Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.01 KB, 101 trang )

0ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN THỊ HIÊN






THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI




Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS.BÙI THỊ HUYỀN


Hà Nội – 2014



LI CAM OAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn ch-a đ-ợc công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGI CAM OAN


NGUYN TH HIấN






MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các ký hiệu, Các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN DÂN SỰ
THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƢƠNG MẠI 10
1.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI. 10
1.2. ĐẶC ĐIỂM VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƢƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN THEO LOẠI VIỆC 17
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI
VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƢƠNG MẠI 22
1.4. CƠ SỞ VIỆC XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN DÂN SỰ
THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƢƠNG MẠI 26
1.4.1 Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại của Tòa án phải xuất phát từ chủ trương của Đảng về chiến
lược cải cách tư pháp. 26
1.4.2. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại của Tòa án xuất phát từ tính chất quan hệ pháp luật nội
dung mà Tòa án cần giải quyết. 28
1.4.3. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại của Tòa án xuất phát từ quyền định đoạt của các đương sự 29
1.4.4. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại của Tòa án phải căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước và xuất phát từ thực tiễn giải quyết các tranh chấp 29
1.5. SƠ LƢỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH

DOANH, THƢƠNG MẠI. 31
1.5.1 Giai đoạn trước năm 1994. 32
1.5.2. Giai đoạn 1994 đến 2004 34
1.5.3. Giai đoạn 2004 đến nay 34
1.6 PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI VỀ THẨM QUYỀN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI. 36
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA
ÁN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI 40
2.1. THẨM QUYỀN DÂN SỰ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƢƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN THEO LOẠI VIỆC 40
2.1.1 Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau 41
2.1.2 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau 46
2.1.3 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 52
2.1.4 Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định 56
2.2. PHÂN BIỆT THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN VÀ TRỌNG TÀI TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI. 57
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI 64
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTDS VỀ
THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI. 64
3.1.1 Bất cập trong quy định khoản 1 Điều 29 BLTTDS 66
3.1.2 Bất cập do quy định về chủ thể trong quan hệ kinh doanh, thương mại
còn chưa đầy đủ 70

3.1.3 Bất cập trong quy định tại khoản 2 Điều 29 BLTTDS 72
3.1.4 Bất cập trong quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS 74
3.1.5 Bất cập trong quy định tại khoản 4 Điều 29 BLTTDS 77
3.1.6 Bất cập về vấn đề phân định thẩm quyền của Tòa án và Trọng tài 77
3.2. PHƢƠNG HƢỚNG CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM
QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI. 79
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƢƠNG MẠI. 82
3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự liên quan
đến khoản 1 Điều 29 BLTTDS và vấn đề chủ thể trong quan hệ kinh doanh,
thương mại 82
3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy tại khoản 2 Điều 29 BLTTDS 84
3.3.3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS 85
3.3.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định tại khoản 4 Điều 29 BLTTDS 87
3.3.5. Kiến nghị hoàn thiện quy định về phân định thẩm quyền giữa Tòa án và
trọng tài 88
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLDS: Bộ luật dân sự
2. BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
3. PLTTGQCVADS: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
4. PLTTGQCVAKT: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
5. TTDS: Tố tụng dân sự
6. TAND: Tòa án nhân dân
7. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
8. HĐTP: Hội đồng thẩm phán


DANH MỤC CÁC BẢNG


́
hiê
̣
u
Tên ba
̉
ng
Trang
1
Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thƣơng mại ở cấp sơ thẩm của ngành TAND
từ 2007 đến 2013
64


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mới, thế giới toàn cầu hóa với
những thay đổi lớn, đa dạng và phức tạp, có ảnh hưởng đến bất cứ quốc gia
nào và cá nhân nào. Xu hướng hội nhập đã đưa đến cho đất nước ta những đổi
mới tích cực trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ
thuật, công nghệ mới Có thể nói, số lượng các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại được giải quyết tại cơ quan tòa án đã phản ánh một thực tế về sự
gia tăng của các tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng như các loại án đặc
thù, mới phát sinh. Từ thực tế khách quan đó đòi hỏi cần có một cơ chế hữu

hiệu nhằm giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng, đồng thời đảm bảo trật tự xã
hội, sự lành mạnh trong môi trường kinh doanh.
Khi tranh chấp xảy ra có rất nhiều con đường giải quyết mà các bên có
thể lựa chọn. Con đường nào ngắn nhất, ít tốn kém nhất có thể khôi phục lại
được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình sẽ được các bên lựa chọn. Trên
thực tế, tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể được giải quyết bằng những
con đường như thương lượng, hòa giải, Trọng tài, Tòa án.
Tòa án với vai trò là một thiết chế tài phán công với những ưu điểm của
nó vẫn được các đương sự lựa chọn để giải quyết tranh chấp nói chung và
tranh chấp kinh doanh thương mại nói riêng. Giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan
tài phán của nhà nước thực hiện, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm
ngặt, chặt chẽ. Bản án hay quyết định của Tòa án về vụ việc tranh chấp được
đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên Bộ luật Tố
tụng dân sự 2004 qua nhiều năm áp dụng đã bộc lộ những hạn chế. Điều này
ảnh hưởng đến phán quyết của Tòa án làm cho chất lượng xét xử chưa cao, số

2
lượng các bản án bị hủy, sửa nhiều, số lượng các vụ án tồn đọng không phải
là nhỏ. Có thể nói, BLTTDS năm 2004 nay là Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của BLTTDS đã có nhiều quy định mới về thẩm quyền dân sự của Tòa
án trong việc giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, bảo vệ kịp
thời lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội đất nước và
mặc dù đã có sự sửa đổi, bổ sung nhưng nhiều quy định trong BLTTDS về
thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết các loại việc tranh chấp
kinh doanh, thương mại vẫn tồn tại những bất cập, thiếu sót, cần được hoàn
thiện theo hướng các quy định của pháp luật phải chặt chẽ, thuận tiện cho
người dân, các doanh nhân trong việc tiếp cận công lý đồng thời phải tiếp thu

có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài cho phù hợp với hoàn cảnh
của nước ta. Do vậy việc nghiên cứu chuyên sâu nhằm làm rõ những vấn đề
lý luận và thực tiễn về thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này là cần thiết. Kết quả nghiên cứu của tác giả có ý
nghĩa tham khảo cho việc hoàn thiện các quy định của BLTTDS, tạo cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết các loại việc về tranh chấp kinh doanh, thương
mại được thuận lợi, nhanh chóng, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh
bạch, khả thi, đầy đủ, hiệu quả của hệ thống pháp luật. Chính vì vậy tác giả
chọn đề tài: “Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại.” làm luận văn thạc sĩ luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề xác định thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong tố tụng dân sự còn nhiều
vướng mắc và có nhiều ý kiến khác nhau đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu

3
một cách công phu và nghiêm túc nhằm đề ra những giải pháp cho việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề này.
Trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 ra đời đã có rất nhiều khóa luận
tốt nghiệp, luận văn, luận án, bài viết về các vấn đề liên quan đến giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại, trong đó ít nhiều đề cập đến thẩm quyền
dân sự của tòa án theo loại việc về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại. Chẳng hạn như:
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đào Văn Hội với đề tài: “Giải
quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” bảo
vệ năm 2003
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh với đề tài
“Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng con đường tòa án ở Việt

Nam” bảo vệ năm 2003
- Bài viết “Xác định thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án” của Tiến sĩ
Phan Chí Hiếu đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 2 năm 2004.
Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 ra đời nay là Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu, luận
án, luận văn, bài viết đề cập những khía cạnh về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại:
- Tác giả Viên Thế Giang với bài: “Thẩm quyền giải quyết kinh doanh
theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 12 năm 2005.
- Tiến sĩ Phan Chí Hiếu với bài “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh theo Bộ luật Tố tụng dân sự và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn
thi hành” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10 năm 2005 và bài
“Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh ở Việt Nam” đăng
trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 12 năm 2005.

4
- Thạc sĩ Trần Đình Khánh với bài “Thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại và lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004”
đăng trên Tạp chí Kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 5 năm 2005.
- Tác giả Dương Nguyệt Nga với bài “Các phương thức giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại theo pháp luật Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân. Tòa án nhân
dân tối cao số 16 năm 2007.
- Tác giả Vũ Thị Hồng Vân với bài “Về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004”
đăng trên Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội số 4 năm 2008.
- Bài viết “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004” của tác giả Viên Thế Cương đăng trên
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005;

- Bài viết “Thẩm quyền của Tòa án nhân dân” của tác giả Nguyễn Việt
Cường đăng trên Tạp chí Luật học 2005 - số đặc san về Bộ luật Tố tụng dân
sự;
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Đức Hoàng với đề tài: “Một
số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án nhân dân cấp huyện” năm 2009;
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Thị Huệ với đề tài “Hỗ trợ
của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài” năm
2010. Trong luận văn của mình tác giả Vũ Thị Huệ đã chỉ ra vị trí, vai trò của
Tòa án trong tiến trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng cơ
quan tài phán Trọng tài đồng thời đánh giá mối quan hệ hợp tác, bổ trợ cho
nhau cũng như những ưu điểm, nhược điểm của từng phương thức giải quyết
tranh chấp;

5
- Bài viết “Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung BLTTDS” của
Tiến sĩ Nguyễn Văn Cường đăng trên Tạp chí TAND số 11 năm 2010. Tại bài
viết của mình tiến sĩ Nguyễn Văn Cường đề cập đến các vấn đề như nên quy
định thời hiệu cụ thể đổi với từng quan hệ tranh chấp kinh doanh thương mại,
vấn đề lựa chọn tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại và các đề xuất liên quan áp dụng chế định xử án rút gọn để tránh
tình trạng giải quyết án kéo dài;
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Hồng Phước với đề tài "Thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án nhân
dân theo quy định của BLTTDS năm 2004" bảo vệ năm 2012.
Trên đây là các công trình nghiên cứu khoa học của các học giả đề cập
các vấn đề liên quan đến thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của Trọng tài;
vấn đề tranh chấp kinh tế, tranh chấp kinh doanh thương mại dưới nhiều góc
độ khác nhau, là các công trình nghiên cứu trước thời điểm BLTTDS ra đời,
sau thời điểm BLTTDS được thực hiện. Tuy nhiên, BLTTDS được sửa đổi,

bổ sung năm 2011 có một số điểm mới về thẩm quyền dân sự theo loại việc
của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được tiếp tục
nghiên cứu và luận giải.
Bản luận văn “Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại.” là công trình được nghiên cứu
một cách chuyên sâu, toàn diện cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn về vấn đề
này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Luận văn đã tập trung vào việc nghiên cứu và làm rõ hơn các vấn đề lý
luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng về thẩm quyền dân sự theo loại việc của
Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại như: Khái niệm
Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp

6
kinh doanh, thương mại; Các đặc điểm về thẩm quyền dân sự theo loại việc
của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại; Ý nghĩa
của các quy định về thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải
quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại; Phân tích các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thẩm quyền dân sự theo loại việc về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án qua đó chỉ ra một số hạn
chế của các quy định và đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này.
Đề tài không nghiên cứu toàn bộ thẩm quyền của tòa án về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại mà chỉ tập trung nghiên cứu thẩm quyền
theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài không xem xét thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại theo cấp và theo lãnh thổ. Đề tài tập trung
nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành: Lịch sử phát triển các
quy định về thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại; Nội dung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân

sự hiện hành về thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại và tìm ra những điểm hạn chế trong các
quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành chúng tại các Tòa án nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả của việc quy định thẩm quyền dân sự theo loại việc về
giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án trong Tố tụng
dân sự Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và
nhà nước qua các giai đoạn lịch sử.

7
Để hoàn thành đề tài của mình tác giả đã kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu chung cũng như chuyên ngành như: Phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lê nin; Phương pháp nghiên cứu lịch sử; Phương pháp phân tích
để làm rõ các nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu; Phương pháp so sánh được
sử dụng để làm rõ mức độ tương quan giữa các quy định, các quan điểm để từ
đó có những đánh giá, nhận định khách quan về nội dung nghiên cứu; Phương
pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa nội dung nghiên cứu một cách
có hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu;
Phương pháp thống kê đem đến một cách nhìn cụ thể hơn thông qua những
con số và vụ việc cụ thể v.v
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài đặt ra mục đích nghiên cứu làm rõ các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự hiện hành về thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại; Nội dung các quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự hiện hành về thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại và thực tiễn áp dụng chúng.
Trên cơ sở nghiên cứu luật thực định và thực tiễn áp dụng, luận văn sẽ xác

định, đánh giá những mặt hạn chế gây tác động xấu đến quá trình giải quyết
các tranh chấp này nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử tại
các tòa án và hoàn thiện các quy định về thẩm quyền dân sự theo loại việc của
Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Để đạt được mục đích trên đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể như sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận về thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa
án về giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại như khái niệm, đặc
điểm và ý nghĩa của quy định; Lược sử phát triển của các quy định về thẩm

8
quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
hiện hành về thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với những
quy định của pháp luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới như Pháp,
Nga, Trung Quốc về vấn đề này để chỉ ra những bài học, những điểm hạn
chế và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định của pháp
luật Tố tụng dân sự Việt Nam về vấn đề này.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
hiện hành về thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại để chỉ ra những điểm còn hạn chế, những bất
cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật Tố
tụng dân sự Việt Nam về thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên

quan đến thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án về giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại. Những đóng góp mới của luận văn bao gồm:
- Hoàn thiện khái niệm thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án về
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, cơ sở khoa học của các quy
định về thẩm quyền trên;
- Phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật có liên quan đến
thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại theo quy định của BLTTDS;

9
- Đánh giá thực trạng các quy định của BLTTDS hiện hành về thẩm
quyền dân sự theo loại việc của tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại và thực tiễn thực hiện;
- Đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện những quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa
án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
7. Cơ cấu của luận văn.
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền dân sự theo loại việc
của tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án về giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại.







10
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO
LOẠI VIỆC CỦA TÒA ÁN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƢƠNG MẠI
1.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC CỦA TÒA
ÁN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI.
Trong bộ máy nhà nước mỗi cơ quan đều thực hiện các chức năng khác
nhau. Khái niệm thẩm quyền gắn liền với chức năng nhiệm vụ của các cơ
quan trong bộ máy Nhà nước. Vì thế nhà nước trao cho các cơ quan này
những thẩm quyền riêng và có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của
chúng. Tòa án với chức năng xét xử không phải là ngoại lệ. Tòa án là cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp, yêu cầu trong đó có
tranh chấp kinh doanh, thương mại. Việc quy định hợp lý về thẩm quyền dân
sự của Tòa án nói chung và thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại nói riêng có ý nghĩa quan trọng
trong việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân, tạo điều kiện thuận
lợi cho họ có thể thực hiện được quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Để có thể hiểu rõ khái niệm về thẩm quyền dân sự
theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thì
chúng ta cần làm rõ các khái niệm đó là: Khái niệm thẩm quyền; Khái niệm
thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án và khái niệm tranh chấp kinh
doanh, thương mại.
Hiểu một cách chung nhất thì “Thẩm quyền là quyền xem xét để quyết
định và định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [32; tr 922]. Dưới góc độ pháp
lý thì thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định
của cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy Nhà nước do pháp luật quyết định.


11
Như vậy, có thể nhận định rằng, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì “thẩm
quyền” luôn bao hàm hai nội dung cơ bản đó là: Quyền xem xét giải quyết các
vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn trong việc ra các
quyết định khi giải quyết vụ việc đó.
Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2013) thì “Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án
khác do luật định”. Trên cơ sở quy định này của Hiến pháp, Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2002 đã quy định cụ thể là Tòa án nhân dân có thẩm
quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và giải quyết những việc
khác theo quy định của pháp luật. Khi xét xử Tòa án có quyền ban hành bản
án và các quyết định, được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của
nhà nước thông qua hệ thống cơ quan thi hành án dân sự. Do đó, thẩm quyền
của Tòa án là khả năng của một Tòa án xem xét một vụ việc trong phạm vi
pháp luật cho phép.
Trong khoa học pháp lý, vấn đề thẩm quyền của Tòa án đã được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm và cũng có nhiều quan niệm khác nhau về “thẩm
quyền của Tòa án”. Có quan điểm cho rằng: “Thẩm quyền là phạm vi giới
hạn hoạt động của tòa án và khả năng pháp lý của tòa án có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau tạo thành thẩm quyền của Tòa án. Thẩm quyền của tòa án
bao gồm thẩm quyền xét xử, phạm vi – giới hạn xét xử và quyền hạn quyết
định của tòa án” [8;tr 8].
Quan điểm khác cho rằng: “Thẩm quyền của tòa án là một thể thống
nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau, đó là thẩm quyền về
hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức thể hiện ở
quyền hạn xem xét của tòa án (thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử) còn thẩm


12
quyền về nội dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết, quyết định của tòa án đối
với những vấn đề đã được xem xét” [9;tr 11]. Theo quan niệm này, “thẩm
quyền của Tòa án” bao hàm hai yếu tố cơ bản đó là thẩm quyền về hình thức
và thẩm quyền về nội dung có mối liên hệ mật thiết với nhau. Hay nói một
cách khác đó là quyền hạn, phạm vi xem xét của Tòa án và quyền quyết định
của Tòa án luôn nằm trong một chỉnh thể thống nhất với nhau.
Như vậy, dù cách tiếp cận “Thẩm quyền của tòa án” khác nhau nhưng
các khái niệm này giống nhau ở những điểm cho rằng “thẩm quyền của tòa án
là thẩm quyền trong việc xét xử, giới hạn của việc xét xử và quyền ra quyết
định trong việc xét xử đó”. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài tác giả chỉ xem
xét thẩm quyền dưới góc độ quyền xem xét giải quyết các vụ việc về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong phạm vi pháp luật cho phép.
Thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án là một trong các thẩm
quyền dân sự của tòa án. Trên thế giới đa số các quốc gia kể cả các quốc gia
theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ hay các quốc gia theo hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa đều tiếp cận khái niệm thẩm quyền dân sự của tòa án dưới
hai góc độ: Thẩm quyền theo loại việc (căn cứ vào bản chất của vụ việc) và
thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ. Tuy nhiên theo đặc thù trong việc tổ chức
hệ thống tòa án mà tại Việt Nam thẩm quyền dân sự của tòa án còn được tiếp
cận dưới góc độ là thẩm quyền theo cấp của tòa án trong việc xét xử sơ thẩm.
Để xác định một vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của một Tòa án
cụ thể nào, đầu tiên, người ta phải xác định vụ việc đó có thuộc thẩm quyền
sơ thẩm dân sự của Tòa án theo loại việc hay không, sau đó căn cứ vào luật
thực định để xác định vụ việc đó thuộc thẩm quyền sở thẩm của Tòa án cấp
nào và bước cuối cùng là xác định trong số các Tòa án cùng cấp đó thì Tòa án
lãnh thổ nào sẽ có thẩm quyền giải quyết. Do đó, việc xác định thẩm quyền
dân sự theo loại việc của Tòa án là nền tảng hay tiền đề quan trọng để xác

13

định thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc tiếp nhận, thụ lý và giải quyết
các vụ việc dân sự. Như vậy, dưới góc độ nghiên cứu của bản luận văn thì
thẩm quyền dân sự theo loại việc của toà án là quyền xem xét, giải quyết các
vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự.
Theo Điều 1 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Điều 1
BLTTDS thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án và các việc dân sự,
hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động theo quy định của pháp
luật. Hiện nay, hệ thống Tòa án của Việt Nam được tổ chức theo các cấp, theo
địa giới hành chính, ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao lại
có những Tòa chuyên trách để xem xét giải quyết các vụ việc thuộc các lĩnh
vực cụ thể. Việc nghiên cứu cho thấy, thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại
việc được xác định trên cơ sở các quan hệ pháp luật nội dung có cùng tính
chất mà Tòa án phải xem xét giải quyết. Về nguyên tắc, Tòa án nhân dân có
thẩm quyền giải quyết nhiều loại tranh chấp khác nhau, trong đó có tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Vậy tranh chấp kinh doanh, thương mại là gì?
Vấn đề này còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nội hàm của thuật ngữ,
theo đó có nhiều khái niệm khác nhau về thuật ngữ này.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là một hiện tượng phổ biến và
thường xuyên diễn ra trong các hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính
chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia
tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam
cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các
phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong nhiều
văn bản pháp luật. Thuật ngữ “Tranh chấp kinh doanh, thương mại” là một
thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện cùng với sự ra đời của Bộ luật Tố tụng dân sự
2004. Trước khi thuật ngữ tranh chấp kinh doanh, thương mại xuất hiện, thực
tiễn giải quyết tranh chấp phân chia thành tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh

14
tế. Các tranh chấp phát sinh trong đời sống dân sự hàng ngày bao gồm các

quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản được coi là tranh chấp dân sự và điểu
chỉnh bởi Bộ luật dân sự 1995. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế và
hoạt động tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp, hoạt động mua bán trái
phiếu, cổ phiếu được coi là các tranh chấp kinh tế, được điều chỉnh chủ yếu
bởi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Ngay từ năm 1994, hệ thống pháp luật Việt Nam về thương mại cũng
đã đưa ra một số khái niệm khác nhau để biểu đạt loại tranh chấp này. Tuy
không xây dựng được một khái niệm chuẩn mực về tranh chấp kinh tế nhưng
cũng đã liệt kê được các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế thuộc thẩm
quyền giải quyết của tòa án kinh tế và trọng tài kinh tế. Đến năm 1999, khái
niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong Luật thương
mại ngày 10/5/1999. Năm 2003, Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban
hành ngày 25/02/2003 tuy không đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại
nhưng thông qua khái niệm về “hoạt động thương mại” đó tạo được sự tương
đồng trong quan niệm về “thương mại” và “tranh chấp thương mại” của
pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế;
từ đó mở màn cho việc xem xét tiếp theo của các văn bản pháp luật khi đề cập
đến lĩnh vực thương mại, tranh chấp thương mại.
Sau nỗ lực cải cách về tư duy pháp lý lớn vào năm 2005 kết quả là cho
ra đời Bộ luật dân sự năm 2005, Luật thương mại năm 2005, bãi bỏ Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế năm 1989 đã thống nhất về cách điều chỉnh hợp đồng.
BLDS có vai trò như đạo luật gốc, điều chỉnh liên thông tất cả các quan hệ
dân sự, lao động, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình; Bộ luật Tố tụng
dân sự 2004 ra đời và hiện nay là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS đã thống nhất thủ tục giải quyết tranh chấp nếu xảy ra đối với tất cả
các quan hệ này.

15
Theo từ điển Tiếng Việt, “tranh chấp” được hiểu là "đấu tranh, giằng
co khi có những mâu thuẫn, bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa

hai bên"[32;tr1024]. Tranh chấp kinh doanh thương mại là một khái niệm còn
gây nhiều tranh cãi và chưa có một khái niệm chung thống nhất về vấn đề
này. Và ngay cả trong việc sử dụng thuật ngữ thì trong từng trường hợp và tùy
vào mục đích sử dụng mà các tác giả, các nhà khoa học cũng sử dụng rất khác
nhau. Trong các văn bản pháp lý, các công trình nghiên cứu trên thực tế hiện
nay chúng ta thường gặp rất nhiều các thuật ngữ như: Tranh chấp kinh tế,
tranh chấp kinh doanh thương mại, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp hợp
đồng kinh tế, tranh chấp thương mại.
Về thuật ngữ “Tranh chấp kinh tế” và thuật ngữ “Tranh chấp kinh
doanh” thì đa phần các nhà nghiên cứu cho rằng thuật ngữ “Tranh chấp kinh
tế” có nội hàm rộng hơn thuật ngữ “Tranh chấp kinh doanh”. Trong luận án
tiến sĩ với đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng tòa án ở
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh đã viết: “Có thể nói trong các
loại hình tranh chấp kinh tế, tranh chấp kinh doanh là loại hình phổ biến nhất
và do đó trong một số trường hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh và
khái niệm tranh chấp kinh tế được sử dụng với nghĩa tương đương nhau”
[33;tr 33]. Ở đây, tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh đang muốn nhắc đến "Tranh
chấp kinh tế" với ý nghĩa là hệ quả phát sinh từ các quan hệ kinh tế - các quan
hệ có tính chất tài sản với mục đích kinh doanh, kiếm lời. Có thể nói cách tiếp
cận này được phần lớn các học giả đồng thuận vì tranh chấp kinh tế được hiểu
theo nghĩa rộng là đã bao hàm tranh chấp kinh doanh.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu đồng nhất trong cách sử dụng thuật
ngữ “Tranh chấp kinh tế” và “Tranh chấp kinh doanh”. Trong cuốn “Giải
quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường tòa án” của tác giả Đào Văn Hội sử
dụng hai thuật ngữ này hầu như không có sự phân biệt. Vậy thực ra tranh

16
chấp kinh tế và tranh chấp kinh doanh có nghĩa gần giống nhau nhưng thuật
ngữ tranh chấp kinh tế có nội hàm bao gồm cả vấn đề quản lý và các vấn đề
chính trị xã hội liên quan đến hoạt động kinh doanh.

Theo nghĩa thông thường của từ, tranh chấp kinh doanh thương mại có
thể được hiểu là tranh chấp về kinh doanh, thương mại hoặc tranh chấp trong
kinh doanh thương mại. Trong phạm vi đề tài luận văn tác giả sử dụng thuật
ngữ “tranh chấp kinh doanh thương mại”, bởi vì: Thuật ngữ “tranh chấp kinh
tế” có nội hàm quá rộng gồm cả vấn đề quản lý và vấn đề chính trị - xã hội
liên quan đến hoạt động kinh doanh. Mà đề tài không đề cập đến tất cả về
tranh chấp kinh tế mà chủ yếu nghiên cứu, xem xét các quy định của
BLTTDS về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo
loại việc của Tòa án. Tuy nhiên, trong thực tế các nhà khoa học cũng có
những quan niệm khác nhau về khái niệm “tranh chấp kinh doanh thương
mại”. Cụ thể, các quan điểm của các nhà khoa học, các học giả về khái niệm
này như sau:
Trong Luận án tiến sĩ, tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh đưa ra khái niệm:
“Tranh chấp kinh tế (tranh chấp kinh doanh) là sự bất đồng chính kiến về một
sự kiện pháp lý, là sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa
vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau”
[33; tr 45]
Hay theo tác giả Viên Thế Cương đưa ra khái niệm “Tranh chấp kinh
doanh được hiểu là những mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các chủ thể kinh
doanh với nhau hoặc với các bên có liên quan khi họ tham gia quan hệ kinh
doanh, phát sinh do một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ pháp lý của mình” [3; tr 11]. Chúng tôi đồng tình với khái niệm này
vì đây là khái niệm có tính đầy đủ, khái quát hơn cả.

17
Có thể thấy, dù có nhiều khái niệm khác nhau về tranh chấp kinh
doanh, thương mại nhưng các khái niệm này đều giống nhau ở điểm cho rằng:
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về
quyền, nghĩa vụ phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh giữa các chủ
thể tham gia kinh doanh hoặc với các bên liên quan khi họ tham gia các quan

hệ kinh doanh, phát sinh do một hoặc cả hai bên không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ pháp lý của mình và thường gắn liền
với các yếu tố lợi ích về mặt tài sản. Do đó, tranh chấp kinh doanh, thương
mại là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các chủ thể
phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Trên cơ sở phân tích và đánh giá các vấn đề nêu trên, chúng tôi đưa ra
kết luận: Thẩm quyền dân sự của tòa án theo loại việc về giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thƣơng mại là thẩm quyền của tòa án trong việc thụ lý,
giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các chủ
thể phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thƣơng mại theo thủ tục tố tụng
dân sự.
1.2. ĐẶC ĐIỂM VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƢƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN THEO LOẠI VIỆC
Việc phân định thẩm quyền theo loại việc, theo cấp xét xử, theo lãnh
thổ làm cho hoạt động xét xử của Tòa án đạt hiệu quả, không “dẫm chân” lên
nhau. Xác định thẩm quyền một cách chính xác, khoa học sẽ tránh được sự
chồng chéo của Tòa án trong việc thực hiện nhiệm vụ, góp phần làm cho Tòa
án giải quyết vụ án đúng đắn và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương
sự. Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại là một loại thẩm quyền dân sự cụ thể của Tòa án. Vì
vậy, trước hết nó mang các đặc điểm chung của thẩm quyền dân sự của Tòa
án đó là:

18
Thứ nhất, phạm vi xem xét, giải quyết của Tòa án khi giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại được giới hạn bởi yêu cầu của đương sự.
Theo đó có thể hiểu rằng, giới hạn hay phạm vi xét xử của Tòa án không phải
là vô hạn, thể hiện ý chí chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng mà nó được
luật hóa. Trong tố tụng dân sự, vì tính chất của dân sự là việc tư của đương
sự, nên bao giờ luật cũng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Tòa án trong

xét xử vụ việc dân sự chỉ là cơ quan đứng ra giải quyết những mối xung đột,
những sự kiện pháp lý mà đương sự cung cấp. Vì vậy, khác với Tòa án hình
sự là dựa trên cáo trạng của Viện kiểm sát thì trong tố tụng dân sự Tòa án xác
định phạm vi xét xử của mình dựa trên cơ sở, yêu cầu của đương sự thể hiện ở
hình thức là đơn kiện, đơn yêu cầu.
Thứ hai, khác với thẩm quyền hình sự hay thẩm quyền hành chính của
Tòa án được giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc thủ tục tố tụng hành
chính thì thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của
Tòa án được thực hiện theo thủ tục Tố tụng dân sự mà cụ thể là thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự.
Thứ ba, Tòa án phải tôn trọng quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt, tự
nguyện không trái pháp luật của đương sự.
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, thẩm quyền dân sự theo loại
việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại còn mang
những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất: Việc xác định thẩm quyền dân sự theo loại việc về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án phải căn cứ vào thành phần
chủ thể của quan hệ pháp luật về kinh doanh thương mại. Yếu tố chủ thể
trong quan hệ pháp luật cũng được các nhà lập pháp quan tâm khi phân loại
các quan hệ xã hội. Tương ứng với từng loại quan hệ xã hội các chủ thể tham
gia có sự khác nhau về thành phần và phạm vi thẩm quyền. Yếu tố này gắn

×