Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 90 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ TỐ NGA




CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ÁP DỤNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2011
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2011.



Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học
Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa



Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN
PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI
8
1.1.
Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội và
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
8
1.2.
Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tư pháp đối với
người chưa thành niên phạm tội
14
1.2.1.
Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên
phạm tội
14
1.2.2.
Các đặc điểm của biện pháp tư pháp

18
1.3.
Chuẩn mực quốc tế về tư pháp người chưa thành niên và quy
định của một số nước về biện pháp không tước tự do đối với
người chưa thành niên phạm tội; bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam
23

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
35
2.1.
Sơ lược lịch sử pháp luật của Việt Nam về áp dụng biện pháp
tư pháp từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật Hình sự 1999
35
2.1.1.
Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật Hình sự 1985
35
2.1.2.
Các biện pháp tư pháp theo Bộ luật Hình sự năm 1985
37
2.2.
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
39
2.3.
Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
47
2.3.
Một số biện pháp tư pháp khác có thể được áp dụng với
người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Bộ luật

Hình sự
54
2.3.1.
Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
54
2.3.2.
Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại,
buộc công khai xin lỗi
56
2.3.3.
Biện pháp bắt buộc chữa bệnh
58

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ
61
3.1.
Tình hình và nguyên nhân người chưa thành niên phạm tội
61
3.1.1.
Tình hình người chưa thành niên phạm tội
61
3.1.2.
Nguyên nhân phạm tội của người chưa thành niên
64
3.2.
Thực tiễn áp dụng và một số hạn chế của biện pháp tư pháp
đối với người chưa thành niên phạm tội
66

3.3.
Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
72

KẾT LUẬN
80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
82



Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
3.1
Số người chưa thành niên phạm tội bị đưa ra xét xử trong
cả nước từ năm 2005 đến tháng 7 năm 2009
61
3.2
Cơ cấu tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên
địa bàn Hà Nội từ 2006 - 2008
63
3.3
Cơ cấu độ tuổi người chưa thành niên phạm tội trong toàn
quốc từ 2005 đến tháng 7/2009

63
3.4
Số liệu áp dụng biện pháp tư pháp và các hình phạt
67
3.5
Số người chưa thành niên chấp hành biện pháp tư pháp
theo Điều 70 Bộ luật Hình sự từ 2007 - tháng 7/2009
68


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em là nhiệm vụ chung của toàn nhân loại,
không có sự phân biệt giữa các quốc gia có chế độ xã hội và bản sắc dân tộc
khác nhau. Với người Việt Nam, việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em không chỉ là
nhiệm vụ mà còn là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời của dân tộc. Quyền và
lợi ích trẻ em không chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trong nước
như Hiến pháp, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (năm 2004)… mà
còn thể hiện ở những cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công ước về
quyền trẻ em của Liên hợp quốc.
Và với quan điểm bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách toàn diện, từ việc
dành cho các em những điều kiện tốt nhất về giáo dục, kinh tế, xã hội, y tế…
để các em phát triển toàn diện đến việc áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp
khi các em vi phạm pháp luật để tạo điều kiện cho các em nhận thức đúng đắn
hơn đối với hành vi của mình, pháp luật Việt Nam đã có những quy định
tương đối toàn diện đối với quyền và nghĩa vụ của các em. Các quy định của
Bộ luật Hình sự cũng không nằm ngoài mục đích trên. Người chưa thành niên

tham gia các quan hệ được luật hình sự bảo vệ với hai tư cách: một là chủ thể
của tội phạm, hai là đối tượng tác động của tội phạm. Trong luận văn này chỉ
nghiên cứu người chưa thành niên với tư cách là chủ thể tội phạm.
Người chưa thành niên là những người còn non nớt về thể chất và trí
tuệ, nên việc nghiên cứu chính sách pháp luật áp dụng khi họ có hành vi vi
phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hình sự nói riêng là một việc
làm cần thiết. Những kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở quan trọng của việc
hoàn thiện pháp luật, từ đó đưa ra những quy định phù hợp nhất đối với người

2
chưa thành niên vì chính những quy định của pháp luật sẽ có ảnh hưởng quan
trọng tới sự phát triển toàn diện, ổn định của người chưa thành niên, chủ nhân
tương lai của đất nước.
Bên cạnh đó, với đặc điểm non nớt của người chưa thành niên nên đòi
hỏi hệ thống tư pháp áp dụng với người chưa thành niên phải đảm bảo những
yêu cầu khắt khe trong khi áp dụng như vấn đề quy định của pháp luật phải
phù hợp với hoàn cảnh của người phạm tội, đặc điểm tâm lý của người phạm
tội cũng như tính chất của tội phạm, trong đó đặc biệt chú trọng đến hạnh
phúc của người chưa thành niên. Đây là những yêu cầu tối thiểu của tư pháp
người chưa thành niên thể hiện trong các văn kiện quốc tế về tư pháp người
chưa thành niên và quy định của Bộ luật Hình sự nước Việt Nam. Điều 69 Bộ
luật Hình sự quy định nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm
tội đã thể hiện rõ mục đích của việc xử lý đối với người chưa thành niên,
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành công dân có ích cho xã hội. Nguyên tắc này đã thể hiện tính nhân đạo
của pháp luật nước ta.
Xuất phát những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đó, các quy định áp
dụng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ
luật Hình sự nước ta đều nhằm mục đích giáo dục, uốn nắn, răn đe những
hành vi lệch lạc, làm cho họ thấy được sai phạm của mình và tự giác sửa chữa

với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội. Thể hiện điều này, về
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội sẽ ưu tiên áp dụng các quy
định riêng quy định tại Chương X - Những quy định đối với người chưa thành
niên, đồng thời có thể áp dụng những quy định khác trong phần chung của Bộ
luật nếu không trái với những quy định của chương này. Điều này có nghĩa là,
trong trường hợp nếu thấy không cần thiết phải áp hình phạt đối với người
chưa thành niên, Tòa án ưu tiên áp dụng một trong các biện pháp tư pháp quy
định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự 1999.

3
1. Đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án có thể
quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo
dục phòng ngừa sau đây:
a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
b) Đưa vào trường giáo dưỡng [28].
Biện pháp tư pháp mang ý nghĩa lớn trong việc xử lý hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội, thể hiện tính giáo dục cao, đồng thời thể hiện
được đường lối xử lý mang tính nhân đạo, có sự cân nhắc tới đặc điểm tâm lý
của người phạm tội. Việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành
niên sẽ không để lại án tích đối với họ. Ngoài ra, các biện pháp tư pháp quy
định tại các Điều 41, 42, 43 Bộ luật Hình sự 1999 cũng có thể được áp dụng.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật, biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội còn tồn tại một số điểm hạn chế
như hiệu quả áp dụng của biện pháp không cao, người bị áp dụng lẫn gia đình,
cộng đồng nơi người đó sinh sống thường có tâm lý được "tha bổng", cơ chế
phân công, theo dõi không chặt chẽ, việc tái hòa nhập của người chưa thành
niên bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là khó khăn, phạm vi áp
dụng còn hạn chế, biện pháp lựa chọn còn ít…, chưa tương thích với các
chuẩn mực quốc tế. Xuất phát từ những điểm hạn chế trên cho thấy cần phải
nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp đang được quy định trong Bộ

luật Hình sự. Đồng thời, cần nghiên cứu bổ sung thêm một số biện pháp tư
pháp để tăng thêm sự lựa chọn nhằm có những biện pháp áp dụng hiệu quả
nhất đối với người chưa thành niên phạm tội.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Bộ luật
Hình sự về biện pháp tư pháp là một việc làm quan trọng và mang tính cấp
thiết, đây cũng chính là lý do tôi lựa chọn đề tài "Các biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật
hình sự" làm luận văn tốt nghiệp cao học.

4
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, tư pháp người chưa thành niên luôn được
quan tâm. Việc nghiên cứu thường tập trung vào các vấn đề sau:
- Tình hình người chưa thành niên phạm tội;
- Nghiên cứu vai trò của gia đình, nhà trường, các đoàn thể tham gia
vào việc giáo dục người chưa thành niên phạm tội;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự đối với hình phạt,
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên;
- Nghiên cứu việc thi hành các chế tài đối với người chưa thành niên
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Tiêu biểu là các công trình liên quan trực tiếp đến các biện pháp tư
pháp đối với người chưa thành niên như sau:
+ Các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và vấn đề
hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp
đó, của TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học, số 5/2000;
+ Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt, của Hồ Sĩ
Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2004;
+ Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt không tước tự
do và các biện pháp tư pháp, của TS. Trần Quang Tiệp, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 2/2004.

Ngoài ra còn một số công trình khác như:
+ Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại
Việt Nam, Thông tin khoa học chuyên đề, Viện Khoa học pháp lý, năm 2000;
+ Đề tài nghiên cứu cấp trường Đại học quốc gia Hà Nội: Những vẫn
đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội, của Đỗ Thị Phượng, Bùi Đức Lợi, Hà Nội, năm 2005;

5
+ Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, những
khía cạnh tội phạm học, của TSKH. PGS Lê Cảm - ThS. Đỗ Thị Phượng, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 22/2004;
+ Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội, của Trịnh Đình Thể, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006.
Tuy nhiên, các nghiên cứu do phạm vi và mục đích của mình nên
không đi sâu về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên,
thường là các bài viết nghiên cứu trên các tạp chí. Biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên thường chỉ là một phần trong toàn bộ nghiên
cứu về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên hoặc các chế tài áp dụng
đối với người chưa thành niên. Chính vì vậy, các nghiên cứu về biện pháp tư
pháp áp dụng đối với người chưa thành niên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
các điều kiện áp dụng mà chưa có sự so sánh với các chế tài khác, tìm hiểu về
sự thay đổi trong quy định của pháp luật liên quan đến biện pháp tư pháp.
Đây chính là những vấn đề nghiên cứu còn bỏ ngỏ mà luận văn này
mong muốn góp phần giải quyết.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên
cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như những
nội dung cơ bản của hệ thống biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở đánh giá thực tiễn

áp dụng các biện pháp này để kiến nghị việc hoàn thiện các quy định về biện
pháp tư pháp trong luật hình sự nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về lý luận để làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ bản của
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, mối quan

6
hệ giữa biện pháp tư pháp với các chế tài hình sự khác, phân tích các nguyên
tắc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó có sự phân tích, đối chiếu với một
số biện pháp không tước tự do đối với người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật quốc tế
- Đánh giá việc áp dụng các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với
người chưa thành niên trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phân tích những
điểm hạn chế của từng biện pháp tư pháp.
- Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác giả đưa ra đề
xuất việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm đạt được mục đích của việc xử
lý tội phạm.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn của biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên theo luật hình sự Việt Nam
dưới góc độ luật hình sự.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn sử dụng các phương pháp luận chung và phương pháp

nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ về mặt khoa học của từng vấn đề tương ứng.
Đó là phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử và các
phương pháp: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp logic…

7
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học về mặt lý luận và thực
tiễn của biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Luận văn phân tích một cách cụ thể và toàn diện các quy định của
pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội. Phân tích, đánh giá chi tiết từng điều kiện, đặc điểm của từng biện
pháp, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế. Nghiên cứu,
đưa ra các giải pháp kiến nghị việc hoàn thiện các quy định đối với việc xử lý
người chưa thành niên phạm tội bằng biện pháp tư pháp, từ đó, tăng cường
hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm
ở lứa tuổi vị thành niên nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối
với người chưa thành niên phạm tội.
Chương 2: Các quy định pháp luật về biện pháp tư pháp đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa
thành niên phạm tội và một số kiến nghị.



8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Người chưa thành niên là những người còn non nớt về thể chất và tinh
thần, trong khi đây là thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước nên họ cần được
quan tâm đặc biệt. Trong lứa tuổi của mình, việc phạm sai lầm của người
chưa thành niên là hoàn toàn dễ hiểu và có thể coi đây là một phần của quá
trình phát triển của người chưa thành niên, do đó, việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm ở người chưa thành niên cũng cần căn cứ trên cơ sở đặc điểm
tâm lý của người chưa thành niên. Vì vậy, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã dành
hẳn một chương riêng quy định trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội (Chương X), trong đó quy định nguyên tắc xử lý đối với người
chưa thành niên, các biện pháp tư pháp và hình phạt áp dụng với người chưa
thành niên phạm tội. Tuy nhiên, những biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70
chỉ là những biện pháp ưu tiên áp dụng. Ngoài ra, việc xử lý người chưa thành
niên còn có thể tuân theo các quy định chung về biện pháp tư pháp được quy
định trong Bộ luật Hình sự.
Để tìm hiểu được các quy định này của pháp luật, trước tiên cần có sự
thống nhất về khái niệm người chưa thành niên phạm tội cũng như các đặc
điểm chung nhất về tâm lý của người chưa thành niên nói chung và người
chưa thành niên phạm tội nói riêng.
1.1. Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội và
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Ở mỗi quốc gia khác nhau, độ tuổi để xác định người chưa thành niên
lại khác nhau. Tại Việt Nam, từ những năm 1950 đã quy định người chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi. Trong luật hình sự, thì người chưa thành

9
niên phạm tội được hiểu là: "Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ

14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự
hạn chế bởi các đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm" [6].
Cùng với độ tuổi trên, thì người chưa thành niên có những đặc điểm
tâm lý riêng, chính những đặc điểm tâm lý này đã cũng là một trong những
nguyên nhân ảnh hưởng tới quá trình phạm tội của các em. Đặc điểm tâm lý
của người chưa thành niên thể hiện ở những điểm chính như sau:
Về trạng thái xúc cảm, người chưa thành niên đang trong quá trình
phát triển cả về sinh lý lẫn tâm lý, ý thức. Quá trình này diễn ra đã dẫn đến
tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của người chưa thành niên.
Trong giai đoạn này, người chưa thành niên có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt,
nhức đầu, sức làm việc suy giảm, dễ bị kích động, dễ nổi nóng… Đồng thời,
cùng với sự thay đổi của tuyến nội tiết nên dẫn đến sự mất cân bằng trong
hoạt động của hệ thần kinh trung ương, dễ đưa họ tới những cơn xúc động
mạnh, những phản ứng nóng nảy vô cớ. Do đó, nhiều trường hợp các em đã
không làm chủ được bản thân, không kiềm chế được xúc động mạnh, dễ bị lôi
kéo, kích động, dễ nổi nóng, gây gổ, đó cũng là nguyên nhân dẫn tới việc các
em có những hành vi lệch chuẩn. Sự tồn tại của hành vi lệch chuẩn cũng
chính là một trong những tồn tại tất yếu của các em trong quá trình hoàn thiện
nhân cách và nhận thức. Vì vậy, trong chính sách xử lý hình sự đối với các
em cần quan tâm tới đặc điểm này.
Về nhu cầu độc lập, với những phát triển mạnh mẽ về thể chất và sự
hoàn thiện cơ bản của các chức năng sinh lý khiến cho người chưa thành niên
có ấn tượng rằng mình đã trưởng thành. Do đó, đặc điểm tâm lý nổi bật của
giai đoạn này là sự biểu hiện nhu cầu độc lập. Người chưa thành niên có
mong muốn tự khẳng định mình, tự hành động, đưa ra quyết định. Đây là sự
phát triển tất yếu và rất cần thiết của các em ở lứa tuổi chưa thành niên. Các

10
em có tâm lý khẳng định mình, tự hành động sẽ giúp các em sớm trưởng

thành và có tính độc lập trong tương lại. Tuy nhiên, nhu cầu độc lập cũng có
mặt tiêu cực của nó. Đó là việc các em biểu hiện ra ngoài dưới dạng các hành
vi ngang bướng, dễ tự ái, hành động bột phát, mang tính phiêu lưu, mạo hiểm,
côn đồ.
Về nhận thức pháp luật, giai đoạn này, người chưa thành niên có sự
phát triển về nhận thức còn hạn chế, trong đó có nhận thức về pháp luật.
Người chưa thành niên chưa có kinh nghiệm sống cũng như ý thức pháp luật.
Việc các em không có ý thức pháp luật đúng đắn thì xu hướng dẫn tới các
hành vi lệch chuẩn của các em rất lớn.
Về nhu cầu khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của người
chưa thành niên phạm tội. Các em muốn khám phá thế giới tự nhiên, khám
phá cuộc sống xã hội xung quanh mình. Tuy nhiên, cùng với việc học hỏi,
khám phá những kiến thức, kinh nghiệm sống thì trong điều kiện hiện nay,
khi phương tiện thông tin đại chúng đang phát triển mạnh mẽ thì các em cũng
dễ tiếp xúc các thói quen xấu, các văn hóa phẩm, các trò chơi thiếu lành
mạnh. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội
của các em.
Xuất phát từ những đặc điểm tâm lý trên nên việc xử lý người chưa
thành niên phạm tội phải tuân theo những quy định riêng với nguyên tắc riêng.
Các nguyên tắc này chính là cơ sở cho việc áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự liên quan đến người chưa thành niên phạm tội nói chung và
việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
nói riêng.
Nguyên tắc xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên
là tổng hợp các quy phạm của pháp luật hình sự thực định thể hiện
tính nhân đạo của chính sách hình sự của Nhà nước để giải quyết

11
vấn đề trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội
theo hướng giảm nhẹ hơn so với mức độ trách nhiệm hình sự của

người chưa thành niên [6].
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội được tuân theo các nguyên
tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ
yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Đây là nguyên tắc bao trùm, mang tính chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Mục đích của việc xử lý là
giúp cho họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có
ích cho xã hội. Đây cũng là quan điểm xử lý chung của Đảng và Nhà nước ta
đối với mọi chủ thể tội phạm, tuy nhiên, đối với người chưa thành niên phạm
tội thì quan điểm này càng được nhấn mạnh vì những đặc điểm đã phân tích ở
trên của người chưa thành niên. Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các cán bộ khi
tham gia vào quá trình xử lý người chưa thành niên phạm tội cũng phải đứng
trên quan điểm vì lợi ích tốt nhất đối với người chưa thành niên, vì sự phát
triển lành mạnh của các em. Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với các quy
định của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về tư
pháp người chưa thành niên.
Nguyên tắc thứ hai, người chưa thành niên có thể được miễn trách
nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng,
gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan,
tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Nguyên tắc này cũng thể hiện quan điểm nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta. Với người chưa thành niên do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và
tinh thần nên ngoài những điều kiện chung để có thể xem xét, miễn trách

12
nhiệm hình sự, trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng
nhưng gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (tức là có hai tình tiết
giảm nhẹ trở lên) và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo

dục thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Quy định này đã mở rộng điều
kiện để người phạm tội có cơ hội sửa chữa những lỗi lầm của mình ngay
trong cộng đồng mà không cần cách ly họ. Điều này có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc giáo dục người chưa thành niên phạm tội. Đồng thời, việc
quy định nguyên tắc cũng xuất phát từ chính lợi ích tốt nhất của người chưa
thành niên. Nguyên tắc này được áp dụng trong thực tiễn sẽ hạn chế việc cách
ly người chưa thành niên khỏi cộng đồng, gia đình. Điều này sẽ mang lại tính
phục hồi cao, giúp người chưa thành phạm tội tránh được những mặc cảm tâm
lý, có cơ hội sửa chữa trong chính cộng đồng và sớm hòa nhập xã hội.
Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa
thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong
trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào
những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Việc xử lý người chưa thành niên xuất phát từ tinh thần lấy giáo dục,
phòng ngừa là chính nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình
phạt đối với người chưa thành niên chỉ thực hiện trong trường hợp thật cần
thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, căn cứ mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân của người chưa thành niên
(người chưa thành niên có nhân thân tốt hay đã từng có tiền án, tiền sự) và
yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm (việc xử lý người chưa thành niên có ý
nghĩa như thế nào trong việc phòng ngừa chung, trong việc ngăn ngừa người
chưa thành niên tiếp tục việc phạm tội). Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người chưa thành niên phạm tội dựa trên những yếu tố này có một ý nghĩa
quan trọng, giúp cho việc xử lý tội phạm được đúng đắn và đảm bảo mục đích
phòng ngừa, giáo dục của việc áp dụng các chế tài hình sự. Đồng thời cũng

13
thể hiện tinh thần của pháp luật quốc tế trong việc hạn chế áp dụng hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội.
Nguyên tắc thứ tư, ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng thay thế cho hình phạt trong
trường hợp không cần thiết
Nguyên tắc này giữ vị trí chủ đạo trong việc lựa chọn biện pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, hình phạt phải được coi là biện
pháp cần thiết cuối cùng trong việc lựa chọn chế tài xử lý. Hay nói một cách
khác, nếu phải đưa ra xét xử thì Tòa án cần cân nhắc khả năng áp dụng các
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng
trước khi quyết định áp dụng hình phạt đối với họ. Nguyên tắc này chính là sự
cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên và
bổ sung, hoàn thiện cho nguyên tắc trước, đó là ưu tiên áp dụng biện pháp tư
pháp thay thế cho hình phạt trong trường hợp không cần thiết và trường hợp
cuối cùng mới áp dụng hình phạt.
Nguyên tắc thứ năm là không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối
với người chưa thành niên, hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có
thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ
hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Không
áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Nguyên tắc này thống nhất với các nguyên tắc trên, hình phạt tù chung
thân, tử hình là những hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt
của luật hình sự, do đó không thể áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội, họ là những người còn non nớt và hạn chế về thể chất và nhận thức.
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chỉ nhằm mục đích giáo dục và cải
tạo họ. Đồng thời, quy định không áp dụng hình phạt tiền đối với độ tuổi từ

14
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là phù hợp vì độ tuổi này chưa tham gia các quan
hệ lao động, các em không có thu nhập hoặc tài sản riêng.
Nguyên tắc cuối cùng, án đã tuyên đối với người chưa thành niên khi
chưa đủ 16 tuổi, thì không để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

Quy định này có ý nghĩa trong việc tạo cơ hội để người chưa thành
niên phạm tội có điều kiện phấn đấu, sửa chữa sai lầm của họ. Việc không ghi
nhận án tích đối với hành vi phạm tội trước 16 tuổi của người chưa thành niên
không tạo ra tâm lý nặng nề, mặc cảm về tội lỗi, tạo điều kiện để người chưa
thành niên phấn đấu, tu dưỡng, trở thành công dân có ích cho xã hội.
1.2. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tư pháp đối với
người chưa thành niên phạm tội
1.2.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên
phạm tội
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý xâm phạm tới các quan hệ xã hội do luật hình sự bảo vệ. Do vậy,
chủ thể thực hiện tội phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do
hành vi phạm tội của mình gây ra, đó chính là việc phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Hay nói một cách đơn giản là người
phạm tội sẽ phải chịu án phạt, điều này có nghĩa là người phạm tội sẽ phải
chịu một trong các hình phạt hoặc biện pháp tư pháp theo quy định của luật
hình sự, nếu hành vi của họ đã cấu thành tội phạm.
Hình phạt được coi là chế tài nghiêm khắc nhất của nhà nước dành
cho người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người
phạm tội. Hình phạt được Nhà nước sử dụng như là một công cụ hữu hiệu
trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm để bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
của xã hội và các lợi ích hợp pháp của công dân. Nhưng với quan điểm của

15
Nhà nước ta trong việc xử lý tội phạm không chỉ nhằm mục đích trừng trị mà
còn giáo dục người phạm tội nhận thức được sai lầm của bản thân, trở thành
người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đồng thời, xuất phát từ
chính sách nhân đạo trong pháp luật của nước ta nói chung, pháp luật hình sự

nói riêng, xuất phát từ tình hình, hoàn cảnh phạm tội, tính chất của tội phạm
nên bên cạnh hệ thống hình phạt, còn có các biện pháp tư pháp được quy định
trong Bộ luật Hình sự.
Các biện pháp tư pháp được quy định thành một chương riêng trong
Bộ luật Hình sự với các biện pháp: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến
tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; Buộc công khai
xin lỗi và Bắt buộc chữa bệnh. Ngoài ra, có một điều quy định hai biện pháp
tư pháp áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Việc nghiên cứu các biện pháp tư pháp có một vai trò quan trọng
trong khoa học pháp lý, đặc biệt việc nghiên cứu biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên có một ý nghĩa quan trọng góp phần hoàn thiện
hệ thống tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một khái niệm chính thức nào định nghĩa
về biện pháp tư pháp nhưng các nhà luật học đều thống nhất rằng biện pháp tư
pháp thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước và mang tính hỗ trợ cho hình
phạt khi được áp dụng để tăng cường hiệu quả xử lý tội phạm, mang lại an
toàn, trật tự và công bằng cho xã hội. Đồng thời, trong một số trường hợp thì
việc áp dụng biện pháp tư pháp lại có ý nghĩa thay thế hình phạt.
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội, biện pháp tư pháp được hiểu là "các biện pháp hình sự được Bộ luật
Hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt" [42].

16
Với cách hiểu này, biện pháp tư pháp chỉ có một dấu hiệu để phân biệt
với hình phạt, thể hiện ở mối liên hệ của nó với hình phạt, nó có thể thay thế
hình phạt hoặc áp dụng cùng với hình phạt mang tính hỗ trợ. Tuy nhiên, cách
hiểu này chưa rõ ràng và chưa thể hiện được vị trí, tính chất của biện pháp tư
pháp trong hệ thống các chế tài của pháp luật hình sự.
Ngoài ra, còn một khái niệm khoa học khác về biện pháp tư pháp

trong khoa học luật hình sự. Theo tác giả khái niệm này tương đối hoàn chỉnh,
thể hiện được tính chất, vị trí, vai trò của biện pháp tư pháp trong hệ thống
chế tài hình sự.
Theo TSKH. GS Lê Cảm, biện pháp tư pháp được hiểu đầy đủ hơn, đó là:
Biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc
hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp
hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương
ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự
do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt [5].
Như vậy, qua khái niệm trên có thể hiểu một cách tương đối cụ thể về
biện pháp tư pháp với những dấu hiệu sau:
1. Trước hết, biện pháp tư pháp là biện pháp thể hiện trách nhiệm hình
sự của một cá nhân khi người đó có hành vi phạm tội.
2. Biện pháp tư pháp là một chế tài ít nghiêm khắc hơn so với hình
phạt, do pháp luật hình sự quy định; là kết quả của sự phân hóa trách nhiệm
hình sự nhìn từ góc độ hình phạt. Dấu hiệu này thể hiện vị trí pháp lý và khả
năng áp dụng của biện pháp tư pháp.
Biện pháp tư pháp là chế tài của pháp luật hình sự do vậy nó phải
được quy định trong Bộ luật Hình sự (cụ thể đã được quy định tại các điều 41,
42, 43 và Điều 70 của Bộ luật Hình sự). Đồng thời, việc áp dụng biện pháp tư
pháp trên thực tế chính là kết quả của quá trình cân nhắc, xem xét mức độ

17
nguy hiểm của hành vi cũng như các dấu hiệu khác như nhân thân của người
phạm tội để quyết định xem áp dụng hình phạt hay biện pháp tư pháp.
3. Biện pháp tư pháp có thể được áp dụng trong những giai đoạn tố
tụng hình sự khác nhau. Khác với hình phạt chỉ được áp dụng thông qua bản
án của Tòa án, biện pháp tư pháp có thể được áp dụng ở những giai đoạn tố
tụng khác.
4. Biện pháp tư pháp là biện pháp mang tính thay thế hoặc hỗ trợ cho

hình phạt.
Khái niệm khoa học này có một ý nghĩa quan trọng, là cơ sở lý luận
của việc nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp tư pháp nói chung và biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Từ khái niệm khoa học trên về biện pháp tư pháp, ta có thể hiểu một
cách đơn giản biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội như
sau: Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là
biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội, ít nghiêm khắc hơn hình phạt, được cơ quan tư pháp
hình sự có thẩm quyền áp dụng nhằm hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt.
Như vậy, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên có
những đặc trưng riêng.
Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
được quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự:
1. Đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án có thể
quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo
dục, phòng ngừa sau đây:
a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
b) Đưa vào trường giáo dưỡng.

18
2. Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp
hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp
luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị
trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm.
3. Tòa án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên

phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội,
do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người
đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
4. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
người được đưa vào trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai
thời hạn do Tòa án quyết định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị
của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách nhiệm giám sát,
giáo dục, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại
xã, phường, thị trấn hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng [28].
Bên cạnh đó, người chưa thành niên phạm tội còn có thể bị áp dụng các
biện pháp khác như: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản,
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh.
1.2.2. Các đặc điểm của biện pháp tư pháp
* Đặc điểm thứ nhất, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội trước hết là một biện pháp của pháp luật hình sự và chỉ có
thể được áp dụng khi có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là trách
nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân người phạm tội, do đó, với tư cách là

19
một biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước nên biện pháp tư pháp chỉ
có thể được áp dụng khi có sự việc phạm tội xảy ra. Nếu sự việc phạm tội do
người chưa thành niên phạm tội thực hiện thì trong trường hợp nếu thấy
không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa án có thể áp dụng biện pháp tư
pháp. Như vậy biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên theo
quy định của pháp luật hình sự chỉ có thể được áp dụng khi có hành vi phạm
tội và chủ thể của hành vi này là người chưa thành niên.
* Đặc điểm thứ hai, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành
niên là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt
và việc áp dụng biện pháp tư pháp thay thế hình phạt không để lại án tích.

Hình phạt và biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế của nhà
nước áp dụng đối với người phạm tội, tuy nhiên hình phạt được coi là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước. Do đó, so với hình phạt thì biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người chưa thành niên là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn.
Mặc dù mục đích của việc áp dụng biện pháp tư pháp giống với mục
đích áp dụng các hình phạt là đều nhằm mục đích giáo dục và tạo điều kiện
tốt nhất để người chưa thành niên nhận thức được hành vi trái pháp luật của
mình để sửa chữa, nhưng việc áp dụng các biện pháp tư pháp lại không để lại
án tích đối với người chưa thành niên phạm tội. Do đó, tính nghiêm khắc của
biện pháp tư pháp ít hơn so với hình phạt. Bên cạnh đó, đặc điểm này còn
được thể hiện trong chính nội hàm của hai biện pháp tư pháp dành riêng cho
người chưa thành niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại xã, phường thị
trấn và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Việc áp dụng biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng mặc dù là biện pháp cách ly người chưa thành
niên phạm tội khỏi cộng đồng nhưng cũng chỉ trong trường hợp do nhân thân,
môi trường sống của người chưa thành niên mà cần thiết phải cách ly các em
để tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các em. Và mục đích của

20
biện pháp này thể hiện ở chính tên gọi của nó, đó chính là trường học là
chính. Ngoài ra, những biện pháp tư pháp mang tính hỗ trợ hình phạt cũng chỉ
nhằm loại trừ hoặc hạn chế khả năng người đó tiếp tục phạm tội, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người bị hại cũng như để điều trị cho bị can, bị cáo bị
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của người phạm tội. Biện pháp này không như hình
phạt, người bị kết án có thể bị tước bỏ hoặc hạn chế các quyền tự do, quyền
về tài sản, thậm chí là cả quyền sống.
Việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên không
để lại án tích đối với người chưa thành niên phạm tội chính là quy định tạo

điều kiện cho người chưa thành niên có cơ hội làm lại, trở thành công dân có
tích cho xã hội.
* Đặc điểm thứ ba, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên là biện pháp tư pháp nhằm thay thế hoặc hỗ trợ hình phạt do cơ
quan có thẩm quyền áp dụng.
Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội được chia làm 02 loại: Loại thứ nhất là các biện pháp hỗ trợ cho hình phạt
và loại thứ hai là các biện pháp thay thế cho hình phạt. Những biện pháp tư
pháp hỗ trợ cho hình phạt có thể do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền
áp dụng, nghĩa là ngoài Tòa án thì tùy theo giai đoạn tố tụng các cơ quan tố
tụng khác như Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng biện pháp tư pháp.
Trong khi đó, biện pháp tư pháp thay thế hình phạt chỉ được áp dụng theo
quyết định của Tòa án.
Trên đây là những đặc điểm nổi bật của biện pháp tư pháp áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội, ngoài ra các biện pháp còn có những đặc
điểm khác như việc áp dụng các biện pháp này theo một trình tự do luật tố
tụng hình sự quy định, các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên

21
phạm tội chỉ được áp dụng riêng đối với bản thân người chưa thành niên, đây
là đặc điểm về chủ thể đặc biệt chấp hành.
Tuy nhiên, để phân tích sâu hơn những đặc điểm của biện pháp tư
pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội thì cần có sự so sánh, đối
chiếu với hình phạt.
Những điểm tương đồng giữa biện pháp tư pháp và hình phạt:
Biện pháp tư pháp và hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội là những biện pháp cưỡng chế hình sự dành cho người chưa thành
niên phạm tội nên về cơ bản hai loại chế tài này có những điểm giống nhau
như đều là chế định quan trọng về trách nhiệm hình sự của Nhà nước, chỉ
được áp dụng khi có sự việc phạm tội và chủ thể phải chấp hành là người

chưa thành niên phạm tội. Nếu chủ thể thực hiện tội phạm trong độ tuổi từ đủ
14 tuổi đến 16 tuổi thì việc áp dụng biện pháp tư pháp hay hình phạt đều
không để lại án tích đối với họ.
Ngoài ra, hình phạt và các biện pháp tư pháp đều là các dạng của trách
nhiệm hình sự nên việc quyết định áp dụng các chế tài này phải được thực
hiện bởi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo một trình tự đặc biệt
được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự.
Giữa biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên và
hình phạt có điểm khác nhau như sau:
Về mức độ nghiêm khắc trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế về
hình sự: Hình phạt được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước trong luật hình sự vì mức trừng trị cao nhất của hình phạt nói chung
có thể là tước quyền sống của người phạm tội hoặc đối với người chưa thành
niên phạm tội thì mức hình phạt cao nhất cũng là tước quyền tự do trong một
thời gian nhất định (tù có thời hạn). Ngược lại, ngay khi biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội có tính chất thay thế hình phạt

×