm chỉ trùng nhau trong trường hợp vụ án có kháng cáo hoặc kháng


11
nghị: ngay sau khi tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định phúc
thẩm. Đối với vụ án không có kháng cáo hoặc kháng nghị, thủ tục phúc thẩm
không phát sinh. Vì vậy, không có thời điểm bắt đầu và kết thúc thủ tục xét
xử phúc thẩm.
Thủ tục xét xử phúc thẩm bao gồm các công việc khác như: kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, chuẩn bị xét xử phúc thẩm, phiên tòa
phúc thẩm, những việc tiến hành sau phiên tòa phúc thẩm. Phiên tòa phúc
thẩm là một trong những việc nằm trong thủ tục xét xử phúc thẩm. Theo Điều
242 BLTTDS quy định: "Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp
xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị" [2].
Như vậy, có thể đi đến kết luận: Phiên tòa phúc thẩm dân sự là phiên
họp của Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án dân sự đã được Tòa án cấp
dưới giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng

bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm xác định tính hợp pháp và tính có căn cứ
của bản án, quyết định đó.
1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm dân sự
Trong tố tụng dân sự có phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, phiên
tòa giám đốc thẩm và phiên tòa tái thẩm. Mỗi phiên tòa có những đặc điểm,
nhiệm vụ và ý nghĩa riêng. Việc nghiên cứu làm rõ các đặc điểm của phiên
tòa phúc thẩm dân sự là rất cần thiết. Từ đó thấy được vị trí, vai trò của chúng
trong tố tụng dân sự. Qua việc nghiên cứu đề tài cho thấy phiên tòa phúc thẩm
dân sự có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, phiên tòa phúc thẩm dân sự là phiên của Tòa án xét xử lại
vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị. Đặc điểm này thể hiện tính chất đặc thù của phúc thẩm dân sự là
một cấp xét xử. Tuy vậy, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đền này.


12
Ý kiến thứ nhất cho rằng, phúc thẩm không phải là một cấp xét xử mà
chỉ là một thủ tục tố tụng mà theo đó, Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại các bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Do
vậy phiên tòa phúc thẩm cũng chỉ là một thủ tục tố tụng, chỉ là việc "xét lại"
chứ không phải là "xét xử lại".
Ý kiến thứ hai cho rằng, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ có nhiệm vụ
kiểm tra hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn xét xử cả về nội dung vụ án. Vì
vậy, đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm không phải là "xét lại" mà là "xét xử
lại" các vụ án mà quyết định, bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị.
Thực chất sự khác nhau giữa hai quan điểm nêu trên chủ yếu ở chỗ
xác định phúc thẩm có phải là một cấp xét xử hay không? Từ đó xác định
phiên tòa phúc thẩm có phải là một thủ tục của một cấp xét xử hay không? Để
lý giải hai quan điểm nêu trên, cần thiết đi từ "nguyên tắc hai cấp xét xử".

Phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng nhằm đảm bảo thực hiện nguyên
tắc xét xử hai cấp. Đây là giai đoạn nhằm mục đích để cho đương sự, người
đại diện của đương sự thực hiện quyền kháng cáo, VKS thực hiện quyền
kháng nghị đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật yêu cầu Tòa
án cấp trên trực tiếp xem xét lại vụ án. Quyền kháng cáo của đương sự là biểu
hiện cụ thể của quyền dân chủ công dân được pháp luật bảo vệ. Do đó, dù
bản án, quyết định dân sự sơ thẩm được coi là xét xử đúng, nhưng nếu có
kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp trên vẫn phải tiến hành thủ tục phúc
thẩm dân sự để kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án,
quyết định sơ thẩm.
Sự hình thành và phát triển nguyên tắc "hai cấp xét xử" cùng với các
nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự gắn liền với sự hình thành và phát triển
của các tư tưởng dân chủ và tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Để đảm
bảo dân chủ và công bằng, bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của


13
công dân, đồng thời tạo sự thống nhất ở mức độ nhất định trong nhận thức và
áp dụng pháp luật giữa các Thẩm phán, các cấp Tòa án với nhau, cần thiết
phải có một thủ tục tố tụng xem xét lại các phán quyết chưa có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp dưới khi có yêu cầu (kháng cáo) của các đương sự hoặc
yêu cầu (kháng nghị) của VKS. Như vậy, trong tố tụng dân sự nguyên tắc "hai
cấp xét xử" ra đời và Tòa án thực hiện nhiệm vụ này là Tòa án cấp phúc thẩm.
Nguyên tắc "hai cấp xét xử" và tính chất xét xử lại của phúc thẩm đã
được ghi nhận ngay trong các văn bản pháp luật đầu tiên do Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ban hành. Trong Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946
quy định về sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án đã quy định: Tòa
án đệ nhị cấp có thẩm quyền phúc thẩm đối với các bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án Thượng thẩm có quyền chung thẩm các bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án đệ nhị cấp. Tại Thông tư số 1459/HCTP của

Bộ Tư pháp ngày 19/8/1955 nhấn mạnh: "Nguyên tắc hai cấp xét xử là một
trong những nguyên tắc tố tụng của nhân dân cần phải được bảo đảm". Điều 9
LTCTAND năm 1960 quy định "Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp
xét xử". Tại Mục III công văn số 614/DS ngày 24/4/1963 của TANDTC về
việc vi phạm thủ tục tố tụng có hướng dẫn "Một trong những nguyên tắc cơ
bản của Tòa án là hai cấp xét xử, đương sự có quyền chống bản án của TAND
xử sơ thẩm lên TAND trên một cấp, VKS nhân dân cùng cấp và trên một cấp
có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm của TAND". Thông tư số 19/TATC
ngày 02/10/1974 của TANDTC quy định rõ về chức năng của Tòa án cấp
phúc thẩm là "xét xử lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ thẩm khi
bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị".
Trong LTCTAND năm 1981 và LTCTAND năm 1992, mặc dù
nguyên tắc hai cấp xét xử không chính thức được ghi nhận lại, nhưng trên
thực tế nguyên tắc này vẫn được thừa nhận và Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xét
xử lại vụ án về mặt nội dung. Đến khi LTCTAND năm 2002 được ban hành


14
nguyên tắc "Tòa án nhân dân thực hiện chế độ hai cấp xét xử" lại được tiếp tục
ghi nhận tại Điều 11. Hiện tại Điều 17 BLTTDS năm 2004 cũng đã ghi nhận
nguyên tắc này.
Thứ hai, phiên tòa phúc thẩm trong tố tụng dân sự là việc Tòa án xét
xử lần thứ hai vụ án dân sự khi bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị. Nếu như phiên tòa sơ thẩm là việc Tòa án xét xử lần đầu vụ án
dân sự thì phiên tòa phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên xét xử lần thứ hai đối
với vụ án. Không giống như trong phiên tòa sơ thẩm, việc xét xử xuất phát từ
yêu cầu khởi kiện vụ án dân sự của nguyên đơn, phiên tòa phúc thẩm trong tố
tụng dân sự được tiến hành trên cơ sở đơn kháng cáo của các đương sự hoặc
quyết định kháng nghị của VKS trong thời hạn pháp luật quy định.
Thứ ba, phiên tòa phúc thẩm trong tố tụng dân sự do Tòa án cấp trên

trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án tiến hành. Nếu như, việc phân
định thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm được dựa vào tiêu chí tính
chất, loại vụ việc thì việc phân định thẩm quyền xét xử của án cấp phúc thẩm
dựa trên tiêu chí cấp Tòa án. Vì vậy, phiên tòa phúc thẩm luôn được tiến hành
bởi Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã tiến hành xét xử sơ thẩm. Theo
quy định của Hiến pháp, LTCTAND thì nước ta có ba cấp Tòa án thực hiện
việc xét xử, đó là: Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh và TANDTC. Do đó,
Tòa án thực hiện việc xét xử phúc thẩm luôn là Tòa án cấp tỉnh trở lên. Tòa
án cấp huyện chỉ thực hiện nhiệm vụ xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự.
Thứ tư, nội dung của việc xét xử phúc thẩm là HĐXX phúc thẩm kiểm
tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm. Đây là đặc điểm rất
khác biệt của phiên tòa phúc thẩm với phiên tòa sơ thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Nếu như, nội dung của việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm là kiểm tra tính
có căn cứ và tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu
phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, nội dung của việc xét xử tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm là xét lại


15
tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị thì nội
dung của việc xét xử tại phiên tòa phúc thẩm lại nhằm kiểm tra tính hợp pháp
và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm. Nghĩa là, xem xét việc chấp nhận toàn
bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận các yêu cầu của bản án sơ
thẩm là có căn cứ thực tế hay không? Có đúng quy định của pháp luật nội
dung hay không? Việc ra bản án, quyết định có theo thủ tục pháp luật quy
định hay không?
1.1.3. Ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm dân sự
Trong quan hệ dân sự, khi một chủ thể có quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm mà tự mình không bảo vệ được thì có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa
án bảo vệ. Theo Hiến pháp, LTCTAND thì Tòa án là cơ quan duy nhất thực

hiện chức năng xét xử, có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp dân sự. Hành
vi khởi kiện tại Tòa án của cá nhân, cơ quan, tổ chức là sự kiện pháp lý tiền
đề làm phát sinh vụ án dân sự. Khi một chủ thể khởi kiện vụ án dân sự và việc
quy định Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử, giải quyết các tranh
chấp dân sự, mục đích đều hướng tới sự công bằng, cả chủ thể có quyền, lợi
ích cần được bảo vệ và Nhà nước đều mong muốn rằng Tòa án - cơ quan công
quyền có quyền nhân danh nhà nước thực hiện chức năng xét xử ra các phán
quyết công bằng, trả lại cho các chủ thể tham gia quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Thực chất của tố tụng dân sự là quá trình Tòa án giải quyết các mâu
thuẫn về quyền và lợi ích của các chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung.
Mục đích của tố tụng dân sự là nhằm lập lại trật tự của quan hệ pháp luật có
tranh chấp trên cơ sở các nguyên tắc tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể và lợi ích của Nhà nước.
Quá trình Tòa án thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
thông qua các giai đoạn khác nhau, như nhận đơn khởi kiện, thụ lý vụ án,
chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.


16
Mỗi giai đoạn đều có tính độc lập tương đối, có mục đích, đặc điểm và ý
nghĩa riêng. Ví dụ, ở giai đoạn sơ thẩm, phiên tòa dân sự sơ thẩm có ý nghĩa
quan trọng, là phiên xử đầu, là nơi quyền và nghĩa vụ của các đương sự được
Tòa án ghi nhận chính thức trong các bản án, quyết định của Tòa án [13, tr.
42]. Thông qua phiên tòa sơ thẩm, việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật,
phổ biến pháp luật được thực hiện đến những người tham dự phiên tòa. Tuy
nhiên, ý nghĩa giáo dục, phổ biến pháp luật được thể hiện rất rõ nét (hơn cả)
tại phiên tòa phúc thẩm. Với quy định bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật
kể từ ngày tuyên án [2, tr. 81], thì việc áp dụng các quy định của tố tụng dân
sự trong xét xử tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự có ý nghĩa đặc biệt cả về

chính trị, xã hội và pháp lý.
1.1.3.1. Ý nghĩa về mặt chính trị
Qua việc xét xử vụ án dân sự tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử
phúc thẩm khắc phục những sai lầm có thể có trong bản án, quyết định chưa
có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo đảm cho quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể được thực hiện trong thực tế, góp phần bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Bằng phán quyết của mình, HĐXX cũng có thể giữ
nguyên quyết định của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật nếu quyết định đó là đúng pháp luật, một lần nữa khẳng
định tính đúng đắn, nghiêm túc của bản án, quyết định sơ thẩm.
Trong xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, của
cộng đồng được bảo vệ thì trật tự chính trị, trật tự xã hội mới có cơ sở được
ổn định. Trong một quốc gia, pháp luật được tôn trọng là tiền đề để xây dựng
một nhà nước pháp quyền vững mạnh. Bởi vì, trong nhà nước pháp quyền, hai
vấn đề cơ bản cần được bảo đảm duy trì là dân chủ và quyền lực nhà nước
trong đó vai trò của pháp luật được đề cao. Đòi hỏi của nhà nước pháp quyền
là phải tạo được ý thức cao trong pháp luật hay quản lý xã hội, quản lý nhà
nước; xác định đúng đắn trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân, tính


17
hợp hiến của thể chế, tổ chức, chính sách và toàn bộ hệ thống pháp luật và
vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước. Với việc xét xử lại vụ án, phiên tòa phúc
thẩm góp phần khắc phục được những thiếu sót có thể có của bản án, quyết
định sơ thẩm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, bảo đảm sự
hài hòa về lợi ích giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước.
Thông qua các phán quyết chính xác, khách quan và đúng pháp luật của Tòa
án cấp phúc thẩm, quan điểm của Nhà nước đấu tranh với việc xử lý hành vi
không đúng pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
khác được quán triệt, thực hiện trong công tác xét xử của Tòa án. Trên cơ sở

bản án, quyết định phúc thẩm, các sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm được khắc phục. Từ đó không những
giúp bản thân đương sự tự ý thức được những xử sự mà họ đã thực hiện là
phù hợp với quy định của pháp luật hay không mà còn bảo đảm được sự quan
tâm của Nhà nước đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, thực hiện Nhà
nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, góp
phần nâng cao được địa vị chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
1.1.3.2. Ý nghĩa về mặt xã hội
Đối với phiên tòa phúc thẩm dân sự, nguyên tắc xét xử công khai vẫn
được áp dụng triệt để như phiên tòa sơ thẩm dân sự. Trong trường hợp xét xử
kín, bản án vẫn phải tuyên công khai. Do vậy, tính minh bạch của các phán
quyết được thể hiện triệt để. Với thành phần HĐXX gồm 3 Thẩm phán là những
người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ xét xử, sự am hiểu pháp luật mang
tính chuyên sâu nên các phán quyết của HĐXX phúc thẩm về logíc sẽ bảo
đảm tính chính xác, đúng pháp luật và có độ tin cậy cao. Qua đó sẽ nâng cao
được sự tín nhiệm của người dân đối với Tòa án - cơ quan nhân danh Nhà
nước thực hiện chức năng xét xử.


18
Sự công bằng, bình đẳng trong tố tụng dân sự là một nguyên tắc cơ
bản trong tố tụng dân sự Việt Nam. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, trước Tòa án, không phân biệt nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng,
không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề
khác. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự,
Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình [2, tr. 11-12]. Sự công bằng, bình đẳng tại phiên tòa dân sự phúc
thẩm không chỉ là nguyên tắc cơ bản mà còn là mục tiêu xuyên suốt quá trình

xét xử. Sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật đang
có tranh chấp là việc bình đẳng trong địa vị tố tụng, bình đẳng trong cung cấp
chứng cứ, trong các quyền yêu cầu đối với Tòa án hoặc các cơ quan, tổ chức
liên quan. Phiên tòa phúc thẩm xem xét lại vụ án một cách công khai, mọi
công dân đều có quyền tham dự, mọi yêu cầu, chứng cứ đều được xem xét,
các phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị đều được
đưa ra xem xét, tranh luận công khai, các chủ thể có liên quan đều có quyền
đưa ra quan điểm của mình về các phán quyết đó. Thông qua các ý kiến tranh
luận công khai, xem xét các chứng cứ công khai, giải thích pháp luật của
HĐXX phúc thẩm (qua bản án, quyết định), những người tham dự phiên tòa,
người tham gia tố tụng hiểu biết thêm về pháp luật, nhận thức đầy đủ hơn về
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, nâng cao ý thức
pháp luật cho nhân dân, củng cố thêm niềm tin của nhân dân vào đường lối
lãnh đạo của Đảng và của Nhà nước.
1.1.3.3. Ý nghĩa về mặt pháp lý
Về mặt pháp lý, phiên tòa phúc thẩm dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với việc giải quyết vụ án dân sự. Thông qua việc xét xử phúc thẩm
tại phiên tòa, Tòa án cấp trên có thể kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án cấp
dưới, sửa chữa được những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án cấp dưới,
bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên là hợp pháp và có căn cứ.

×