Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 99 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN PHƯƠNG HẠNH





QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ VIỆT NAM NĂM 2004




luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc







Hµ néi - 2010





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT



NGUYỄN PHƯƠNG HẠNH




QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ VIỆT NAM NĂM 2004

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình





Hµ néi - 2010






MC LC



Trang

Trang ph bỡa


Li cam oan


Mc lc


M U
1

Chng 1: Nhng vn lý lun v quyn t nh ot ca ng s
trong t tng dõn s
6

1.1.
Khỏi nim, bn cht v ý ngha ca quyn t nh ot ca
ng s trong t tng dõn s
6
1.1.1.
Khỏi nim quyn t nh ot ca ng s trong t tng
dõn s
6
1.1.2.
Bn cht quyn t nh ot ca ng s trong t tng dõn s
11
1.1.3.
ý ngha quyn t nh ot ca ng s trong t tng dõn s
12
1.1.3.1.
ý ngha v mt xó hi
12
1.1.3.2.
ý ngha v mt phỏp lý
13
1.1.3.3.
í nghĩa về mặt kinh tế
14
1.2.
Cơ sở của quyền tự định đoạt của đ-ơng sự trong tố tụng
dân sự
14
1.2.1.
C s lý lun ca quyn t nh ot ca ng s trong t
tng dõn s

14
1.2.2.
C s thc tin ca quyn t nh ot ca ng s trong
t tng dõn s
15
1.3.
Ni dung quyn t nh ot ca ng s
19
1.4.
S phỏt trin cỏc quy nh v quyn t nh ot ca ng
s trong t tng dõn s ca phỏp lut t tng dõn s Vit
Nam t nm 1945 n nay
21


1.4.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
21
1.4.2.
Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989
23
1.4.3.
Giai đoạn từ năm 1989 đến 2005
24
1.4.4.
Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
27

Chương 2: Nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng năm 2004 về
quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

30
2.1.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu
30
2.1.1.
Quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết
việc dân sự
30
2.1.2.
Quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập có liên quan
tới vụ án mà Tòa án đang giải quyết
35
2.2.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ
sung, rút yêu cầu
41
2.3.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải
quyết vụ việc dân sự
47
2.4.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo,
khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án
50

Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự và kiến Nghị
58
3.1.

Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự
58
3.1.1.
Tình hình thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự
58
3.1.2.
Nguyên nhân của hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự Việt Nam
66
3.1.2.1.
Về hệ thống quy phạm pháp luật tố tụng dân sự liên quan
66


đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
3.1.2.2.
Việc giáo dục, tuyên truyền phổ biến pháp luật chưa được
sâu rộng trong nhân dân
71
3.1.2.3.
Nguyên nhân về phía ngành Tòa án
72
3.2.
Một số kiến nghị hoàn thiện và thực hiện các quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự
73

3.2.1.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự về quyền tự định đoạt của đương sự
73
3.2.2.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật tố tụng dân
sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân
83
3.2.3.
Khắc phục những hạn chế, thiếu sót từ phía ngành Tòa án
nhằm nâng cao chất lượng xét xử và đảm bảo cho đương sự
thực hiện tốt quyền tự định đoạt của mình
84

kết luận
85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, Nhà nước ta
đã và đang có những hoạt động tích cực trong công cuộc cải cách tư pháp

nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và công dân. Hiện nay, trong xu hướng hội nhập toàn cầu thì
vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia các
quan hệ trong xã hội ngày càng được quan tâm, Nhà nước với tư cách là một
chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã hội đã ban hành rất nhiều văn bản
pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội bảo
vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội
khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 15/6/2004 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2005 quy định khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự như các
nguyên tắc của tố tụng dân sự, chứng cứ và chứng minh, thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự là một công cụ
pháp lý quan trọng bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh tế và lao động được nhanh chóng, kịp thời, công bằng, đúng
pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và
xã hội. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện Bộ luật này cho thấy còn có
nhiều vướng mắc và bất cập trong đó có cả các quy định về quyền tự định
đoạt của đương sự. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quyền tự
định đoạt của đương sự, các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về
vấn đề này và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án của Việt Nam là cần


2
thiết. Việc nghiên cứu này sẽ góp phần đưa ra những giải pháp hoàn thiện
pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự, tháo gỡ những bất cập, vướng
mắc phát sinh từ thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự, bảo
đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà
nước và xã hội.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài "Quyền tự định đoạt của

đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004"
làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý
được công bố có đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam. Cụ thể là một số công trình sau đây:
- Công trình nghiên cứu cấp Bộ: "Một số vấn đề về cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự", do Tòa án nhân dân tối
cao thực hiện năm 1996;
- Luận án tiến sĩ luật học: "Xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn", do nghiên cứu sinh Phan Hữu Thư thực hiện năm 2001;
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự", do học viên Nguyễn Tiến Trung thực hiện năm 1997.
- Các sách chuyên ngành đã xuất bản: Giáo trình Luật tố tụng dân sự
của Học viện Tư pháp, do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2007;
Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, do
Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2009; Pháp luật tố tụng dân sự
và thực tiễn xét xử của tác giả Tưởng Duy Lượng, do Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia xuất bản năm 2009.
- Các bài viết đăng trên các tạp chí có bài "Nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự" của tác giả Phạm Hữu Nghị, đăng


3
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2000; "Về nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự" của tác giả Lê Minh Hải, đăng
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 4/2009; "Nguyên tắc quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam"
của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
5/2005; "Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ

thẩm" của tác giả Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
9/2007; "Sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự" của
tác giả Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật học, số 8/2007…
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học pháp lý nào
nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Ngay cả luận văn thạc sĩ luật học "Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự" của học viên Nguyễn Tiến Trung là công trình nghiên cứu có đề
cập trực tiếp đến vấn đề này nhưng do công trình này được nghiên cứu trước
khi Nhà nước ta ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nên cũng chỉ phân
tích một số vấn đề có liên quan đến chúng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn lý luận về quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn
thực hiện các quy định này tại Tòa án. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến
hành đối với các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan để so sánh, tham
khảo.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một vấn đề
lớn, có nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ
luật học, việc nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi quyền tự định đoạt của
đương sự trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,


4
kinh doanh thương mại và lao động tại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp
phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 với các nội
dung cụ thể như quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện, đưa ra
yêu cầu, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; thỏa thuận giải quyết vụ án dân sự,
khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.

4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, làm rõ
nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định
đoạt của đương sự và đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện và thực hiện tốt các
quy định này tại Tòa án.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ
nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự như
khái niệm, bản chất, ý nghĩa, cơ sở và nội dung của quyền tự định đoạt của
đương sự, phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về
quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và
khảo sát thực tiễn việc thực hiện các quy định này tại các Tòa án từ đó đánh
giá, nhận diện được những bất cập của chúng và tìm ra các giải pháp khắc
phục.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
đường lối của Đảng, Nhà nước ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước và pháp luật.
Quá trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic… để
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.


5
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ về
những vấn đề liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nên có những điểm
mới khoa học sau:

- Hoàn thiện khái niệm, làm rõ bản chất, ý nghĩa và cơ sở của quyền
tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự;
- Xác định nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
- Đánh giá đúng thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự tại các Tòa án.
- Đề xuất được một số kiến nghị về việc hoàn thiện và thực hiện các
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự trong bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc sửa đổi, hoàn thiện các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự và thực hiện chúng tại các Tòa án. Ngoài ra, luận văn còn
là tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập về pháp luật tố tụng dân sự ở
các cơ sở đào tạo Luật học tại Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự.


6
Chương 2: Nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị.



7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật
Hà Nội thì quyền tự định đoạt của đương sự là:
Quyền tố tụng dân sự của đương sự tự quyết định việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án… Trong tố tụng dân
sự đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; rút đơn khởi kiện, thay đổi
yêu cầu khi khởi kiện; hòa giải với đương sự phía bên kia [33, tr.
224].
Theo TS. Nguyễn Công Bình thì "quyền tự định đoạt của đương sự là
quyền của đương sự trong việc tự quyết định về quyền, lợi ích của họ và lựa
chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó" [34, tr. 49].
TS. Nguyễn Ngọc Khánh cho rằng quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự "… thể hiện ở khả năng của những người tham gia tố tụng tự do
định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền, phương tiện tố tụng nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại" [6, tr. 57].
Xét về lợi ích thì chính các đương sự trong tố tụng dân sự là chủ thể
có quyền, lợi ích trong vụ việc dân sự cần giải quyết nên đương sự hoàn toàn
có quyền tự do quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ,


8

quyết định quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Khi có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm việc khởi kiện hay không khởi kiện là do đương sự
tự quyết định. Sau khi khởi kiện, có thay đổi nội dung khởi kiện hay không,
có thỏa thuận giải quyết việc kiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của các đương sự; điều này đã thể hiện đương sự hoàn toàn có quyền chủ
động trong việc giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp hoặc các vấn đề có
liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ thụ lý để giải quyết vụ
việc dân sự khi đương sự có đơn yêu cầu nhằm bảo đảm cho đương sự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.
Như vậy, về lý luận thì các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm
khác nhau về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Tuy vậy,
theo các quan niệm này và theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 thì quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thể hiện:
Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án
có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết
vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong
phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu
của mình hoặc thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân
sự một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội [16].
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền tự
quyết định về phương diện tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm và quyền tự định đoạt này được thực hiện
trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nên nó có mối liên hệ trực tiếp
đến hoạt động của Tòa án và ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng, bị chi phối bởi những
quyết định của Tòa án. Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của các chủ thể và có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự định



9
đoạt của các đương sự. Tuy nhiên, việc định đoạt của đương sự phải được tiến
hành trong khuôn khổ mà luật pháp cho phép, sao cho không xâm hại tới các
quyền tố tụng và quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác hoặc lợi ích
của Nhà nước và xã hội.
Có thể thấy rằng, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc
thù của các đương sự được thừa nhận trong pháp luật tố tụng của nhiều nước
trên thế giới. Quyền năng này có nguồn gốc từ quyền tự do, tự nguyện cam
kết thỏa thuận trong các quan hệ dân sự. Ở nước ta, quyền tự định đoạt của
đương sự được coi là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, là nền tảng
để xây dựng các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân
sự.
Quyền tự định đoạt của đương sự phản ánh bản chất của các quan hệ
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Đó là các
quan hệ xã hội được xác lập trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận. Các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại, lao động là hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng. Vì
vậy, quyền tự định đoạt của các bên trong việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ các quan hệ này cũng được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện
trên thực tế. Theo đó, để phù hợp với các quy định của pháp luật nội dung về
các quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động
pháp luật phải ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Thực tế, khi nói đến khái niệm "quyền" thì nội hàm của nó đã bao
hàm cả tính "tự định đoạt" của chủ thể có quyền, nhưng không phải trong mọi
trường hợp thuộc tính "tự định đoạt" cũng được phản ánh đầy đủ trong phạm
vi quyền. Điều này còn phụ thuộc vào quyền năng đó của chủ thể được thực
hiện trong lĩnh vực quan hệ pháp luật nào như: quan hệ pháp luật dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, quan hệ pháp luật hành
chính hay quan hệ pháp luật hình sự… Chỉ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân



10
và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động thì quyền "tự định đoạt" của chủ
thể mới được sử dụng rộng rãi và sâu sắc. Thuộc tính "tự định đoạt" của chủ thể
được biểu hiện thông qua các hành vi quyết định về quyền lợi của mình trong
các quan hệ được thiết lập trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam
kết, thỏa thuận. Mặt khác, khi nói đến quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự là muốn nhấn mạnh tới quyền của đương sự trong việc tự quyết
định việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình trước Tòa án trong suốt quá trình của tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, quyền tự định đoạt còn thể hiện ở chỗ các đương sự cũng có thể
ủy quyền cho người khác thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ
của mình, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các đương sự.
Nói đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thì
không thể không đề cập đến phạm vi của quyền này, theo đó các đương sự chỉ
có quyền định đoạt những vấn đề thuộc phạm vi đã được pháp luật ghi nhận
và bảo vệ. Mặc dù quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là sự
thể hiện tự do ý chí của đương sự trong việc giải quyết tranh chấp, nhưng
đương sự không được thể hiện ý chí tự định đoạt một cách tùy tiện mà phải
thực hiện trong một khuôn khổ nhất định do pháp luật quy định. Có nghĩa là
quyền tự định đoạt của đương sự không phải là vô hạn định mà phải được giới
hạn bởi pháp luật, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể khác.
Quyền tự định đoạt này phải đặt trong mối tương quan với nghĩa vụ của
đương sự với các chủ thể khác và phải được đặt trong mối quan hệ với trách
nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội.
Qua việc nghiên cứu cho thấy quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự có những đặc trưng sau:
- Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền về hình
thức được thực hiện trong tố tụng dân sự, được quyết định bởi các quyền nội
dung trong các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh



11
thương mại và lao động. Vì vậy, về nguyên tắc thì quyền tự định đoạt trong tố
tụng dân sự chỉ thuộc về các chủ thể có quyền lợi trong các quan hệ pháp luật
nội dung hoặc các chủ thể được đương sự ủy quyền. Tuy nhiên, trong những
trường hợp đương sự là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để thực
hiện quyền tự định đoạt của mình thì quyền định đoạt này sẽ được thực hiện
thông qua hành vi tố tụng của các chủ thể đại diện được pháp luật cho phép.
- Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự được thể hiện
thông qua một hệ thống các quyền tố tụng dân sự mà theo đó trong suốt quá
trình tố tụng các đương sự có thể quyết định sử dụng để định đoạt về quyền,
lợi ích hợp pháp của mình trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
- Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có mối quan
hệ biện chứng với quyền công dân và chỉ thực sự được bảo đảm thực hiện khi
được quy phạm pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận và bảo vệ.
- Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền chủ
quan được thực hiện theo ý chí của đương sự có quyền đồng thời cũng là một
quyền khách quan được pháp luật quy định và chủ thể có quyền phải thực
hiện quyền của mình theo khuôn khổ mà pháp luật cho phép. Do vậy, việc
đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình không được xâm hại tới
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, quyền lợi của Nhà nước và xã
hội.
- Trong tố tụng dân sự thì hoạt động của Tòa án có vai trò quyết định
đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Việc thực hiện được quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự một phần được quyết định thông qua
các hoạt động tố tụng của Tòa án. Vì vậy, pháp luật cần quy định về trách
nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương
sự.



12
Từ những vấn đề nêu trên có thể đưa ra kết luận: Quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền tố tụng dân sự của đương sự
được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, theo đó đương sự được tự mình
lựa chọn quyết định các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
1.1.2. Bản chất quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thì bản chất là phạm trù chỉ
sự tổng hợp tất cả các mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên
trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Bản chất quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thể hiện ở những mặt sau đây:
- Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là các quyền
được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, có nguồn gốc từ các
quyền về dân sự (theo nghĩa rộng) do pháp luật nội dung quy định. Do đó, nội
dung của quyền dân sự quyết định quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự. Nếu các quyền dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự
không được xác lập hoặc không được pháp luật nội dung thừa nhận thì các
quyền tố tụng của đương sự cũng sẽ không tồn tại trên thực tế. Các quyền tố
tụng chỉ phản ánh các quyền trong pháp luật nội dung. Điều này phù hợp với
lý luận của phép duy vật biện chứng đó là nội dung quyết định hình thức và
hình thức là sự phản ánh nội dung, phù hợp với nội dung.
- Quyền tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự thể hiện
tính chất các quan hệ diễn ra trong đời sống dân sự của xã hội nói chung. Mà
bản chất của các hành vi đó được xác lập trên cơ sở tự do, ý chí, tự nguyện,
cam kết, thỏa thuận và bình đẳng. Trong xã hội có giai cấp, khi sở hữu được
xác lập thì quyền tự định đoạt của cá nhân được sử dụng như một giá trị phổ
biến trong đời sống dân sự hàng ngày, được pháp luật ghi nhận đó là hình
thức của quyền sở hữu và theo đó quyền sở hữu là quyền sử dụng và định



13
đoạt theo ý mình. Khi trình độ phát triển của xã hội càng cao thì các giao lưu
dân sự càng trở nên phong phú, phức tạp. Để tham gia vào các quan hệ dân
sự, pháp luật phải ghi nhận và bảo đảm quyền tự định đoạt của mỗi chủ thể.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức tự bày tỏ ý chí, tự lựa chọn và quyết định thực hiện
quyền (và nghĩa vụ) theo động cơ, mục đích của mình trong khuôn khổ của
pháp luật. Trường hợp có tranh chấp, các đương sự tự do lựa chọn phương
thức giải quyết như tự thỏa thuận với nhau hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc, các đương sự vẫn có quyền tự mình
quyết định về nội dung tranh chấp và được Tòa án tôn trọng. Sự tham gia của
đương sự trong quá trình tố tụng để giải quyết tranh chấp trên cơ sở ý chí, tự
nguyện là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của quyền tự định đoạt.
- Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ
bản và xuyên suốt trong các giai đoạn của hoạt động tố tụng dân sự. Khi tiến
hành giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự phải được bảo đảm tự do định
đoạt các quyền về dân sự (theo nghĩa rộng) cũng như thực hiện các quyền tố
tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trước Tòa án. Quyền
tự định đoạt của đương sự chi phối hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, phạm vi giải quyết vụ việc dân sự phụ
thuộc một phần rất lớn vào quyền tự định đoạt của đương sự.
1.1.3. Ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một nguyên
tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, nội dung mang tính xuyên suốt toàn
bộ quá trình tố tụng nhằm bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành
vi của mình, tự mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng, trên cơ
sở đó mà các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo vệ và tôn trọng.
Không chỉ với ý nghĩa là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự,



14
quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự còn có ý nghĩa đặc biệt
cả về xã hội, pháp lý và kinh tế.
1.1.3.1. Ý nghĩa về mặt xã hội
Quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là sự phản ánh của quyền tự
định đoạt của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự (theo nghĩa
rộng). Khi tham gia vào các quan hệ dân sự, các chủ thể có toàn quyền quyết
định tham gia hay không tham gia vào các quan hệ, quyết định quyền và
nghĩa vụ của các bên cũng như phương thức để thực hiện các quyền và nghĩa
vụ đó trên cơ sở thể hiện sự tự do ý chí, cam kết thỏa thuận giữa các chủ thể
và khi có tranh chấp hoặc vi phạm xảy ra thì họ cũng hoàn toàn có quyền
quyết định việc bảo vệ quyền lợi của mình thông qua việc thương lượng, thỏa
thuận với nhau để giải quyết tranh chấp hoặc quyết định việc có khởi kiện hay
không khởi kiện ra trước Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự vẫn có
quyền tự mình quyết định về nội dung tranh chấp và được Tòa án tôn trọng
thông qua hành vi rút yêu cầu khởi kiện hoặc tự thương lượng, thỏa thuận để
giải quyết tranh chấp. Với việc pháp luật tố tụng ghi nhận quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự đã tạo điều kiện cho đương sự quyết định
việc giải quyết tranh chấp. Vì vậy, đối với những trường hợp đương sự rút
đơn khởi kiện, thỏa thuận với nhau việc giải quyết tranh chấp sẽ không làm
mất đi những quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các đương sự.
1.1.3.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền được
phản ánh và quy định bởi các quyền nội dung trong các quan hệ dân sự (theo
nghĩa rộng) và các quan hệ này diễn ra trong đời sống hàng ngày. Theo đó,
các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có quyền tự do, tự quyết định trong
việc thiết lập các giao dịch nhằm phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của mình dựa



15
trên cơ sở bình đẳng với nhau về mọi phương diện. Khi có vi phạm hoặc phát
sinh tranh chấp thì các chủ thể có quyền tự do lựa chọn nhiều phương thức
khác nhau để giải quyết tranh chấp như tự thương lượng, hòa giải hoặc thông
qua các cơ quan tài phán như Tòa án, trọng tài. Khi vụ việc đến Tòa án giải
quyết đương sự vẫn có quyền thương lượng, thỏa thuận giải quyết. Với việc
quy định quyền tự quyết định của đương sự trong việc lựa chọn phương thức
bảo vệ quyền lợi của mình, quyền có thể hòa giải khi đã đưa vụ việc kiện ra
Tòa án giải quyết về phương diện pháp lý đã tạo điều kiện cho đương sự có
thể tìm cho mình một phương thức để giải quyết tranh chấp một cách nhanh
chóng và hiệu quả nhất.
1.1.3.3. Ý nghĩa về mặt kinh tế
Quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết các tranh
chấp là một quyền đặc trưng của tố tụng dân sự, nó thể hiện ở khả năng các
chủ thể tham gia tố tụng có quyền tự do định đoạt các quyền dân sự của mình
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước các vi phạm bằng việc khởi kiện
hoặc rút đơn khởi kiện không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa hoặc các bên tự
thỏa thuận, thương lượng với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Bằng việc
pháp luật tố tụng ghi nhận và bảo đảm cho các chủ thể trong quan hệ dân sự
thực hiện quyền tự định đoạt của mình đã góp phần làm giảm bớt áp lực giải
quyết các tranh chấp của Toà án, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được
nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí và thời gian của Tòa án cũng như của
đương sự bởi lẽ nếu người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và tự hòa
giải thì quy trình tố tụng sẽ chấm dứt và Tòa án cũng không phải tiếp tục giải
quyết các tranh chấp theo yêu cầu của đương sự nữa.
1.2. CƠ SỞ CỦA QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ


16

1.2.1. Cơ sở lý luận của quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật là công cụ chủ
yếu để Nhà nước quản lý và duy trì trật tự xã hội. Để đảm bảo trật tự xã hội
được ổn định, bảo đảm các tranh chấp, mâu thuẫn dân sự được giải quyết
nhanh chóng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức thì Nhà nước phải ban hành một hệ thống pháp luật để điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội dựa trên cơ sở tôn trọng quyền của công dân, trong đó có
pháp luật nội dung và pháp luật về tố tụng. Pháp luật nội dung quy định các
quy tắc ứng xử, ghi nhận và bảo hộ các quyền về dân sự của các chủ thể. Pháp
luật tố tụng dân sự quy định các phương thức bảo vệ các quyền dân sự của các
chủ thể tai Tòa án để góp phần cho các quyền đó được tôn trọng, thực hiện
trên thực tế.
Với ý nghĩa như vậy nên trong lịch sử lập pháp, Nhà nước ta đã ban
hành rất nhiều các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự để quy định cách thức,
trình tự tố tụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật về
nội dung để bảo vệ quyền về dân sự mà pháp luật nội dung đã quy định.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự luôn gắn liền với
quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung. Do đó
cơ sở để pháp luật tố tụng dân sự quy định đương sự trong tố tụng dân sự
được thực hiện quyền tự định đoạt của mình chính là các quyền lợi đã được
pháp luật dân sự ghi nhận và bảo hộ.
Pháp luật nội dung về dân sự bao gồm pháp luật dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong các quan hệ pháp luật về dân
sự, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Pháp luật nội dung quy
định các chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia



17
quan hệ dân sự cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các
quan hệ đó.
Trong các quan hệ dân sự thì chính các chủ thể là người có quyền, lợi
ích cho nên họ được tùy ý lựa chọn cách ứng xử của mình, có thể tự mình làm
hoặc giao cho người khác thực hiện, có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ
thanh toán mọi chi phí, bồi thường thiệt hại. Các quy phạm pháp luật nội dung
về dân sự đã mở ra những khả năng nhất định để các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật dân sự và khi tham gia vào các quan hệ này thì các chủ thể
có quyền tự định đoạt quyền, lợi ích của họ. Xuất phát từ tính chất của các
quan hệ dân sự chủ yếu là các quan hệ về tài sản giữa các chủ thể, chính các
chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự là chủ thể có quyền, lợi ích cho nên
khi có tranh chấp thì các đương sự trong tố tụng dân sự có thể tự mình quyết
định việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình, tự thương lượng với
chủ thể có tranh chấp hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện, nếu không có
năng lực hành vi tố tụng thì việc định đoạt sẽ được thực hiện thông qua người
đại diện hợp pháp được pháp luật quy định.
Quyền tự đoạt của đương sự chỉ được thực hiện trong khuôn khổ pháp
luật nội dung cho phép. Quyền tự đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự luôn
phải gắn với các quyền, lợi ích được pháp luật nội dung ghi nhận và bảo hộ.
Trong tố tụng dân sự thì các đương sự chỉ có thể định đoạt trong phạm vi
những quyền, lợi ích hợp pháp đã được pháp luật nội dung ghi nhận và không
thể định đoạt những quyền lợi mà mình không có. Do vậy, việc định đoạt
trong từng vụ việc cụ thể phải trong giới hạn của quan hệ pháp luật nội dung
mà Tòa án đang giải quyết. Ngoài ra, như trên đã phân tích thì việc định đoạt
của các đương sự phải phù hợp với pháp luật và không được xâm phạm tới
quyền lợi của người thứ ba hoặc quyền lợi của Nhà nước và xã hội.


18

Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự xuất
phát và gắn liền với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp
luật nội dung. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự do pháp
luật tố tụng dân sự quy định nhưng bị giới hạn bởi quyền tự định đoạt của các
chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự
Ngày nay trong đời sống xã hội hiện đại các quan hệ dân sự diễn ra
ngày càng nhiều và cùng với sự phát triển của nó thì những mâu thuẫn cũng
phát sinh đòi hỏi cần được giải quyết ngày một nhiều. Một trong những
phương thức giải quyết tranh chấp khi các bên đương sự không tự thỏa thuận
được với nhau là thông qua việc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh
chấp. Đây cũng chính là yêu cầu bắt nguồn từ đời sống thực tiễn đòi hỏi pháp
luật phải có những quy định cụ thể về thủ tục, trình tự giải quyết tranh chấp
tại Tòa án để các đương sự thực hiện trong đó có các yêu cầu về bảo đảm
quyền tự định đoạt của đương sự.
Pháp luật dân sự đã có những quy định về quyền tự quyết định của các
chủ thể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, trong đó có ghi nhận
về quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp bị xâm
phạm hoặc tranh chấp. Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng trong
việc bảo đảm cho các đương sự thực hiện các quyền do pháp luật nội dung quy
định.
Trong thực tiễn, khi các tranh chấp dân sự nảy sinh thì nhiều trường
hợp do quyền lợi có tranh chấp là nhỏ nhặt, không đáng kể nên bên có quyền
lợi bị xâm phạm cũng không muốn mất thời gian để đi kiện tại Tòa án. Ngoài
ra, có thể do không có đủ chứng cứ, tài liệu để chứng minh hoặc do những


19

mối quan hệ đặc biệt nên đương sự chấp nhận thiệt thòi mà không khởi kiện
ra Tòa án để không mất đi những quan hệ tốt đẹp về tình cảm gia đình, dòng
họ hay bè bạn, hàng xóm, láng giềng. Do vậy, trong những trường hợp này
pháp luật không thể bắt buộc đương sự có quyền lợi bị xâm hại phải khởi kiện
trước Tòa án hoặc nếu họ khởi kiện rồi sau đó lại rút đơn hay hòa giải thì
pháp luật và Tòa án cũng cần phải tôn trọng quyền tự quyết định của họ.
Mặt khác, trong đời sống xã hội số lượng các tranh chấp xảy ra rất lớn
nhưng nếu như mọi tranh chấp đều phải được Tòa án xét xử thì sẽ dẫn đến
nhiều bất hợp lý. Giả sử nếu đương sự không yêu cầu Tòa án xét xử hoặc đã
rút đơn khởi kiện nhưng Tòa án vẫn tiến hành xét xử thì việc xét xử của Tòa
án sẽ là tốn công, vô ích vì đương sự sẽ không yêu cầu thi hành án. Nếu như
không ghi nhận và đảm bảo quyền tự định đoạt trong việc rút đơn khởi kiện
của đương sự thì có lẽ số vụ việc mà ngành Tòa án phải đảm nhận hàng năm
sẽ rất nhiều và ngành Tòa án sẽ luôn quá tải về công việc. Ngoài ra, nếu Tòa
án vẫn cứ tiến hành xét xử khi mà đương sự đã rút đơn yêu cầu hay thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết những vấn đề có tranh chấp hoặc xét xử
vượt quá những vấn đề mà đương sự yêu cầu thì quyền tự do định đoạt, tự do,
tự nguyện cam kết, thỏa thuận đã được pháp luật dân sự ghi nhận sẽ không
được tôn trọng và sẽ khó tránh khỏi việc khiếu kiện kéo dài hoặc nảy sinh
những vấn đề phức tạp trong thi hành án dân sự.
Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại và lao động nên đương sự có quyền tự quyết định việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng việc khởi kiện hoặc không khởi
kiện tại Tòa án hoặc rút đơn khởi kiện không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa.
Nếu người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc các đương sự đã tự
thỏa thuận được việc giải quyết tranh chấp thì quy trình tố tụng dân sự phải
chấm dứt và Tòa án sẽ không giải quyết những vấn đề mà đương sự trước đây
đã yêu cầu nữa. Nếu không cho phép đương sự rút đơn khởi kiện hoặc thỏa



20
thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp mà vẫn tiến hành xét xử khi họ
rút đơn khởi kiện hoặc thỏa thuận được với nhau việc giải quyết tranh chấp
thì có nghĩa là Tòa án đã ra bản án trái với nguyện vọng của đương sự, không
phản ánh đúng ý chí tự nguyện của đương sự.
Pháp luật về dân sự đảm bảo quyền tự do cam kết, thỏa thuận phù hợp
với quy định của pháp luật trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự. Trong
giao lưu dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện và mọi cam kết, thỏa thuận
hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên. Đây là một trong
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và nếu như các quyền cơ bản
này không được ghi nhận trong pháp luật tố tụng dân sự thì ý chí tự nguyện
đích thực của các đương sự đã không được đảm bảo thực hiện. Ngoài ra, nếu
các bên thỏa thuận được mà Tòa án không công nhận mà vẫn xét xử thì con
đường ngắn nhất, ít tốn kém nhất và đơn giản nhất để giải quyết tranh chấp đã
không được thực hiện và hệ quả tất yếu là gây lãng phí thời gian, công sức
của cơ quan tiến hành tố tụng cũng như của đương sự. Vì vậy, việc pháp luật
tố tụng dân sự ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự là xuất phát từ thực
tiễn giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án.
1.3. NỘI DUNG QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ
Quyền tự định đoạt của các đương sự có nguồn gốc từ tính chất của
các quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp mà Tòa án cần xem xét giải
quyết. Trong các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động thì các chủ thể có toàn quyền quyết định tham gia hay
không tham gia vào quan hệ, quyết định nội dung của quan hệ (các quyền và
nghĩa vụ của các bên), quyết định các phương thức thực hiện các quyền và
nghĩa vụ và một khi các bên đã có quyền tự do trong việc xác lập giao dịch
dân sự, xác lập hợp đồng thì nếu có tranh chấp hoặc vi phạm xảy ra họ cũng
hoàn toàn có quyền tự mình thương lượng hoặc qua trung gian hòa giải hoặc

×