Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thừa kế theo pháp luật - một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.33 KB, 109 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HƢƠNG GIANG





THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2014



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN HƢƠNG GIANG




THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu






HÀ NỘI - 2014


3




Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Nguyễn H-ơng Giang












4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
7
1.1.
Khái niệm thừa kế theo pháp luật và các trường hợp thừa kế
theo pháp luật
7
1.1.1.
Khái niệm thừa kế theo pháp luật
7
1.1.2.
Các trường hợp thừa kế theo pháp luật
9
1.2.
Tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo
pháp luật
11
1.2.1.
Trước năm 1945
12
1.2.2.
Từ năm 1945 đến nay
15
1.4.
Quy định của một số quốc gia về thừa kế theo pháp luật
21
1.4.1.
Pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Pháp
22

1.4.2.
Pháp luật dân sự và thương mại Thái Lan
25

Chương 2: DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
29
2.1.
Căn cứ xác định diện thừa kế theo pháp luật
29
2.1.1.
Quan hệ hôn nhân
30
2.1.2.
Quan hệ huyết thống
36
2.1.3.
Quan hệ nuôi dưỡng
40
2.2.
Hàng thừa kế theo pháp luật
46

5
2.2.1.
Số lượng các hàng thừa kế và nguyên tắc phân chia người
thừa kế theo các hàng thừa kế
47
2.2.2.
Hàng thừa kế thứ nhất
49

2.2.3.
Hàng thừa kế thứ hai
54
2.2.4.
Hàng thừa kế thứ ba
56
2.3.
Thừa kế thế vị
58
2.3.1.
Khái niệm thừa kế thế vị và đặc điểm của thừa kế thế vị
58
2.3.2.
Các trường hợp thừa kế thế vị
60
2.4.
Di sản thừa kế theo pháp luật và chia di sản thừa kế
62
2.4.1.
Di sản thừa kế theo pháp luật
62
2.4.2.
Chia di sản thừa kế theo pháp luật
64
2.4.3.
Những trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo
pháp luật
66

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

NHỮNG QUI ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
70
3.1.
Thực tiễn áp dụng pháp luật
70
3.1.1.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật
trong những năm gần đây
70
3.1.2.
Nguyên nhân
79
3.1.3.
Một số vấn đề còn tồn tại trong các quy định về thừa kế theo
pháp luật theo Bộ luật Dân sự hiện hành
82
3.2.
Kiến nghị hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế
theo pháp luật
87
3.2.1.
Yêu cầu chung
87
3.2.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật
về thừa kế theo pháp luật
88

KẾT LUẬN
95


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97

6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật dân sự
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao


7



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
3.1
Số lượng các vụ án về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở

cấp sơ thẩm từ năm 2008-2012
70
3.2
Số lượng các vụ việc về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở
cấp phúc thẩm từ năm 2008-2012
71


8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định thừa kế là một trong những chế định đặc biệt quan trọng trong
pháp luật dân sự nên trong bất kỳ Bộ luật dân sự (BLDS) nào, chế định thừa kế
luôn chiếm vị trí trọng tâm. Ngay trong Hiến pháp - đạo luật gốc của hệ thống
pháp luật Việt Nam, thừa kế được ghi nhận là một quyền cơ bản của công dân.
Tại Điều 19 Hiến pháp năm 1959 quy định: "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo
hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân" [27]. Tiếp đó, Điều 27 Hiến pháp
năm 1980 đã có sự kế thừa và sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn: "…Pháp luật
bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân" [29]. Trải qua quá trình phát triển,
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục ghi nhận và khẳng định "…Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" [31, Điều 58]. Trên
tinh thần của Hiến pháp năm 1992 và kế thừa quy định của BLDS năm 1995,
chế định thừa kế được ghi nhận trong BLDS năm 2005 đã có sự thay đổi tích
cực, phù hợp với sự phát triển của xã hội và mang tính khả thi hơn. Những
quy định về thừa kế trong BLDS năm 2005 được xem là kết quả vượt bậc của
quá trình pháp điển hóa, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp liên quan đến vấn đề thừa kế của công dân. Theo đó, chế định thừa
kế được quy định bao gồm hai hình thức, đó là thừa kế theo di chúc và thừa
kế theo pháp luật. Một trong những nét đẹp truyền thống về gia đình trong

văn hóa Việt Nam chính là việc chuyển những thành quả của thế hệ đi trước
dành tặng cho con cháu. Tuy nhiên, hiện nay, trên thực tế thói quen lập di
chúc của người Việt Nam vẫn chưa phổ biến do còn coi trọng các phong tục,
tập quán, tình cảm giữa cha con, vợ chồng, anh em… Bên cạnh đó, có rất
nhiều trường hợp lập di chúc nhưng bản di chúc này lại không có giá trị pháp
lý vì không đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, chẳng hạn như
vi phạm về chủ thể lập di chúc, hình thức di chúc, nội dung di chúc. Do đó,

9
phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định về
thừa kế theo pháp luật.
Trong quá trình xã hội hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt
Nam đã thực sự chuyển mình và có những thay đổi toàn diện và sâu sắc về
mọi mặt của đời sống. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tế mở đó đã tạo điều
kiện cho mọi người đều có cơ hội làm giàu cũng như tự khẳng định mình.
Theo đó, tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú cả về
giá trị, số lượng, chủng loại, trong đó không phải tài sản nào pháp luật cũng
có quy phạm điều chỉnh hay có thể dự liệu hết được. Vấn đề thừa kế di sản
cũng từ đó mà nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Thực tiễn giải quyết
các vụ án về tranh chấp thừa kế gặp phải không ít khó khăn, thậm chí phải xét
xử nhiều lần ở nhiều cấp xét xử khác nhau gây tốn kém cả về thời gian và chi
phí. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phải kể đến
các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói
riêng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau là tiền đề cho việc áp dụng không nhất quán.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài "Thừa kế
theo pháp luật - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ
Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận
cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài

Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học về pháp luật thừa kế
đã có nhiều công trình, bài viết về vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế theo
pháp luật nói riêng, có thể chia thành ba nhóm lớn như sau:
- Nhóm luận văn, luận án: ở nhóm này có thể liệt kê một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu như Luận án tiến sĩ với nhan đề "Thừa kế theo pháp
luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" đã được tác giả Phùng
Trung Tập bảo vệ thành công năm 2002. Với đề tài này, tác giả đã nghiên

10
cứu, hệ thống hóa các quy định pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình
hình thành và phát triển qua các thời kỳ để từ đó đánh giá nội dung những quy
định về thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam. Hay Luận án tiến sĩ
luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế
trong Bộ luật Dân sự" của Nguyễn Minh Tuấn đã luận giải những vấn đề lý
luận và thực tiễn của các quy định về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ
phát triển. Luận văn thạc sĩ luật học với tựa đề "Thừa kế theo pháp luật của
cháu, chắt theo quy định của pháp luật Việt Nam" của Lê Đức Bền cũng góp
phần quan trọng làm rõ hơn các quy định về thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên,
những đề tài trên đều có phạm vi nghiên cứu rất rộng, mang tính khái quát cao.
- Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: ở nhóm này, trước tiên
phải kể đến cuốn sách chuyên khảo "Luật Thừa kế Việt Nam" của Tiến sĩ
Phùng Trung Tập, Nxb Hà Nội, 2008 và cuốn "Pháp luật thừa kế của Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Nguyễn Minh Tuấn được xuất
bản vào năm 2009. Ngoài ra, còn có một số giáo trình và sách bình luận khoa
học Luật dân sự Việt Nam. Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc
phân tích, bình luận các quy định của pháp luật thừa kế chứ chưa hoặc ít đề
cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên.
- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: Các bài nghiên cứu
thuộc nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí

Luật học… Trong đó phải kể đến bài viết "Hoàn thiện chế định thừa kế trong
Bộ luật Dân sự" của Nguyễn Văn Mạnh, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 4, 5 năm 2002; "Hoàn thiện quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân
sự" của Phạm Văn Tuyết, đăng trên Tạp chí Luật học (số Đặc san), năm 2003;
"Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo
hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội, ngoại" của Phùng Trung Tập, đăng
trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24 năm 2005; "Di sản không có người thừa
kế hoặc từ chối nhận di sản - vấn đề cần có hướng dẫn" của Đỗ Văn Chỉnh,

11
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20, năm 2006; hay bài viết của tác giả
Phùng Trung Tập "Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt Nam trong 60
năm qua", được đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2, năm 2006.
Đây thực sự là những công trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý
luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này hoặc đề cập
đến những vấn đề mang tính khái quát chung về chế định thừa kế qua các thời
kỳ hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một quan hệ thừa kế nhất định chứ chưa
nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vấn đề thừa kế theo pháp luật hiện
hành. Thừa kế theo pháp luật không phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi
từng ngày từng giờ của các quan hệ xã hội, quan hệ tài sản đòi hỏi phải có
những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu kịp
thời để có hướng đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này cho
phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ loại hình thừa kế di sản tuân theo
các nguyên tắc, điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, mà không
phụ thuộc vào sự định đoạt ý chí của người có tài sản để lại. Đó chính là việc
vừa hệ thống hóa các quy phạm pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình
hình thành và phát triển từ năm 1945 đến nay, vừa phân tích và đánh giá hiệu

quả điều chỉnh của chế định pháp luật này qua các thời kỳ phát triển của xã
hội Việt Nam, từ đó một mặt góp phần hoàn chỉnh lý luận khoa học đối với
chế định pháp luật quan trọng này, mặt khác, giải quyết tốt vấn đề lý luận
cũng giúp cho việc thi hành, áp dụng cũng như hoàn thiện các qui định về
thừa kế theo pháp luật, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chúng.
 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:

12
- Những vấn đề lý luận liên quan đến các quy định về thừa kế theo
pháp luật, bao gồm làm rõ khái niệm thừa kế theo pháp luật, phân tích tiến
trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật đồng thời có
sự so sánh giữa thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc để rút ra được
đặc trưng của mỗi hình thức và để có thể nhìn nhận vấn đề thừa kế một cách
toàn diện.
- Xác định diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật.
- Xác định điều kiện, các trường hợp được hưởng thừa kế thế vị.
- Tìm hiểu những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn và đề xuất cách
thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về
thừa kế theo pháp luật và một số công trình nghiên cứu cũng như những vụ
việc cụ thể có liên quan đến vấn đề này.
 Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về thừa kế theo
pháp luật trong một số văn bản pháp luật như: BLDS năm 2005; BLDS năm
1995; Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000; và các văn bản pháp
luật khác có liên quan. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định
về thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam.

- Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số
nước điều chỉnh về thừa kế theo pháp luật, có sự so sánh và đối chiếu với
pháp luật thừa kế của Việt Nam, qua đó tham khảo, học hỏi, tiếp thu có chọn
lọc những điểm phù hợp để bổ sung, hoàn thiện các quy định về thừa kế theo
pháp luật trong BLDS Việt Nam.

13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác-
Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực thừa kế.
Ngoài ra, để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn còn vận dụng, kết hợp
các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thừa kế theo pháp luật.
Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện những quy định về
thừa kế theo pháp luật.


14
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1.1. KHÁI NIỆM THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VÀ CÁC TRƢỜNG HỢP
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật

Với tư cách là thực thể xã hội, con người đã để lại dấu ấn của mình
trong thế giới hiện thực bằng toàn bộ sáng tạo của mình. Hoạt động lao động
sản xuất không những là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội mà còn là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của con người. Xã hội càng phát
triển, nhu cầu vật chất của con người càng tăng. Để thỏa mãn nhu cầu đó, con
người không ngừng cải biến tự nhiên, ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất.
Nếu như tài sản có thể tồn tại lâu dài hoặc chuyển hóa từ dạng này sang dạng
khác thì ngược lại, con người theo quy luật tự nhiên, được sinh ra rồi sẽ chết
đi. Bởi vậy, khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thỏa mãn
nhu cầu của mình, khi chết, tài sản của họ được dịch chuyển cho người còn
sống là hoàn toàn phù hợp với lẽ tự nhiên. Quá trình dịch chuyển tài sản đó từ
thế hệ này sang thế hệ khác được hiểu là việc thừa kế di sản.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì "Thừa kế là việc
dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống" [55] hay theo Từ
điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp thì thừa kế được giải
thích là "Sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế
luôn gắn với sở hữu. Sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là
phương tiện để duy trì, củng cố quan hệ sở hữu" [54, tr. 754]. Quá trình dịch
chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được hình thành ở bất
cứ xã hội nào, ngay từ thời sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản
nguyên thủy. Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã
chỉ ra rằng quan hệ thừa kế xuất hiện như một tất yếu khách quan cùng với

15
quan hệ sở hữu. Khi thừa kế tài sản chưa có sự can thiệp của Nhà nước thì thừa
kế đơn thuần chỉ là quan hệ xã hội mang tính kinh tế. Khi Nhà nước ra đời,
thông qua các quy phạm pháp luật, Nhà nước đã điều chỉnh, tác động đến quá
trình dịch chuyển tài sản nói trên bao gồm cả quyền để lại tài sản cũng như
quyền hưởng di sản của các chủ thể được gọi chung là quyền thừa kế. Như vậy,
khác với thừa kế xuất hiện ngay từ thời kỳ sơ khai, khi xã hội chưa có sự phân

chia giai cấp, khái niệm quyền thừa kế chỉ xuất hiện khi có sự xuất hiện của
Nhà nước và pháp luật. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế có thể được hiểu là
một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn sống. Theo nghĩa
hẹp, quyền thừa kế có thể được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của
chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của
người chết để lại theo ý chí của người đó khi còn sống (bằng di chúc) hoặc theo
điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định (thừa kế theo pháp luật).
Không nằm ngoài xu thế chung của thế giới, pháp luật thừa kế của
Việt Nam cũng quy định hai hình thức thừa kế bao gồm thừa kế theo di chúc
và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển tài sản của
người đã chết cho người còn sống theo ý chí của người lập di chúc khi còn
sống. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người để lại di sản cũng lập
di chúc hoặc di chúc do người này lập ra đều phát sinh hiệu lực theo quy định
của pháp luật. Do đó, song song với hình thức thừa kế theo di chúc, pháp luật
còn quy định về hình thức thừa kế theo pháp luật nhằm đảm bảo quyền thừa
kế của các chủ thể.
Theo quy định tại Điều 674 BLDS năm 2005 thì "Thừa kế theo pháp
luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật
quy định" [35].
Thừa kế theo pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp người
chết không để lại di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp và

16
các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo pháp
luật là cá nhân và có mối quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân hoặc
quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật được pháp luật chỉ định hưởng di sản theo một trật tự ưu tiên là
theo hàng thừa kế.
Qua việc phân tích trên đây có thể rút ra định nghĩa về thừa kế theo

pháp luật như sau: Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người
chết cho người còn sống trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân,
quan hệ nuôi dưỡng hay quan hệ thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau
khi họ chết và người nhận di sản.
Thừa kế theo pháp luật về bản chất vừa bảo vệ quyền đương nhiên của
người có tài sản được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của
những người có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với người đã
chết có tài sản để lại.
1.1.2. Các trƣờng hợp thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật không chỉ phát sinh khi người để lại di sản
không có di chúc mà còn có thể phát sinh trong nhiều tình huống khác. Qua
mỗi giai đoạn phát triển, quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật
ngày càng chặt chẽ, rõ ràng và toàn diện hơn. Theo quy định tại Điều 675
BLDS năm 2005 thì thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường
hợp sau đây:
Một là, không có di chúc. Đây là trường hợp theo quy định của pháp
luật, người để lại di sản đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể trong việc lập di
chúc nhưng lại không thực hiện quyền lập di chúc của mình.
Hai là, di chúc không hợp pháp. Mặc dù người để lại di sản có lập di
chúc nhưng di chúc này lại không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực
của di chúc theo quy định của pháp luật dẫn đến di chúc vô hiệu (không có
giá trị pháp lý), di sản sẽ được chia theo pháp luật.

17
Ba là, những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế
theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp này, di chúc bị
coi là vô hiệu căn cứ theo quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc tại
khoản 2 Điều 667 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong trường
hợp nếu chỉ có một trong số những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc

chết cùng thời điểm với người để lại di sản hoặc một trong số các cơ quan, tổ
chức không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên quan
đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này vô hiệu và được chia thừa kế theo pháp luật.
Bốn là, những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà
không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản. Khi mở thừa kế
nếu người thừa kế theo di chúc vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005
thì không có quyền hưởng di sản. Trường hợp người được chỉ định trong di
chúc có quyền hưởng di sản nhưng từ chối nhận di sản thì di sản được chia
theo pháp luật.
Năm là, phần di sản không được định đoạt trong di chúc. Trường hợp
này xảy ra khi người để lại di sản có nhiều tài sản khác nhau nhưng lại chỉ
định đoạt trong di chúc một phần tài sản trong khối di sản này. Khi đó, phần
di sản không được thể hiện trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật.
Sáu là, phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu
lực. Theo tinh thần của khoản 4 Điều 667 BLDS năm 2005 thì trong trường
hợp di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của
các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật. Điều này có
nghĩa là di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu sẽ được chia theo pháp luật
còn các phần khác vẫn được chia theo di chúc.
Bảy là, phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc
nh
ư
ng h

không có quy

n h
ưở
ng di s


n, t

ch

i quy

n
h
ưở
ng di s

n, ch
ế
t tr
ướ
c
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di

18
chúc. Khác với các quy định về thừa kế dưới thời phong kiến, những người
thừa kế của người chết có nghĩa vụ phải nhận di sản và phải trả các khoản nợ
của người chết để lại kể cả di sản không đủ để trả nợ, pháp luật hiện hành công
nhận quyền thừa kế là một quyền năng dân sự và người thừa kế có quyền khước
từ quyền hưởng di sản của mình. Theo quy định tại Điều 642 BLDS năm 2005
thì người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Bên cạnh đó, pháp luật thừa kế cũng ghi nhận những trường hợp không được
quyền hưởng di sản tại Điều 643 BLDS năm 2005. Đó là những người vi phạm
nghiêm trọng pháp luật hoặc đạo đức xã hội. Người để lại di sản không biết
những hành vi nêu trên nên đã dành cho những người này một phần di sản

nhất định. Khi đó, phần di sản của những người thừa kế này sẽ bị coi là vô
hiệu và được chia theo pháp luật.
Tám là, phần di sản có liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di
sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế. Điều kiện để
một cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức đó
phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Điều này có nghĩa là vào thời điểm
người để lại di sản chết mà cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động thì sẽ
không được hưởng thừa kế. Đó là trường hợp pháp nhân bị giải thể hoặc phá
sản, quyền và nghĩa vụ của pháp nhân hoàn toàn chấm dứt nên pháp nhân
không còn tồn tại trên thực tế.
Việc xác định các trường hợp thừa kế theo pháp luật là vô cùng quan
trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có quyền thừa
kế theo pháp luật đồng thời tránh tình trạng để tài sản bị "đóng băng" gây lãng
phí cho gia đình và xã hội.
1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỪA
KẾ THEO PHÁP LUẬT

19
Chế định thừa kế nói chung và hình thức thừa kế theo pháp luật nói
riêng được quy định trong BLDS là sự kế thừa và phát triển các quy định
chung về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay. Ở
mỗi thời kỳ đều có những đặc thù riêng. Việc nghiên cứu, phân tích tiến trình
phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật để rút ra những
bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay.
1.2.1. Trƣớc năm 1945
Thừa kế là một chế định quan trọng trong pháp luật Việt Nam. Do đó,
ngay từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, pháp luật thời kỳ phong kiến,
thời kỳ Pháp thuộc đã có những quy định về thừa kế nói chung và thừa kế
theo pháp luật nói riêng.
 Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Luật Hồng Đức

Trong thời kỳ phong kiến, Luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều
hình luật được ban hành năm 1483 được coi là một trong những bộ luật phong
kiến tiến bộ nhất và đặc sắc nhất trong lịch sử pháp luật Việt Nam đồng thời
là bộ luật có niên đại xưa nhất còn giữ được cho tới ngày nay. Bộ luật đánh
dấu thời kỳ hoàng kim nhất, rực rỡ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam
dưới triều đại nhà Lê, đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Trong Quốc triều hình luật, vấn đề thừa kế được quy định từ Điều 374
đến Điều 400 cũng bao gồm hai hình thức là thừa kế theo chúc thư và thừa kế
theo pháp luật. Theo quy định của Luật Hồng Đức, trong trường hợp người
chết không để lại di chúc hoặc có chúc thư nhưng chúc thư vô hiệu thì di sản
được chia theo pháp luật.
Những người thừa kế theo pháp luật gồm người có quan hệ huyết
thống trực hệ với người để lại di sản. Căn cứ theo quy định tại Điều 374, 375,
376 thì di sản sẽ được chia theo nguyên tắc ưu tiên, trước hết là chia cho các
con, không phân biệt con trai, con gái (hàng 1), nếu người chết không có con

20
thì cha mẹ (hàng 2) được hưởng di sản thừa kế. Trường hợp không còn cha
mẹ, di sản được chuyển cho người thừa tự, do họ hàng quyết định.
Luật Hồng Đức ghi nhận con nuôi cũng có quyền thừa kế di sản của
cha mẹ nuôi trong trường hợp "có văn tự là con nuôi và ghi trong giấy rằng sau
sẽ chia điền sản cho, khi cha mẹ nuôi chết không có chúc thư, điền sản đem
chia cho con đẻ và con nuôi" và phần di sản được hưởng là "điền sản chia làm
ba, con đẻ được hai phần, con nuôi được một phần; nếu không có con đẻ mà
con nuôi cùng ở với cha mẹ từ thuở bé, thì được cả; thuở bé không cùng ở thì
con nuôi được hai phần, người thừa tự được một phần" [56, Điều 380].
Luật Hồng Đức quy định vợ, chồng không được thừa kế di sản của
nhau ngoại trừ một số trường hợp để đảm bảo cho cuộc sống của người vợ
góa, chồng góa, chẳng hạn như trường hợp người vợ góa, chồng góa sống độc
thân không có người nuôi dưỡng sẽ được hưởng một phần di sản của người

chồng hoặc người vợ để sống hết đời và để thờ cúng. Tuy nhiên, nếu người vợ
góa, chồng góa tái giá thì phải trả lại phần di sản được hưởng cho họ hàng của
người chết.
Theo Điều 388 Luật Hồng Đức "cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa
kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số
ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho con trai trưởng giữ…" [56]. Ở thời kỳ
này do kinh tế chưa phát triển nên tài sản chủ yếu và có giá trị nhất là ruộng
đất. Di sản của người để lại thừa kế gồm ba nguồn chính: phu điền sản (tài sản
của chồng được hưởng từ tài sản của gia đình), thê điền sản (tài sản của vợ
được hưởng từ gia đình vợ) và tần tảo điền sản (tài sản do vợ chồng làm ra).
Quy định về thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo pháp luật trong Luật
Hồng Đức là cơ sở để bảo vệ quan hệ trên dưới, tôn ti, trật tự của gia đình
truyền thống đồng thời bảo vệ được quyền thừa kế của những người thừa kế.
 Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Luật Gia Long

21
Hoàng Việt luật lệ hay còn được biết đến với tên gọi Quốc triều điều
luật, Hoàng triều luật lệ, Luật Gia Long, là bộ luật chính thống của triều
Nguyễn ở Việt Nam do vua Gia Long ban hành năm 1815. Tại Quyển 6 của
Bộ luật có quy định về thừa kế. Theo đó, thừa kế theo pháp luật được áp dụng
khi không có chúc thư của người chết. Nếu cha mẹ không có chúc thư thì ông
bà sẽ quản lý toàn bộ tài sản của các cháu, kể cả di sản thừa kế. Các cháu chỉ
được nhận tài sản của mình khi ông bà chết. Với tư tưởng "trọng nam, khinh
nữ" đặc trưng của xã hội phong kiến, Luật Gia Long quy định di sản chia theo
pháp luật sẽ được chia đều cho các con trai không phân biệt con trai do thê
thiếp sinh ra. Nếu người con chết thì con của người con sẽ thay thế vị trí của
cha mẹ mình để nhận di sản của ông bà. Vì con gái không được quyền thừa kế
nên trong trường hợp người để lại di sản không có con trai thì các cháu trai
thúc bá sẽ được hưởng di sản.
Luật Gia Long cũng quy định vợ góa, chồng góa không được thừa kế

di sản của người chồng hoặc người vợ đã chết trừ trường hợp ngoại lệ tương
tự như quy định trong Luật Hồng Đức.
Đối với di sản dùng làm hương hỏa, khác với Luật Hồng Đức, theo
quy định của Luật Gia Long thì không bắt buộc phải dành một phần di sản
làm hương hỏa.
 Quy định về thừa kế theo pháp luật dưới thời Pháp thuộc
Chế định thừa kế trong Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Dân luật Trung
Kỳ năm 1936 được quy định tương đối giống nhau, được xây dựng dựa trên
BLDS Pháp 1804. Theo đó, thừa kế cũng được chia thành hai hình thức là
thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Di sản được chia theo pháp luật
khi không có chúc thư hoặc chúc thư vô hiệu và được chia theo thứ tự ưu tiên.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang nhau. Những
người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không có ai ở hàng thừa
kế trước. Người thừa kế hàng thứ nhất là các con. Con trai, con gái được chia

22
di sản bằng nhau. Nếu cha hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng ông bà nội hoặc
ông bà ngoại, thì các cháu thay thế cha hoặc mẹ nhận di sản của ông hoặc bà
(thừa kế thế vị). Trong trường hợp người chết không có con thì di sản chia
cho cha, mẹ (hàng thừa kế thứ hai). Nếu không còn cha, mẹ thì di sản chia
cho cháu ruột bên nội. Nếu không có cháu ruột thì chia cho anh, chị em ruột.
Như vậy, trước năm 1945, dưới chế độ thực dân - phong kiến, quy
định về thừa kế theo pháp luật đã được ghi nhận trong các bộ luật. Tuy nhiên,
do bản chất của giai cấp thống trị, những quy phạm này chủ yếu để bảo vệ tôn
ti trật tự của chế độ phong kiến, dẫn tới sự bất bình đẳng trong quan hệ thừa
kế, đặc biệt là giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ.
1.2.2. Từ năm 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho nền độc lập, tự do của dân
tộc. Những ngày đầu mới ra đời, Nhà nước ta đã phải đối mặt với muôn vàn

khó khăn, thử thách, phải chống lại cả "thù trong" và "giặc ngoài", cả "nội
xâm" và "ngoại xâm", cho nên những năm 1945 đến 1959, hệ thống pháp luật
của Nhà nước phong kiến Việt Nam được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ
xã hội mới. Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh cho phép áp dụng luật lệ của
chế độ cũ, trong đó có những quy định về chế định thừa kế, với điều kiện
"Những điều khoản trong các luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này, chỉ
thi hành khi nào không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể
dân chủ cộng hòa " [9, Điều thứ 12]. Với sự biến đổi nhanh chóng, sâu sắc
của xã hội Việt Nam, những quy định trong các Bộ luật dưới chế độ cũ đã bộc
lộ nhiều điểm bất cập, không phù hợp. Trước tình hình đó, ngày 22 tháng 5
năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 97/SL sửa đổi một số quy lệ
và chế định trong dân luật. Ngay tại Điều 1 của Sắc lệnh đã ghi nhận nguyên
tắc bảo vệ quyền lợi cho nhân dân lao động "Những quyền dân sự đều được

23
luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân" [10].
Về vấn đề thừa kế, Sắc lệnh quy định vợ, chồng có quyền bình đẳng trong gia
đình, có quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền hưởng
di sản thừa kế của bố, mẹ; người chồng góa hay người vợ góa, các con đã
thành niên có quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau
khi đã thanh toán tài sản chung. Những người thừa kế cũng có quyền từ chối
nhận di sản: "Con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không bắt buộc
phải nhận thừa kế người ấy. Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của người chết
cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại" [10, Điều 10]. Những quy
định này đã xóa bỏ tình trạng trọng nam, khinh nữ dưới chế độ phong kiến
thuộc địa, đảm bảo quyền bình đẳng về thừa kế của công dân. Cho đến ngày
nay, tư tưởng tiến bộ đó vẫn được kế thừa và áp dụng trong pháp luật về thừa
kế nói riêng và pháp luật dân sự nói chung.
Để hướng dẫn Tòa án các cấp thống nhất trong việc giải quyết những

tranh chấp về thừa kế trong giai đoạn này, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư
số 1742-BNC ngày 18/9/1956 quy định rõ:
Vợ hoặc chồng của người chết có quyền thừa kế ngang với
các con; vợ lẽ và con nuôi chính thức của người để lại di sản có
quyền thừa kế như vợ cả và con đẻ của người đó. Vợ góa của người
để lại di sản (kể cả vợ cả và vợ lẽ) đều có quyền thừa kế di sản
của chồng và hưởng phần di sản ngang với các thừa kế cùng hàng
khác [6].
Hiến pháp năm 1959 ra đời tiếp tục ghi nhận: "Nhà nước chiếu theo
pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân" [27, Điều 19].
Trên tinh thần của Hiến pháp, Luật HN&GĐ năm 1959 đã cụ thể hóa tại
Điều 16: "Vợ và chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau" [28] và Điều 19
"Con trai và con gái có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình" [28].

24
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển
sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất. Cùng với sự
thống nhất về chính trị, kinh tế, đòi hỏi tất yếu phải có sự thống nhất về việc
áp dụng pháp luật. Hiến pháp năm 1980 được ban hành là cơ sở, nền tảng cho
bước phát triển mới của pháp luật về thừa kế. Để có đường lối thống nhất cho
Tòa án các cấp trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế, ngày 24/7/1981,
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành Thông tư số 81/TANDTC
(sau đây gọi tắt là Thông tư số 81). Nội dung của Thông tư số 81 đã bao quát
khá toàn diện các vấn đề về thừa kế so với các văn bản trước đó. Về thừa kế
theo pháp luật, Thông tư số 81 quy định có hai hàng thừa kế. Hàng thừa kế thứ
nhất gồm vợ góa hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi, bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố
nuôi, mẹ nuôi. Hàng thừa kế thứ hai gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị
em nuôi. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất được ưu tiên và thừa kế toàn
bộ di sản. Trong trường hợp không có người thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc có

nhưng họ đều không nhận, thì mới đến những người thừa kế ở hàng thứ hai.
Những người thừa kế trong cùng một hàng, được hưởng một suất ngang nhau.
Bên cạnh đó, lần đầu tiên trong Thông tư số 81 đã quy định các trường
hợp không được hưởng thừa kế:
Người đã giết người để thừa kế hoặc đã đối xử quá tàn tệ
với người đó thì không được thừa kế di sản của người đó.
Người đã giết người thừa kế cùng hàng với mình để chiếm
đoạt toàn bộ di sản hoặc nhằm làm tăng kỷ phần cho bản thân thì
không được thừa kế di sản của cả hai người ấy (người để thừa kế và
người bị giết) [42, Mục III.A.4].
Mặc dù là văn bản pháp lý đầu tiên quy định khá chi tiết về thừa kế kể
từ sau Cách mạng Tháng Tám nhưng Thông tư số 81 vẫn còn có những hạn
chế nhất định, chẳng hạn như việc chỉ quy định hai hàng thừa kế đã thu hẹp

25
diện thừa kế, chưa thật sự đảm bảo được quyền hưởng di sản của những người
thân của người để lại di sản. Quy định các trường hợp không được hưởng
thừa kế theo pháp luật cũng chưa đầy đủ… Trước tình hình đó, đòi hỏi phải
có một văn bản vừa có nội dung toàn diện, vừa có tính pháp lý, thực thi cao.
Để phù hợp với sự biến đổi, phát triển của kinh tế - xã hội ở nước ta
cũng như nhằm khắc phục những nội dung còn thiếu, còn vướng mắc, ngày
30/08/1990, Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành Pháp lệnh Thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10/09/1990.
Nội dung của Pháp lệnh Thừa kế đã mở rộng phạm vi những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Pháp
lệnh Thừa kế thì những người thừa kế theo pháp luật được chia làm ba hàng:
Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết.
Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết.

Hàng thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người
chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột [16].
Quy định trên đã bảo vệ được tối đa quyền của người để lại di sản
cũng như quyền của những người thừa kế. So với Thông tư số 81, ngoài quy
định mở rộng về diện những người được thừa kế, Pháp lệnh Thừa kế còn quy
định quyền thừa kế của một người đang là con nuôi của người khác được thừa
kế theo pháp luật của bố, mẹ nuôi và được thừa kế theo pháp luật của bố mẹ
đẻ trong khi đó theo Thông tư số 81 thì con nuôi không được thừa kế theo
pháp luật đối với di sản của bố, mẹ đẻ.
Tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng có thể khẳng định rằng,
Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao đầu tiên quy
định tương đối đầy đủ về thừa kế ở nước ta kể từ Cách mạng Tháng Tám năm

×