Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 110 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





THANG THANH HOA






XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ MỨC BỒI THƯỜNG
CHO NGƯỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




THANG THANH HOA





XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ MỨC BỒI THƯỜNG
CHO NGƯỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu





HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các ảnh


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ
MỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ OAN TRONG
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
7
1.1.
Lịch sử hình thành
7
1.1.1.
Sơ lược pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan
trong hoạt động tố tụng hình sự một số nước trên thế giới
7
1.1.2.
Sơ lược về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam
10
1.1.3.
Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan
trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam
13
1.2.
Thiệt hại, xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự
18
1.2.1.
Thiệt hại và xác định thiệt hại trong Bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
18
1.2.1.1.
Thiệt hại

18
1.2.1.2.
Thiệt hại về vật chất
18
1.2.1.3.
Thiệt hại về tinh thần
23
1.2.2.
Sự độc lập của các loại thiệt hại
29
1.2.3.
Xác định thiệt hại
30
1.2.4.
Mức bồi thường
31
1.2.5.
Xác định thiệt hại và mức bồi thường trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nhà nước
33
1.2.6.
Mối quan hệ giữ xác định thiệt hại và mức bồi thường
35

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH THIỆT
HẠI VÀ MỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ OAN
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
39
2.1.
Căn cứ xác định thiệt hại và mức bồi thường

39
2.2.
Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan
trong hoạt động tố tụng hình sự
41
2.2.1.
Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan do
tổn thất về tinh thần
41
2.2.2.
Xác định thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan chết
46
2.2.3
Xác định thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan
tổn hại về sức khỏe
51
2.2.4.
Xác định thiệt hại trong trường hợp tài sản bị xâm phạm
55
2.2.5.
Trả lại tài sản
60
2.2.6.
Xác định thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút của người bi oan
63
2.3.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại cho người bị oan
65
2.3.1.

Nguyên tắc bồi thường kịp thời, công khai, đúng pháp luật
65
2.3.2.
Nguyên tắc thỏa thuận, thương lượng
68
2.3.3.
Nguyên tắc được trả một lần bằng tiền (trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác)
68
2.3.3.
Nguyên tắc xác định thiệt hại và mức bồi thường phù hợp
với thực tiễn
72
2.4.
Phương thức xác định thiệt hại và mức bồi thường
73

Chương 3: TÌNH HÌNH ÁP DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH THIỆT
HẠI VÀ MỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ OAN
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
77
3.1.
Thực trạng áp dụng pháp luật về xác định thiệt hại và mức
bồi thường cho người bị oan
77
3.2.
Thực tiễn xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự ở việt nam qua một số vụ
án oan điển hình

84
3.2.1.
Vụ án oan của các doanh nhân
84
3.2.2.
Vụ án oan - bồi thường thiệt hại theo quy định Luật trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước năm 2009
92
3.3.
Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác
định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự Việt Nam
96

KẾT LUẬN
99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
100




Danh môc c¸c ¶nh

Sè hiÖu
¶nh
Tªn ¶nh
Trang
1.1

Bà Yến chia sẻ với đôi vợ chồng bị oan trong buổi công
khai xin lỗi
15
3.1
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đọc lời
xin lỗi công khai trước toàn thể nhân dân, chính quyền địa
phương, cơ quan cô giáo Đức công tác ngày 29/9/2010
95


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình giải quyết vụ án hình sự luôn đòi hỏi sự khách quan công
bằng thể hiện chính sách đấu tranh, phòng ngừa tội phạm của Đảng và Nhà
nước ta: Mọi tội phạm đều bị phát hiện kịp thời, xử lý công minh theo đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Những năm qua
bên cạnh thành tựu đạt được thì tình trạng làm oan người vô tội vẫn xảy ra, có
chiều hướng gia tăng, phức tạp. Làm oan người vô tội đồng nghĩa với việc bỏ
lọt tội phạm, lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, kỷ cương pháp luật
bị coi thường dẫn đến làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nền công lý xã
hội chủ nghĩa. Việc khắc phục, bồi thường cho người bị oan do các cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra là cần thiết nhằm khôi phục thiệt hại vật chất, tinh
thần cho người bị oan, trả lại công bằng xã hội. Mặc dù đã có Nghị quyết 388
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà
nước đã có hiệu lực, nhưng việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị
oan còn nhiều bất cập, thiệt hại của người bị oan chưa được bù đắp thỏa đáng,
quyền và lợi ích của họ chậm được khắc phục đã tác động tiêu cực đến đời
sống xã hội.

Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, các cơ quan tư pháp đã góp
phần tích cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, góp phần
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp luật và các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực trong công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước. Tuy nhiên việc xử lý oan sai trong hoạt động điều tra,
truy bắt, giam giữ, truy tố, xét xử các vụ án hình sự vẫn đang là vấn đề bức
xúc, đáng lo ngại đặc biệt là việc áp dụng các quy định pháp luật về bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong thực tiễn chưa có hiệu quả.

2
Chính vì vậy, việc xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự là rất quan trọng trong quá trình hoàn
thiện về mặt pháp lý và áp dụng trong thực tiễn chế định pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đã có một số công trình khoa học,
bài viết, chuyên đề liên quan đến nội dung của đề tài như:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ
bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân
sự". Luận văn bao gồm nhiều nội dung, trong đó có những nội dung liên quan
đến đề tài của tác giả như: tiếp cận vấn đề trách nhiệm dân sự, khái niệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng và đặc điểm pháp lý.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Thị Bích Loan: "Một số vấn
đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín".
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Mai Anh: "Bồi thường thiệt hại do người
có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra". Nội dung của luận án đề
cập đến nhiều vấn đề có tính tham khảo quan trọng cho việc thực hiện đề tài
nghiên cứu của tác giả như: đặc điểm, nội dung, bản chất của trách nhiệm bồi
thường nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ

quan tiến hành tố tụng gây ra khi tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Thái Phương: "Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước".
- Sách chuyên khảo "Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản,
sức khỏe và tính mạng" của TS Phùng Trung Tập.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết của các tác giả trên các tạp chí khoa
học liên quan đến vấn đề pháp lý như: Bài viết "Chế định bồi thường thiệt hại

3
cho người bị oan - lý luận và thực tiễn" của tác giả Ngô Văn Hiệp; Bài viết
"Hoàn thiện pháp luật về minh oan và bồi thường thiệt hại cho người bị oan
trong tố tụng hình sự" của TS. Nguyễn Ngọc Chí; Bài viết "Khắc phục tình
trạng oan, sai trong tố tụng hình sự" của ThS. Bùi Kiên Điện; Bài viết "Vấn đề
oan sai trong tố tụng hình sự" của ThS. Lê Thị Thúy Nga hay bài viết "Thực tiễn
áp dụng Nghị quyết 388 trong việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan và một
số kiến nghị" của tác giả Đinh Văn Quế và Thanh Nga…và còn khá nhiều bài
viết của nhiều tác giả về vấn đề oan sai trong tố tụng hình sự. Mỗi bài viết đều
thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá ở những góc độ khác nhau về vấn đề này.
Nhìn chung các đề tài đã đề cập đến vấn đề cơ bản của Bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nói chung, đi sâu phân tích các trường hợp, các nội dung
trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xem xét, đánh giá một cách khái
quát vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước, phân tích, đánh
giá các khái niệm liên quan đến trách nhiệm bồi thường nhà nước, phân tích
vấn đề trách nhiệm bồi thường đối với oan sai trong tố tụng…
Tuy nhiên các đề tài này hoặc đề cập ở dạng khái quát về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt
hại nhà nước một cách chung chung hoặc đi sâu phân từng vấn đề nhỏ của chế
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước.
Do vậy, đề tài "Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự" là một đề tài mới chưa có một công

trình khoa học nào nghiên cứu, phân tích cho đến thời điểm hiện tại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích:
- Tìm ra những luận cứ khoa học và căn cứ thực tiễn cho việc xác định
thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
một cách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất. Đồng thời góp phần vào công cuộc

4
áp dụng hoàn thiện các chế định pháp lý về bồi thường thiệt hại nhà nước nói
chung và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình
sự nói riêng.
Nhiệm vụ:
- Xác định rõ thiệt hại và mức bồi thường trong từng trường hợp cụ thể
- Làm rõ mối liên hệ giữa quy định của pháp luật và áp dụng trong thực
tiễn các quy định về xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan
trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Làm rõ tầm quan trọng của mối liên hệ giữa thiệt hại và mức bồi
thường thỏa đáng cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đưa ra một số kiến giải nhằm hoàn thiện các chế định pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước đặc biệt là bồi thường thiệt hại cho
người bị oan do hoạt động tố tụng hình sự gây ra ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
"Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự" cũng là một trong những đề tài nghiên cứu, phân tích
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay còn gọi là trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng mà xét về bản chất thì bồi thường thiệt hại cho người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra được
hiểu là một loại trách nhiệm dân sự, mà hậu quả pháp lý của nó về mặt tài sản
được các bên thỏa thuận thông qua thương lượng hoặc do Tòa án quyết định
trong trường hợp thương lượng không thành, một bên tiến hành khởi kiện.

Đây là một dạng của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có chủ thể đặc biệt -
một bên là Cơ quan nhà nước (Cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại)
và một bên là công dân. Theo đó, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
buộc phải khắc phục hậu quả bằng cách phục hồi danh dự, bồi thường những
thiệt hại về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại.

5
Tuy nhiên, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ bồi thường
cho người bị thiệt hại những thiệt hại hợp lý được nhà nước quy định dựa trên
những căn cứ về thiệt hại, có hành vi vi phạm pháp luật, có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, người gây thiệt hại có lỗi khi
thi hành công vụ. Vậy những khoản bồi thường nào gọi là hợp lý? Có những
thiệt hại của người bị oan có thể định giá bằng tiền nhưng cũng có những thiệt
hại việc bồi thường bằng tiền chỉ mang tính tượng trưng, khắc phục được phần
nào những tổn thất mà người bị oan đã phải gánh chịu. Cách thức xác định
những thiệt hại như thế nào? Sự cần thiết của việc làm rõ các quy định này có ý
nghĩa đối với thực tiễn giải quyết bồi thường oan sai ở nước ta hiện nay? Mối
quan hệ giữa việc xác định thiệt hại chính xác đúng đắn hợp lý với mức bồi
thường thỏa đáng góp phần bảo đảm công bằng xã hội ra làm sao? Các quy
định của pháp luật hiện hành về xác định thiệt hại và mức bồi thường cho
người bị oan hiện nay ở Việt Nam có tính áp dụng thực tiễn hay không? Tất cả
những câu hỏi trên sẽ một phần nào được tác giả phân tích, giải đáp trong đề tài
này, góp một phần vào công trình nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước và khả năng áp dụng trong thực tiễn
giải quyết bồi thường oan sai hiện nay của nước ta.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của Chủ `
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh
đó là các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…

Tất cả các phương pháp này đều được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo góp
phần quan trọng trong quá trình hình thành và hoàn thành đề tài của tác giả.
6. Ý nghĩa và điểm mới của đề tài
- Đưa ra và luận giải sự cần thiết và tính hợp lý của việc xác định thiệt
hại và mức bồi thường thiệt hại nhà nước nói chung và cho người bị oan trong
hoạt động tố tụng hình sự nói riêng.

6
- Có những luận cứ mới về mối quan hệ chặt chẽ giữa xác định thiệt hại
và mức bồi thường và lý giải vấn đề tại sao khi nghiên cứu về vấn đề này
không thể tách biệt việc xác định thiệt hại và mức bồi thường. Đồng thời có
những luận cứ so sánh các quy định pháp luật về mặt luật thực định và áp
dụng trong thực tiễn về sự phù hợp, không phù hợp của việc xác định thiệt hại
và mức bồi thường cho người bị oan (bị gây thiệt hại).
- Có những đánh giá về sự phát triển các quy định của pháp luật về vấn
đề này qua các thời kỳ xây dựng pháp luật.
- Đưa ra một số nhận xét và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về xác định thiệt hại và mức bồi thường
cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xác định thiệt hại và mức bồi
thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Chương 3: Tình hình áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về
xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố
tụng hình sự ở Việt Nam.



7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI
VÀ MỨC BỒI THƢỜNG CHO NGƢỜI BỊ OAN
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1.1.1. Sơ lƣợc pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan
trong hoạt động tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước nói chung và bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự nói riêng là một vấn
đề còn rất mới cả về mặt khoa học lẫn thực tiễn pháp luật thực định trên thế
giới. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, từ quan điểm chủ quyền tuyệt đối
của Nhà nước nên quan niệm phổ biến trên thế giới được biết đến vẫn là quan
niệm về quyền miễn trừ của Nhà nước, theo đó "vua không thể làm gì sai" và
vì vậy không phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Về mặt lịch
sử, xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới lần thứ
hai, nhiều nước giành được độc lập, nhiều cuộc cách mạng dân chủ đòi quyền
lợi chính đáng kể cả trong trường hợp lợi ích bị xâm phạm bởi cơ quan công
quyền. Do quá trình lịch sử như vậy mà trong Hiến pháp của nhiều nước đã
ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và nhiều quốc gia
trên thế giới đã có Luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đặc
biệt là một số nước đã ban hành văn bản pháp lý cơ bản về đền bù hình sự hay
đền bù oan sai trong hoạt động tố tụng hình sự.
Nhật Bản là nước mà pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước rất hiệu quả. Nhật Bản ban hành Hiến pháp năm 1947, tại Điều 17 có
quy định: "Mọi người có quyền yêu cầu Nhà nước hoặc cơ quan công quyền
bồi thường thiệt hại mà họ phải gánh chịu do những hành vi trái pháp luật của

8

các quan chức nhà nước gây ra theo quy định của pháp luật". Đây là cơ sở
pháp lý rất quan trọng để người dân Nhật Bản có thể tự bảo vệ quyền lợi của
mình và cũng như cơ sở hiến định quan trọng để xây dựng các đạo luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Cùng trong năm 1947, Nghị
viện Nhật Bản đã thông qua Luật Bồi thường nhà nước. Đạo luật này tuy chỉ
có sáu (6) điều luật nhưng đã khẳng định được ý nghĩa to lớn của nó. Nội
dung cụ thể của Luật bao gồm: Điều 1: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi hoàn
của công chức nhà nước (hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra do thực
hiện công quyền); Điều 2: Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp có thiệt
hại xảy ra đối với người dân do những sai sót trong việc xây dựng hoặc quản
lý các con đường, sông và các phương tiện công cộng khác (hay trách nhiệm
bồi thường xảy ra do khiếm khuyết trong xây dựng và quản lý công trình công
cộng); Điều 3: Trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể trong hai trường hợp quy
định tại hai trường hợp trên; Điều 4: Việc áp dụng đồng thời Bộ luật Dân sự
khi giải quyết quan hệ bồi thường nhà nước; Điều 5: Việc áp dụng các đạo
luật khác trong trường hợp những đạo luật đó có quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước trong lĩnh vực riêng biệt; Điều 6: Về nguyên
tắc có đi có lại, cụ thể là trường hợp người nước ngoài bị thiệt hại thì trường
hợp nào sẽ được bồi thường. Các khiếu kiện yêu cầu Nhà nước bồi thường
được coi là các vụ kiện dân sự nên các quy định của Bộ luật Dân sự Nhật Bản
sẽ được viện dẫn áp dụng trong trường hợp cần thiết. Luật Bồi thường nhà
nước của Nhật Bản tuy đơn giản nhưng việc áp dụng lại rất linh hoạt vì Tòa
án Nhật Bản có thẩm quyền trong việc giải thích và áp dụng pháp luật khi giải
quyết các vụ việc cụ thể. Bước đột phá trong vấn đề đền bù nhà nước được
đánh dấu vào năm 1950, Nghị viện Nhật Bản tiếp tục ban hành Luật Đền bù
hình sự, theo đó, "quy định trách nhiệm đền bù tổn thất của Nhà nước đối với
những người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự - một điểm cần lưu ý
là đạo luật này chỉ áp dụng cho trường hợp mà nạn nhân đã được chuyển


9
sang giai đoạn xét xử ở Tòa án và được Tòa án phán quyết là trắng án" [17].
Một điểm cần lưu ý khác là đạo luật này nhằm mục đích áp dụng cho những
hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng mà không xem xét đến yếu tố lỗi của
người trực tiếp thực hiện hành vi tố tụng. Theo giải thích của các chuyên gia
Nhật Bản thì đây là một trong những đạo luật nhằm áp dụng cho trường hợp:
hành vi cần thiết phải làm và hành vi này không trái pháp luật; hành vi cần
thiết mà Nhà nước đã thực hiện dù cần thiết và hợp pháp song không thể tránh
được việc gây ra một tổn thất cho ai đó; việc gây ra tổn thất được coi như việc
một người chịu thiệt thòi vì một lợi ích chung và vì vậy Nhà nước có biện
pháp, chính sách đền bù thỏa đáng. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Bộ Tư
pháp Nhật Bản còn ban hành Quy tắc về bồi thường cho người bị tình nghi,
theo đó những người là nạn nhân của hoạt động điều tra, truy tố nhưng được
chấm dứt hoạt động tố tụng mà chưa chuyển sang giai đoạn xét xử ở Tòa án
thì cũng sẽ được đền bù.
Một quốc gia châu Âu có hệ thống pháp luật rất phát triển là Cộng hòa
Liên bang Đức thì nước này không có một hệ thống pháp luật rõ ràng về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Năm 1981, Cộng hòa liên bang
Đức có ban hành Luật về trách nhiệm Nhà nước; tuy nhiên, sau đó đạo luật
này bị tuyên là trái Hiến pháp và vì vậy không có hiệu lực thi hành. Hiện nay
việc xét xử của Tòa án đối với các yêu cầu bồi thường nhà nước được thực
hiện trên cơ sở Điều 34 Hiến pháp Đức và Điều 839 Bộ luật Dân sự Đức về
trách nhiệm của công chức do vi phạm trách nhiệm công vụ.
Trung Quốc - nước láng giềng của Việt Nam cũng có hệ thống pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đã được định hình ổn định.
Văn bản pháp luật hiện nay được áp dụng để giải quyết các yêu cầu bồi thường
nhà nước của Trung Quốc là Luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước được Quốc hội Trung Quốc thông qua năm 1994. Đạo luật này quy định
trách nhiệm của Nhà nước Trung Quốc trong trường hợp các cơ quan nhà nước


10
gây thiệt hại trái pháp luật cho cá nhân, tổ chức; phạm vi áp dụng của đạo luật
này loại trừ lĩnh vực lập pháp, theo đó chỉ những hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực hành chính và tư pháp hình sự mới thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật này. Khác với Luật Bồi thường nhà nước của Nhật Bản, Luật của Trung
Quốc lại quy định rất chi tiết và cụ thể về các vấn đề, ví dụ: các trường hợp
được bồi thường do xâm phạm quyền nhân thân (Điều 3); các trường hợp được
bồi thường do xâm phạm về tài sản (Điều 4); các trường hợp Nhà nước không
phải bồi thường (Điều 5) [18] v.v Ngoài ra, để áp dụng Luật này trên thực
tiễn, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Trung Quốc cũng đã có văn bản hướng dẫn để thi hành.
1.1.2. Sơ lƣợc về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan
trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam
Việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình
sự gây ra đã thể hiện từ lâu và được ghi nhận tại Hiến pháp. Cụ thể, Điều 29
Hiến pháp 1959 quy định " Người bị thiệt hại vì hành vi vi phạm pháp luật
của nhân viên cơ quan nhà nước có thẩm quyền được bồi thường" [27]. Điều 73
Hiến pháp 1980 quy định: " Mọi hành động xâm phạm quyền, lợi ích chính
đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người
bị thiệt hại có quyền được bồi thường" [28]. Đoạn 2 Điều 72 Hiến pháp 1992
quy định: "Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố trái pháp luật có quyền được
bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp
luật trong việc bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác
phải bị xử lý nghiêm minh" [30].
Bộ luật Dân sự 1995, Điều 624 quy định về bồi thường thiệt hại do
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, theo đó:
Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người
có thẩm quyền của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách


11
nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả
khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy
định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền đó có lỗi trong khi thi
hành nhiệm vụ [31].
Cụ thể hóa quy định của Bộ luật Dân sự, ngày 3/5/1997 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 47/CP về giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức,
viên chức nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Ngay sau khi Nghị định 47/ CP ra đời, để quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Nghị định 47/CP, các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước
trong lĩnh vực có liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn quan trọng:
Ngày 4/6/1998 Ban Tổ chức - Cán bộ Chính Phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã ban
hành Thông tư số 54/1998 TT-TCCP hướng dẫn thực hiện một số nội dung
Nghị định 47/CP; ngày 30/3/1998 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
38/1998/TT-BTC hướng dẫn việc lập dự toán ngân sách nhà nước cho bồi
thường thiệt hại do công chức, viên chức, người có thẩm quyền của cơ quan
nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Trong những năm gần đây vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra được Đảng ta
đặc biệt quan tâm, cụ thể: Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ
Chính trị chỉ rõ:
Cùng với việc phát hiện và chú trọng giải quyết kịp thời các
vụ án có dấu hiệu oan, sai, cần khẩn trương nghiên cứu xây dựng
cơ chế, chính sách để bồi thường thiệt hại với các trường hợp bị
oan, sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra Việc bồi thường thiệt
hại cần thực hiện đúng trình tự thủ tục đối với từng trường hợp cụ
thể; những tài sản đã bị tịch thu, kê biên sai thì cần hoàn trả ngay;
cần làm rõ cơ sở pháp lý, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân;
phân định trách nhiệm từng cơ quan và cá nhân tiến hành tố tụng
và mức độ thiệt hại về dân sự do việc làm oan sai gây ra [10].


12
Nghị quyết số 08 -NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị yêu cầu
" khẩn trương ban hành và thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về
bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp oan, sai trong hoạt động tố
tụng;nghiên cứu xây dựng quỹ bồi thường thiệt hại về tư pháp " [11].
Bộ luật Tố tụng Hình sự 2004 sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 24 Bộ
luật Tố tụng Hình sự 1988 thành hai nguyên tắc độc lập là nguyên tắc bảo
đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của
người bị oan (Điều 29) và nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của
người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
hình sự gây ra (Điều 30).
Quán triệt đầy đủ yêu cầu Chỉ thị số 53-CT/TW và Nghị quyết số 08,
ngày 17/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
388/2003/ NQ-UBTVQH11 bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra.
Ngày 25/3/2004 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư số 01/2004/ TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC
hướng dẫn việc thực hiện Nghị quyết 388 (sau đây gọi tắt là Thông tư 01).
Ngày 13/5/2004, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ
thị số 04 về việc triển khai thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự và yêu cầu Viện
kiểm sát các cấp tiến hành tổng rà soát lập danh sách những người bị oan
thuộc trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm sát nhân dân. Tiếp đố, ngày
28/5/2004 Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có văn bản hướng dẫn Viện
kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc
tổng rà soát, ngày 1/6/2004 đã có hướng dẫn thống nhất mở sổ thụ lý vụ việc
giả quyết đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại người bị oan và hướng dẫn về các
trình tự thủ tục giải quyết bồi thường; Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Công văn số 72/2004/KHXX ngày 21/4/2004 hướng dẫn cụ thể hơn về thẩm


13
quyền và các thủ tục bồi thường của ngành tòa án theo quy định của Nghị
quyết 388; Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 18/2004/TT-BCA ngày
9/11/2004 hướng dẫn bồi thường thiệt hại cho các trường hợp bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc Công an nhân dân gây ra.
Bộ luật Dân sự năm 2005 đã tiếp tục ghi nhận trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cán bộ công chức và người có thẩm quyền của cơ quan tố tụng tại
Điều 619; Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm
quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật,
nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ (Điều 620). Nhằm
khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại cho người bị
oan, sai nói chung và cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự nói
riêng, Quốc hội khóa 11 đã ban hành Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước
năm 2009. Trong đó quy định khá chi tiết các nguyên tắc, thủ tục bồi thường, vấn
đề hoàn trả, đặc biệt là vấn đề xác định thiệt hại và mức bồi thường
Như vậy, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước Việt Nam
nói chung và bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự nói
riêng đã manh nha hình thành ngay từ những ngày đầu tiên thành lập nước
thông qua một số quy định trong Hiến pháp. Song chỉ đến khi Bộ luật dân sự
năm 2005 ra đời có hiệu lực và sự ra đời Luật trách nhiệm bồi thường nhà
nước 2009 mới điều chỉnh một cách toàn diện quan hệ bồi thường nhà nước,
khắc phục những hạn chế của những văn bản trước đó.
1.1.3. Xác định thiệt hại và mức bồi thƣờng cho ngƣời bị oan trong
hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam
Trước khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời và nay là Bộ Luật dân sự
năm 2005, Cho dù không được quy định một cách cụ thể rõ ràng trong bất kỳ
một văn bản pháp luật nào nhưng nội dung vấn đề xác định thiệt hại và mức
bồi thường cho người bị oan vẫn được hiểu trên các nguyên tắc, quy tắc cơ
bản của Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.


14
Theo Bộ luật dân sự năm 2005, Chương V, Mục 2 quy định khá chi tiết
về vấn đề xác định thiệt hại, mức bồi thường , Đáng chú ý là quy định chung
về Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra. Nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa quy định này trong các lĩnh vực pháp
luật điều chỉnh. Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 đã quy định khá
chi tiết vấn đề xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan, Nghị
quyết quy định khi có công dân bị oan, sai do người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra, cơ quan có cán bộ, công chức thực hiện hành vi
gây thiệt hại phải tiến hành khắc phục hậu quả trên hai phương diện là khôi
phục danh dự và bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho họ.
Việc khôi phục danh dự:
Cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải xin lỗi, cải chính
công khai cho người bị oan thông qua hai hình thức là trực tiếp và tại nơi cư
trú hoặc nơi làm việc của người bị oan, có sự tham dự của chính quyền địa
phương nơi người bị oan cư trú, đại diện cơ quan nơi có người bị oan làm
việc, đại diện của một tổ chức chính trị xã hội mà người bị oan là thành viên.
Đăng trên tờ báo trung ương (Báo nhân dân hoặc Quân đội Nhân dân) và một
tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp, trừ trường hợp người bị oan hoặc
người thân của họ yêu cầu không đăng báo.
Ví dụ:
Tối 31/7/2008, sau gần 2 năm bị bắt giam và kết án oan với
tội danh "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", vợ chồng ông
Thống đã được minh oan khi cơ quan tố tụng chính thức xin lỗi tại
trụ sở khu phố nơi họ đang sinh sống. Dù được thông báo buổi làm
việc sẽ diễn ra lúc 7 giờ tối, nhưng từ rất sớm ông Trần Văn Thống
(54 tuổi) và vợ là bà Lê Thị Lộc (49 tuổi) cùng những hộ dân tại
khu phố 7, phường 15, quận 10 đã tập trung về trụ sở khu phố để
chờ đợi buổi xin lỗi công khai của Tòa án nhân dân thành phố Hồ

Chí Minh.

15
Ảnh 1.1: Bà Yến chia sẻ với đôi vợ chồng bị oan
trong buổi công khai xin lỗi

Nguồn: VietNamnet.com (2007)
Tại buổi làm việc, bà Hà Thúy Yến (phó Chánh án) thay mặt
tòa phát biểu lời xin lỗi chân thành đến vợ chồng ông Thống. Đồng
thời, bà Yến cũng đề nghị chính quyền địa phương và các tổ chức
chính trị xã hội tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ông bà này được
sớm hòa nhập với cộng đồng. "Thật sự họ đã bị bắt oan", bà Yến nói.
Ngoài ra, bà Yến cũng thẳng thắn nhìn nhận việc xét xử oan
sai đối với vợ chồng Thống là do lỗi của tòa thành phố. "Với việc
xử oan như thế này, chúng tôi thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm.
Đây cũng là một bài học lớn cho chúng tôi…", bà này bộc bạch.
Phát biểu tại buổi xin lỗi, vợ chồng ông Thống đã bày tỏ lòng
biết ơn đối với Tòa án nhân dân thành phố vì đã đến tận địa phương
để minh oan, trả lại công bằng cho họ. Tuy nhiên, ông Thống cũng
thẳng thắn yêu cầu cơ quan chức năng phải có biện pháp xử lý đối với
người đã tố cáo, vu khống cho vợ chồng ông bà, gây hậu quả nghiệm

16
trọng. Ngoài ra, ông này còn đề nghị tòa phải nhanh chóng giải quyết
số tiền bồi thường hơn 350 triệu đồng cho gia đình ông.
Nội dung vụ án: năm 2003, do nhận được lá đơn tố cáo của
một Việt kiều cho rằng đã bị vợ chồng ông Thống, bà Lộc chiếm
đoạt 27.000 USD và 160 triệu đồng khi mua bán nhà đất, cơ quan
điều tra đã khởi tố đối với Trần Văn Thống và Lê Thị Lộc. Sau đó,
ông Thống bị bắt tạm giam. Cuối năm 2005, tòa án TP HCM đã

tuyên phạt bà Lộc 2 năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Ông Thống
bị lãnh án 1 năm 9 tháng 3 ngày tù (bằng đúng thời hạn tạm giam)
cùng về tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Ngay sau đó,
ông bà đã kháng cáo kêu oan và tòa phúc thẩm đã tuyên hủy toàn
bộ bản án trên để điều tra xét xử lại. Đến năm 2007, cơ quan điều
tra nhận thấy không đủ chứng cứ buộc tội nên đã quyết định đình
chỉ bị can đối với vợ chồng ông [65].
Dưới phương diện bồi thường thiệt hại về vật chất: được xét trên hai
khía cạnh là thiệt hại do tổn thất về tinh thần và thiệt hại về vật chất. Trong đó
có các quy định chi tiết về xác định thiệt hại và mức bồi thường trong từng
trường hợp cụ thể như: Thiệt hại do tổn thất về tinh thần, thiệt hại vật chất
chia thành 4 nhóm là: thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan chết;
thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan bị tổn thất về sức khỏe; trả
lại tài sản và bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản bị xâm phạm; thiệt
hại do thu nhập thực tế bị mất của người bị oan.
Đặc biệt nhờ có nghị quyết này mà một số người bị oan đã tiến hành
đòi bồi thường theo thủ tục chung đồng thời cũng xác định được các thiệt hại
và mức bồi thường cho những người bị oan này.
Ví dụ:
Cùng việc khôi phục danh dự, uy tín cho ông Thống và bà
Lộc trong vụ án trên, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

17
thống nhất bồi thường số tiền hơn 496 triệu đồng cho hai ông bà về
các khoản thiệt hại vật chất, tinh thần như: Thiệt hại do ông Thống
bị giam oan 1 năm 9 tháng 3 ngày tù; bà Lộc bị kết án 2 năm tù cho
hưởng án treo, thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất, thiệt hại về tinh
thần [65].
Theo Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước năm 2009 thì
vấn đề xác định thiệt hại được xác định trong từng trường hợp khá cụ thể, rõ

ràng vẫn trên tinh thần của hai loại thiệt hại là thiệt hại về tinh thần và thiệt
hại về vật chất. Nhưng đã thể hiện được khá chặt chẽ bản chất của hai loại
thiệt hại này. Thiệt hại về vật chất được xác định như sau: thiệt hại do tài sản
bị xâm phạm; thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại
về vật chất do người bị thiệt hại chết; thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về
sức khỏe; trả lại tài sản. Thiệt hại về tinh thần cũng được xác định khá chi
tiết trong từng trường hợp như: thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường
hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù; thiệt hại do tổn thất về
tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết; thiệt hại do tổn thất về
tinh thần trong trường hợp bị tổn hại về sức khỏe; thiệt hại do tổn hại về tinh
thần trong trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị
tạm giữ, tạm giam
Song song với việc xác định thiệt hại khá rõ ràng trong từng trường
hợp là việc quy định mức bồi thường cũng rất chi tiết như việc căn cứ vào
giá tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật và
mức độ hao mòn của tài sản bị phát mại, bị mất; trường hợp cá nhân có thu
nhập thường xuyên nhưng không ổn định thì mức bồi thường được xác
định căn cứ vào thu nhập trung bình trong ba tháng liền kề trước thời điểm
thiệt hại gây ra; thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp người bị
thiệt hại chết được ấn định mức bồi thường là ba trăm sáu mươi tháng
lương tối thiểu

18
1.2. THIỆT HẠI, XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VÀ MỨC BỒI THƢỜNG CHO
NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.2.1. Thiệt hại và xác định thiệt hại trong Bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng
1.2.1.1. Thiệt hại
Theo luật dân sự Việt Nam thì thiệt hại là những tổn thất thực tế được
tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,

tài sản của cá nhân và các chủ thể khác. Tổn thất thực tế được đề cập ở đây
là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh thần, hay những chi phí để
ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu.
Những thiệt hại thực tế xảy ra có thể là thiệt hại vật chất hoặc tinh thần.
Thiệt hại vật chất là thiệt hại được biểu hiện cụ thể như tài sản đã mất mát,
những chi phí cần thiết để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế tài sản bị hư
hỏng, những khoản thu nhập thực tế bị mất.
Vậy, thiệt hại được hiểu là:
Bị tổn thất, hư hao về người và tài sản và được xác định bằng
một khoản tiền cụ thể. Thiệt hại gây ảnh hưởng đến các quan hệ kinh
tế - xã hội được pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng phản ánh hậu quả
của hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức, pháp nhân cũng như của Nhà nước [42].
Bồi thường thiệt hại chính là nhằm khôi phục lại toàn bộ hoặc một phần
tình trạng tài sản trước khi xảy ra thiệt hại hoặc bù đắp những tổn thất do tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, bị xâm phạm nên thiệt hại được coi là
điều kiện có ý nghĩa quan trọng. Không thể bồi thường thiệt hại khi không có
thiệt hại xảy ra.
1.2.1.2. Thiệt hại về vật chất
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây ra những thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì thiệt hại

19
được xác định như thế nào? Tính mạng, sức khỏe của con người là vô giá
không thể tính thành tiền, do vậy bồi thường thiệt hại ở đây không phải là bồi
thường về tính mạng, sức khỏe mà nó là những bồi thường thiệt hại vật chất.
Những chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng
cho bên bị thiệt hại hoặc những chi phí cần thiết khác., bồi thường thiệt hại về
vật chất là khoản bồi thường có thể "lượng hóa" được, mặc dù ở mức độ
tương đối. Theo quy định tại Điều 307 Bộ luật dân sự thì trách nhiệm bồi

thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về tài sản, chi phí
hợp lý cho việc ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, thu nhập
thực tế bị giảm sút của người bị thiệt hại và tùy từng trường hợp có thể được
tính cho cả người chăm sóc người bị thiệt hại.
Mặc dù thiệt hại về vật chất có thể lượng hóa bằng tiền nhưng trên thực
tế các vụ án đòi bồi thường thiệt hại do bị oan sai cũng gặp nhiều khó khăn
trong việc xác định thiệt hại về vật chất dẫn đến việc giải quyết kéo dài do
không thỏa thuận được mức bồi thường hoặc mức bồi thường tòa án quyết
định quá thấp so với yêu cầu đòi bồi thường của người bị oan. Bên cạnh đó,
có những vụ án cấp sơ thẩm quyết định mức bồi thường quá thấp so với thực
tế chi phí gia đình người bị thiệt hại đã bỏ ra, không bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp cho đương sự, cấp phúc thẩm đã khắc phục thiếu sót, sửa bản án sơ
thẩm, tăng mức bồi thường.
Ví dụ:
Vụ án ông Hoàng Minh Tiến ở Hà Nội đã yêu cầu Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Hà Nội bồi thường cho nhiều khoản thiệt
hại về vật chất và tinh thần với tổng số tiền 2,2 tỷ đồng. Nhưng Viện
kiểm sát chỉ chấp nhận bồi thường gần 28 triệu, đồng thời bác 12
khoản khác mà ông Tiến yêu cầu, trong đó có căn nhà số 6/95 Bạch
Mai. Sau 3 lần thương lượng không thành, ông tiến kiện Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Hà Nội ra tòa án. Tại phiên sơ thẩm ngày

×