Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.77 KB, 18 trang )

Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội theo quy định của
pháp luật hình sự
Nguyễn Thị Tố Nga
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Nghiên cứu về lý luận để làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ bản của biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, mối quan hệ giữa biện pháp
tư pháp với các chế tài hình sự khác, phân tích các nguyên tắc áp dụng biện pháp tư
pháp đối với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam và đối
chiếu với một số biện pháp không tước tự do đối với người chưa thành niên phạm tội
trong pháp luật quốc tế. Đánh giá việc áp dụng các biện pháp tư pháp được áp dụng
đối với người chưa thành niên trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phân tích những
điểm hạn chế của từng biện pháp tư pháp. Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích,
đánh giá tác giả đưa ra đề xuất việc hồn thiện các quy định của pháp luật về biện
pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm đạt được mục
đích của việc xử lý tội phạm.
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật hình sự; Trẻ vị thành niên; Biện pháp tư pháp
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em là nhiệm vụ chung của tồn nhân loại, khơng có sự phân biệt
giữa các quốc gia có chế độ xã hội và bản sắc dân tộc khác nhau. Với người Việt Nam, việc
chăm sóc và bảo vệ trẻ em khơng chỉ là nhiệm vụ mà còn là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời
của dân tộc. Quyền và lợi ích trẻ em không chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trong
nước như Hiến pháp, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (năm 2004)… mà cịn thể
hiện ở những cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam là một trong
những nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc.
Và với quan điểm bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách tồn diện, từ việc dành cho các em


những điều kiện tốt nhất về giáo dục, kinh tế, xã hội, y tế… để các em phát triển toàn diện đến
việc áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp khi các em vi phạm pháp luật để tạo điều kiện cho
các em nhận thức đúng đắn hơn đối với hành vi của mình, pháp luật Việt Nam đã có những
quy định tương đối toàn diện đối với quyền và nghĩa vụ của các em. Các quy định của Bộ luật
Hình sự cũng khơng nằm ngồi mục đích trên. Người chưa thành niên tham gia các quan hệ


được luật hình sự bảo vệ với hai tư cách: một là chủ thể của tội phạm, hai là đối tượng tác
động của tội phạm. Trong luận văn này chỉ nghiên cứu người chưa thành niên với tư cách là
chủ thể tội phạm.
Người chưa thành niên là những người còn non nớt về thể chất và trí tuệ, nên việc nghiên
cứu chính sách pháp luật áp dụng khi họ có hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm
pháp luật hình sự nói riêng là một việc làm cần thiết. Những kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ
sở quan trọng của việc hoàn thiện pháp luật, từ đó đưa ra những quy định phù hợp nhất đối
với người chưa thành niên vì chính những quy định của pháp luật sẽ có ảnh hưởng quan trọng
tới sự phát triển toàn diện, ổn định của người chưa thành niên, chủ nhân tương lai của đất
nước.
Bên cạnh đó, với đặc điểm non nớt của người chưa thành niên nên đòi hỏi hệ thống tư
pháp áp dụng với người chưa thành niên phải đảm bảo những yêu cầu khắt khe trong khi áp
dụng như vấn đề quy định của pháp luật phải phù hợp với hoàn cảnh của người phạm tội, đặc
điểm tâm lý của người phạm tội cũng như tính chất của tội phạm, trong đó đặc biệt chú trọng
đến hạnh phúc của người chưa thành niên. Đây là những yêu cầu tối thiểu của tư pháp người
chưa thành niên thể hiện trong các văn kiện quốc tế về tư pháp người chưa thành niên và quy
định của Bộ luật Hình sự nước Việt Nam. Điều 69 Bộ luật Hình sự quy định nguyên tắc xử lý
đối với người chưa thành niên phạm tội đã thể hiện rõ mục đích của việc xử lý đối với người
chưa thành niên, nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành cơng dân có ích cho xã hội. Nguyên tắc này đã thể hiện tính nhân đạo của pháp luật
nước ta.
Xuất phát những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đó, các quy định áp dụng trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự nước ta đều nhằm mục đích giáo

dục, uốn nắn, răn đe những hành vi lệch lạc, làm cho họ thấy được sai phạm của mình và tự giác
sửa chữa với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội. Thể hiện điều này, về nguyên tắc xử
lý người chưa thành niên phạm tội sẽ ưu tiên áp dụng các quy định riêng quy định tại Chương
X - Những quy định đối với người chưa thành niên, đồng thời có thể áp dụng những quy định
khác trong phần chung của Bộ luật nếu không trái với những quy định của chương này. Điều này
có nghĩa là, trong trường hợp nếu thấy không cần thiết phải áp hình phạt đối với người chưa
thành niên, Tịa án ưu tiên áp dụng một trong các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 của
Bộ luật Hình sự 1999.
Biện pháp tư pháp mang ý nghĩa lớn trong việc xử lý hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội, thể hiện tính giáo dục cao, đồng thời thể hiện được đường lối xử lý mang tính
nhân đạo, có sự cân nhắc tới đặc điểm tâm lý của người phạm tội. Việc áp dụng biện pháp tư
pháp đối với người chưa thành niên sẽ không để lại án tích đối với họ. Ngồi ra, các biện pháp
tư pháp quy định tại các Điều 41, 42, 43 Bộ luật Hình sự 1999 cũng có thể được áp dụng.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội còn tồn tại một số điểm hạn chế như hiệu quả áp dụng của biện
pháp không cao, người bị áp dụng lẫn gia đình, cộng đồng nơi người đó sinh sống thường có
tâm lý được "tha bổng", cơ chế phân cơng, theo dõi khơng chặt chẽ, việc tái hịa nhập của
người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là khó khăn, phạm vi
áp dụng cịn hạn chế, biện pháp lựa chọn cịn ít…, chưa tương thích với các chuẩn mực quốc
tế. Xuất phát từ những điểm hạn chế trên cho thấy cần phải nâng cao hiệu quả của các biện
pháp tư pháp đang được quy định trong Bộ luật Hình sự. Đồng thời, cần nghiên cứu bổ sung

2


thêm một số biện pháp tư pháp để tăng thêm sự lựa chọn nhằm có những biện pháp áp dụng
hiệu quả nhất đối với người chưa thành niên phạm tội.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về biện
pháp tư pháp là một việc làm quan trọng và mang tính cấp thiết, đây cũng chính là lý do tơi
lựa chọn đề tài "Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội

theo quy định của pháp luật hình sự" làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, tư pháp người chưa thành niên luôn được quan tâm. Việc
nghiên cứu thường tập trung vào các vấn đề sau:
- Tình hình người chưa thành niên phạm tội;
- Nghiên cứu vai trò của gia đình, nhà trường, các đồn thể tham gia vào việc giáo dục
người chưa thành niên phạm tội;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự đối với hình phạt, biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên;
- Nghiên cứu việc thi hành các chế tài đối với người chưa thành niên theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự.
Tiêu biểu là các cơng trình liên quan trực tiếp đến các biện pháp tư pháp đối với người
chưa thành niên như sau:
+ Các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và vấn đề hồn thiện Bộ luật tố
tụng hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp đó, của TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí
Luật học, số 5/2000;
+ Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt, của Hồ Sĩ Sơn, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 4/2004;
+ Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt khơng tước tự do và các biện
pháp tư pháp, của TS. Trần Quang Tiệp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2004.
Ngồi ra cịn một số cơng trình khác như:
+ Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại Việt Nam, Thông tin
khoa học chuyên đề, Viện Khoa học pháp lý, năm 2000;
+ Đề tài nghiên cứu cấp trường Đại học quốc gia Hà Nội: Những vẫn đề lý luận và thực
tiễn về tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, của Đỗ Thị Phượng, Bùi Đức
Lợi, Hà Nội, năm 2005;
+ Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, những khía cạnh tội phạm
học, của TSKH. PGS Lê Cảm - ThS. Đỗ Thị Phượng, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 22/2004;
+ Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, của Trịnh Đình
Thể, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006.

Tuy nhiên, các nghiên cứu do phạm vi và mục đích của mình nên khơng đi sâu về các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên, thường là các bài viết nghiên cứu
trên các tạp chí. Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên thường chỉ là một
phần trong tồn bộ nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên hoặc các chế
tài áp dụng đối với người chưa thành niên. Chính vì vậy, các nghiên cứu về biện pháp tư pháp
áp dụng đối với người chưa thành niên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các điều kiện áp dụng
mà chưa có sự so sánh với các chế tài khác, tìm hiểu về sự thay đổi trong quy định của pháp
luật liên quan đến biện pháp tư pháp.

3


Đây chính là những vấn đề nghiên cứu cịn bỏ ngỏ mà luận văn này mong muốn góp phần
giải quyết.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như những nội dung cơ bản của
hệ thống biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự
Việt Nam trên cơ sở đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp này để kiến nghị việc hoàn
thiện các quy định về biện pháp tư pháp trong luật hình sự nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về lý luận để làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, mối quan hệ giữa biện pháp tư pháp với các chế
tài hình sự khác, phân tích các nguyên tắc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa
thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó có sự phân tích, đối
chiếu với một số biện pháp khơng tước tự do đối với người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật quốc tế
- Đánh giá việc áp dụng các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành
niên trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phân tích những điểm hạn chế của từng biện pháp tư
pháp.

- Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác giả đưa ra đề xuất việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội nhằm đạt được mục đích của việc xử lý tội phạm.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của biện pháp tư pháp áp dụng đối
với người chưa thành niên theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình sự.
4. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn sử dụng các phương pháp luận chung và phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm
sáng tỏ về mặt khoa học của từng vấn đề tương ứng. Đó là phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp: phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp logic…
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học về mặt lý luận và thực tiễn của biện pháp tư
pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Luận văn phân tích một cách cụ thể và tồn diện các quy định của pháp luật hình sự về
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Phân tích, đánh giá chi
tiết từng điều kiện, đặc điểm của từng biện pháp, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp
luật quốc tế. Nghiên cứu, đưa ra các giải pháp kiến nghị việc hoàn thiện các quy định đối với
việc xử lý người chưa thành niên phạm tội bằng biện pháp tư pháp, từ đó, tăng cường hiệu

4


quả của cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và tội phạm ở lứa tuổi vị thành
niên nói riêng.

6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người chưa
thành niên phạm tội.
Chương 2: Các quy định pháp luật về biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên
phạm tội.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
và một số kiến nghị.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
TƢ PHÁP ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1. Đặc điểm tâm lý của ngƣời chƣa thành niên phạm tội và nguyên tắc xử lý ngƣời
chƣa thành niên phạm tội
Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên thể hiện ở những điểm chính như sau:
Về trạng thái xúc cảm trong giai đoạn này, người chưa thành niên có cảm giác mệt mỏi,
chóng mặt, nhức đầu, sức làm việc suy giảm, dễ bị kích động, dễ nổi nóng…
Về nhu cầu độc lập, với những phát triển mạnh mẽ về thể chất và sự hoàn thiện cơ bản
của các chức năng sinh lý khiến cho người chưa thành niên có ấn tượng rằng mình đã trưởng
thành.
Về nhận thức pháp luật, giai đoạn này, người chưa thành niên có sự phát triển về nhận
thức cịn hạn chế, trong đó có nhận thức về pháp luật.
Về nhu cầu khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của người chưa thành niên
phạm tội.
Xuất phát từ những đặc điểm tâm lý trên nên việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải
tuân theo những quy định riêng với nguyên tắc riêng.
Nguyên tắc thứ nhất, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Nguyên tắc thứ hai, người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu
người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại khơng lớn, có nhiều tình

tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp
dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào
tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng
ngừa tội phạm.
Nguyên tắc thứ tư, ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
hoặc đưa vào trường giáo dưỡng thay thế cho hình phạt trong trường hợp không cần thiết..
Nguyên tắc thứ năm là không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa
thành niên, hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho người chưa
thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên

5


phạm tội tương ứng. Khơng áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở
độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Nguyên tắc cuối cùng, án đã tuyên đối với người chưa thành niên khi chưa đủ 16 tuổi, thì
khơng để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
1.2. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tƣ pháp đối với ngƣời chƣa thành
niên phạm tội
1.2.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
Hiện nay chưa có một khái niệm chính thức nào định nghĩa về biện pháp tư pháp. Theo
giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, biện pháp tư pháp được hiểu
là "các biện pháp hình sự được Bộ luật Hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với
người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt".
Theo TSKH. GS Lê Cảm, biện pháp tư pháp được hiểu đầy đủ hơn, đó là: "Biện pháp cưỡng
chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp
dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế
cho hình phạt"[30]. Như vậy, qua khái niệm trên có thể hiểu một cách tương đối cụ thể về biện

pháp tư pháp với những dấu hiệu sau:
1. Đây là biện pháp thể hiện trách nhiệm hình sự của một cá nhân khi người đó có hành vi
phạm tội.
2. Là một chế tài ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, do pháp luật hình sự quy định; là
kết quả của sự phân hóa trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ hình phạt.
3. Có thể được áp dụng trong những giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau.
4. Là biện pháp mang tính thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt.
Từ khái niệm khoa học trên về biện pháp tư pháp, ta có thể hiểu một cách đơn giản biện
pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: "Biện pháp tư pháp áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội, ít nghiêm khắc hơn hình phạt, được cơ quan tư pháp hình sự
có thẩm quyền áp dụng nhằm hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt".
1.2.2. Các đặc điểm của biện pháp tư pháp
- Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trước hết là một biện
pháp của pháp luật hình sự và chỉ có thể được áp dụng khi có hành vi phạm tội do người chưa
thành niên thực hiện.
- Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên là biện pháp cưỡng chế về
hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt và việc áp dụng biện pháp tư pháp thay thế hình
phạt khơng để lại án tích.
- Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên là biện pháp tư pháp nhằm
thay thế hoặc hỗ trợ hình phạt do cơ quan có thẩm quyền áp dụng.
Giữa biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên và hình phạt có điểm khác
nhau như sau:
Về mức độ nghiêm khắc trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế về hình sự: Hình phạt
được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của hình sự, do đó, các loại chế tài khác
đều có mức độ ít nghiêm khắc hơn, trong đó có biện pháp tư pháp.

6



Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng và đối tượng bị áp dụng: Hình phạt do Tịa án áp dụng
đối với chủ thể phạm tội. Nhưng biện pháp tư pháp có thể do cơ quan tố tụng khác ngồi Tịa
án và các chủ thể khác ngồi chủ thể phạm tội cùng tham gia thực hiện biện pháp tư pháp.
Về điều kiện áp dụng (ranh giới giữa áp dụng hình phạt và áp dụng biện pháp tư pháp):
Khi xét thấy trong trường hợp khơng cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tịa quyết định áp dụng
các biện pháp tư pháp thay thế.
Về hậu quả pháp lý của việc áp dụng: Người phạm tội khi bị áp dụng hình phạt thì chắc
chắn sẽ chịu án tích. Nhưng nếu áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 Bộ luật hình
sự thì người phạm tội khơng phải chịu án tích.
1.3. Chuẩn mực quốc tế về tƣ pháp ngƣời chƣa thành niên và quy định của một số
nƣớc về biện pháp không tƣớc tự do đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội; bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam
Xuất phát từ ngun tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu,
trong các văn kiện quốc tế đã đưa ra những khuyến nghị tăng cường việc áp dụng các biện
pháp khác ngoài việc giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội. Và qua nghiên cứu
pháp luật của một số nước cũng cho thấy các biện pháp xử lý không tước tự do ln được ưu
tiên áp dụng, hình phạt tù chỉ được áp dụng khi đó là biện pháp cuối cùng.
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
2.1. Sơ lƣợc lịch sử pháp luật của Việt Nam về áp dụng biện pháp tƣ pháp từ năm 1945
đến khi ban hành Bộ luật Hình sự 1999
2.1.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật Hình sự 1985
Theo hướng dẫn của Tịa án nhân dân tối cao số 329-HS2 ngày 11 tháng 2 năm 1967,
hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên ở thời kỳ này "chỉ vào khoảng một phần hai
mức án đối với người lớn". Đối với trẻ em từ 9 đến 17 tuổi, đi lang thang, trộm cắp nhiều lần,
có lối sống sa đọa trụy lạc đã được gia đình, đồn thể, nhà trường và chính quyền tận tình
giúp đỡ nhiều lần, nhưng khơng chịu sửa chữa sẽ bị đưa vào trường phổ thông công nông
nghiệp trong thời gian 02 năm. Đây là những trường giáo dục thiếu niên hư.
2.1.2. Các biện pháp tư pháp theo Bộ luật Hình sự năm 1985

Bộ luật cũng dành một điều quy định về biện pháp tư pháp và hình phạt áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội. Theo đó, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội bao gồm:
1. Biện pháp buộc phải chịu thử thách;
2. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Biện pháp buộc phải chịu thử thách được áp dụng trong trường hợp người chưa thành
niên phạm tội ít nghiêm trọng, thời gian phải chịu thử thách từ một đến hai năm. Trong quá
trình chấp hành biện pháp buộc phải chịu thử thách, người chưa thành niên phải chấp hành
đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân thủ kỷ luật xã hội và pháp luật dưới sự giám
sát, giáo dục của chính quyền cơ sở và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm. Trong
trường hợp người chịu thử thách đã chấp hành một nửa thời hạn do Tòa án quyết định và tỏ ra

7


nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án
quyết định chấm dứt thời hạn thử thách.
Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được áp dụng khi tính chất của hành vi phạm tội
nghiêm trọng, do nhân thân và môi trường sống của họ cần đưa họ vào một tổ chức giáo dục
của kỷ luật chặt chẽ. Thời hạn ở trường giáo dưỡng là từ một năm đến ba năm.
Cũng như biện pháp buộc phải chịu thử thách, nếu người chưa thành niên phạm tội đã
chấp hành được một nửa thời hạn do Tịa án quyết định, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của
người phụ trách trường, Tịa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng.
Sau 14 năm thi hành Bộ luật Hình sự 1985, do tình hình kinh tế xã hội có nhiều thay đổi,
Bộ luật Hình sự 1985 đã bộc lộ những bất cập và hạn chế, đến năm 1999, Bộ luật Hình sự mới
được ban hành. Theo đó, các quy định về biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên
cũng được sửa đổi, bổ sung. Theo quy định Bộ luật Hình sự 1999, biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên bao gồm:
1. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
2. Đưa vào trường giáo dưỡng.

Như vậy, biện pháp buộc phải chịu thử thách quy định tại Bộ luật Hình sự 1985 đã bị bãi
bỏ, thay thế bởi biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp nếu khơng trái với quy định tại Chương X Bộ luật
Hình sự 1999, người chưa thành niên phạm tội cịn có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp quy
định tại phần chung của Bộ luật.
2.2. Biện pháp giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng trong thời gian từ một năm
đến hai năm.
Xét theo Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi
tội phạm. Như vậy, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là chỉ áp dụng trong trường
hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, thì biện pháp này chỉ áp dụng đối với
người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Biện pháp này còn được quyết định trên cơ sở cân nhắc các yếu tố khác như tình tiết giảm
nhẹ, nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội, thái độ ăn năn, hối cải sau khi phạm tội
hoặc điều kiện có nơi thường trú ổn định và môi trường sống của họ thuận lợi cho việc giáo dục tại
xã, phường, thị trấn.
Khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự cũng quy định trách nhiệm của người chưa thành niên khi
chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Người chưa thành niên phải chấp hành đầy
đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính
quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm. Và để cụ thể những
quy định này năm 2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày
30/10/2000 quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Nghị định số 59/2000/NĐ-CP đã quy định một cách cụ thể trách nhiệm và quyền của
người chưa thành niên phạm tội cũng như trách nhiệm của gia đình, Ủy ban nhân dân và
người trực tiếp giám sát trong khi các em chấp hành biện pháp.


8


Người chưa thành niên phải có trách nhiệm sau:
Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân
và quy ước của thôn, làng, ấp, bản, cụm dân cư nơi mình cư trú.
Làm bản cam kết với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được
giao giám sát, giáo dục, trong đó nêu rõ các biện pháp tích cực sửa chữa lỗi lầm của mình.
Thực hiện nghiêm chỉnh bản cam kết của mình, tích cực sửa chữa lỗi lầm, học tập, làm ăn
lương thiện và tham gia chung của cộng đồng dân cư nơi mình cư trú
Ngồi ra, người chưa thành niên cịn có nghĩa vụ:
"Làm bản tự kiểm điểm về quá trình rèn luyện, tu dưỡng của mình gửi Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc người đứng đầu tổ chức được giao giám sát, giáo dục khi
đã chấp hành một phần hai thời gian thử thách;
Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người được giao giám sát, giáo dục về kết
quả rèn luyện, tu dưỡng của mình, trong trường hợp đi khỏi nơi cư trú trên 30 ngày, thì báo
cáo và trong thời gian tạm trú phải có nhận xét của cảnh sát khu vực hoặc công an xã nơi
người chưa thành niên phạm tội đến cư trú".
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội quy định trong Bộ luật Hình sự 1999 là sự kế thừa của biện pháp tư pháp buộc phải chịu
thử thách quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1985. Về bản chất, hai biện pháp này khơng khác
nhau nhưng về điều kiện áp dụng lại có điểm khác nhau.
Điều 61 Bộ luật Hình sự 1985 quy định biện pháp tư pháp buộc phải chịu thử thách trong
trường hợp sau:
"Đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, tịa án có thể quyết định buộc
phải chịu thử thách từ một năm đến hai năm".
Như vậy, theo quy định của thì biện pháp buộc phải chịu thử thách chỉ áp dụng trong
trường hợp người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng. Và căn cứ vào Điều 8 Bộ luật
Hình sự 1985 quy định "tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng", thì biện pháp buộc phải chịu thử thách
cũng chỉ áp dụng đối với những hành vi gây nguy hại khơng lớn cho xã hội mà mức hình phạt
cao nhất có thể là 5 năm.
Xét về đối tượng bị áp dụng thì biện pháp buộc phải chịu thử thách cũng chỉ áp dụng đối
với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý.
Như vậy, nếu căn cứ theo loại tội phạm thì điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn được mở rộng hơn, biện pháp này được áp dụng khi người chưa thành niên
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng. Và theo quy định phân loại của Bộ luật
Hình sự năm 1999 thì biện pháp này được áp dụng đối với tội phạm có mức khung hình phạt cao
nhất là bảy năm tù. Tuy nhiên, nếu căn cứ theo đối tượng bị áp dụng thì phạm vi đối tượng là
không đổi, cả hai biện pháp này cũng chỉ áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
2.3. Biện pháp đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng
Biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên phạm tội
(sau đây gọi tắt là biện pháp giáo dưỡng) được quy định trong Bộ luật hình sự, là biện pháp
do Tòa án quyết định, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi

9


phạm tội, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ, nhưng do tính chất của
hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần phải đưa người đó
vào trường giáo dưỡng.
So với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì biện pháp giáo dưỡng nghiêm khắc
hơn. Tính nghiêm khắc của biện pháp này thể hiện ở chỗ người chưa thành niên phạm tội khi
chấp hành biện pháp này sẽ bị cách ly khỏi môi trường xã hội trong một thời hạn nhất định để
vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng nhằm
giúp các em phạm tội có môi trường tốt hơn để khắc phục những sai lầm của mình, tách họ
khỏi những điều kiện xấu tác động đến việc phạm tội của họ.

Biện pháp giáo dưỡng được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi. Biện pháp giáo dưỡng có tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn nên áp dụng khi tội phạm mang tính nguy hiểm hơn vì người từ đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
Để áp dụng biện pháp giáo dưỡng, ngày 23/8/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
52/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Theo đó,
người chưa thành niên đang chấp hành biện pháp giáo dưỡng (sau đây gọi là học sinh) phải
chịu sự giám sát, quản lý, giáo dục, phân công lao động của cán bộ, giáo viên nhà trường và
chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của nhà trường.
Thời gian áp dụng biện pháp giáo dưỡng theo quy định của pháp luật từ 01 đến 02 năm.
So với Bộ luật Hình sự 1985 thì thời gian áp dụng biện pháp này đã được rút ngắn lại, thời
gian học tập quy định trong trường giáo dưỡng theo quy định của Bộ luật Hình sự 1985 từ 01
đến 03 năm. Cùng với chế tài hình sự trong xử lý vi phạm hành chính cũng có biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng, tuy nhiên về bản chất cũng như
điều kiện áp dụng các biện pháp này ở hai hệ thống là hoàn tồn khác nhau về thẩm quyền và
trình tự áp dụng.
2.3. Một số biện pháp tƣ pháp khác có thể đƣợc áp dụng với ngƣời chƣa thành niên
phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự
2.3.1. Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
Biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm mang tính hỗ trợ cho hình
phạt, nhằm ngăn chặn nguy cơ phạm tội của người bị áp dụng biện pháp tư pháp này. Biện
pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được áp dụng trong các trường hợp
sau:
Trường hợp thứ nhất, tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội.
Trường hợp thứ hai, vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy
mà có
Trường hợp thứ ba, vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành
Biện pháp này được áp dụng mang tính hỗ trợ cho hình phạt áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội.

2.3.2. Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc cơng khai xin
lỗi
Với tính chất là biện pháp hỗ trợ hình phạt, hai biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại và buộc công khai xin lỗi nhằm bảo vệ quyền của người bị hại. Biện pháp trả
lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại được áp dụng khi chứng minh được người phạm

10


tội đã chiếm đoạt tài sản của người khác và người chủ sở hữu những tài sản trên đã xác định.
Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt khơng cịn thì người thực hiện hành vi phạm tội phải
có nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại về tài sản gây ra. Nếu tài sản đó bị hư hỏng thì người đó
phải có nghĩa vụ sửa chữa, nếu sửa chữa khơng được thì phải bồi thường. Ngồi ra, nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại còn được thực hiện trong những vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của người khác.
Việc áp dụng biện pháp tư pháp bồi thường thiệt hại đối với người chưa thành niên cần
lưu ý một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005.
Biện pháp buộc người phạm tội công khai xin lỗi người bị hại được áp dụng trên cơ sở tự
nguyện của người phạm tội và sự đồng ý của người bị hại.
2.3.3. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh
Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được Bộ luật Hình sự quy định, do Tòa án hoặc
Viện kiểm sát áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình.
Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng tùy trong trường hợp khác nhau:
Trong trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình, thì
tùy từng giai đoạn Tịa án, Viện Kiểm sát nhân dân căn cứ theo giám định pháp y để đưa họ vào
cơ sở điều trị chuyên khoa chữa bệnh bắt buộc hoặc giao cho gia đình, người quản lý trơng nom,
giám sát dưới sự quản lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp này người phạm tội

khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi có năng lực trách nhiệm
hình sự, nhưng khi kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận của hội đồng giám định, Tòa án ra quyết định
đưa họ đi điều trị bệnh. Sau khỏi bệnh người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp cuối là người đang chấp hành hình phạt bị mắc bệnh tới mức mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, căn cứ vào kết quả giám định pháp y, Tòa án ra
quyết định đưa họ vào một cơ sở chữa trị. Sau khi khỏi bệnh, người này phải tiếp tục chấp
hành hình phạt nếu khơng có lý do miễn chấp hành hình phạt.
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TƢ PHÁP ĐỐI VỚI
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Tình hình và nguyên nhân ngƣời chƣa thành niên phạm tội
3.1.1. Tình hình người chưa thành niên phạm tội
Trong những năm qua, hoạt động tội phạm trong lứa tuổi người chưa thành niên đang có xu
hướng gia tăng với tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Cùng với sự gia tăng về số lượng
thì mức độ nguy hiểm của tội phạm do người chưa thành niên thực hiện cũng có xu hướng nguy
hiểm, liều lĩnh hơn. Tội phạm có tính chất băng nhóm, dùng hung khí đã xuất hiện.
Về cơ cấu của tội phạm do người chưa thành niên phạm tội thường tập trung vào các tội
xâm phạm sở hữu hoặc tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người.

11


Về độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội, chủ yếu do người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi thực hiện, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít hơn.
3.1.2. Nguyên nhân phạm tội của người chưa thành niên
Về phía gia đình: Phần lớn trẻ em vi phạm pháp luật có hồn cảnh gia đình kinh tế khó
khăn hoặc gặp hồn cảnh éo le: bố mẹ ly thân, ly dị, bố mẹ khơng có việc làm hoặc việc làm

không ổn định. Trong nhiều trường hợp, người chưa thành niên phạm tội do thiếu sự quan
tâm, giám sát dạy bảo của người thân, nảy sinh tâm lý chán chường, bỏ học và bị bạn bè xấu
rủ rê vào con đường phạm tội.
Về phía nhà trường: Qua nghiên cứu cho thấy có lúc có nơi nhà trường chưa thực hiện tốt
chức năng của mình. Việc giáo dục lối sống, đạo đức cho các em trong nhà trường chưa được
quan tâm đúng mức, tình trạng học sinh lười học, bỏ học đi lang thang còn nhiều. Một số vụ
án phạm tội xẩy ra do nhà trường chưa quản lý chặt chẽ, chưa nắm được những mâu thuẫn
trong học sinh để kịp thời can thiệp nên dẫn đến trường hợp học sinh tụ tập lại thành từng
nhóm giải quyết các mâu thuẫn theo kiểu xã hội đen, dẫn đến hành vi phạm tội.
Nguyên nhân từ phía xã hội: Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, có sự giao thoa
mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa giữa các nước. Cùng với những yếu tố tích cực trong sự giao
thoa kinh tế, văn hóa thì các yếu tố mang tính tiêu cực cũng xâm nhập ảnh hưởng tới mọi
người dân Việt Nam, đặc biệt là người chưa thành niên với tâm lý thích cái mới.
Về phía người chưa thành niên: Một trong những nguyên nhân của tình hình phạm tội ở
người chưa thành niên xuất phát từ chính đặc điểm tâm sinh lý, nhận thức còn hạn chế của các
em. Người chưa thành niên đang trong q trình hồn thiện về thể chất và tinh thần, nhận thức
còn hạn chế nên dễ dàng bị lôi kéo vào con đường phạm tội.
3.2. Thực tiễn áp dụng và một số hạn chế của biện pháp tƣ pháp đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội
Qua thực tiễn cho thấy, tỷ lệ bị cáo áp dụng biện pháp tư pháp là rất thấp, chủ yếu áp
dụng hình phạt trong quá trình xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Theo số liệu thống kê trong cả nước từ 2007 đến 7 tháng đầu năm 2009 thì số đối tượng
bị áp dụng biện pháp tư pháp theo Điều 70 của Bộ luật Hình sự cũng rất thấp.
Bên cạnh đó, trong q trình nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn các biện pháp tư pháp
này ta còn nhận thấy một số điểm bất cập như sau:
Thứ nhất, về phạm vi áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn chỉ áp dụng đối
với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Đây là một hạn chế vì người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về nhận thức hạn chế hơn nhiều so với người từ đủ 16 tuổi
đến 18 tuổi, hành vi của họ chỉ bị xử lý hình sự khi ở mức độ rất nguy hiểm hoặc đặc biệt
nguy hiểm cho xã hội nhưng xét ở một góc độ nhất định thì họ cũng chính là nạn nhân của

nhận thức hạn chế, do đó, họ cần có cơ hội sửa chữa sai lầm của mình ngay trong chính cộng
đồng, khơng nên áp dụng các biện pháp mang tính cách ly đối với họ.
Thứ hai, thực tiễn xét xử cho thấy, việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn với tư cách là biện pháp tư pháp hầu như không được áp dụng. Tuy nhiên, trong trường
hợp áp dụng biện pháp tư pháp này thì hiệu quả lại khơng cao.
Thứ ba, hiệu quả của biện pháp này có vai trị quan trọng của người trực tiếp giáo dục,
giám sát người chưa thành niên phạm tội nhưng quy định của pháp luật lại chưa cụ thể.
Thứ tư, trên thực tế khi chấp hành biện pháp này có tâm lý coi như tha bổng nên các cơ
quan có thẩm quyền cũng như người chưa thành niên phạm tội không quan tâm đến thời hạn
phải chấp hành, quyền, nghĩa vụ của mình và quyền được chấm dứt thời hạn chấp hành biện
pháp tư pháp. Thực tế này đã làm mất quyền lợi của người chưa thành niên phạm tội.

12


Thứ năm, sự phối hợp giữa cơ quan, tổ chức, đồn thể và gia đình trong việc giám sát,
giáo dục người chấp hành biện pháp tư pháp nhìn chung cịn thiếu đồng bộ, thiếu tính chặt
chẽ, hiệu quả chưa cao.
Thứ sáu, qua thực tiễn áp dụng biện pháp này cho thấy việc tái hòa nhập của người chưa
thành niên phạm tội là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức,
cá nhân nhưng tại các trường giáo dưỡng, các em chỉ được học văn hóa, giáo dục hướng
nghiệp, học nghề mà chưa có chương trình đào tạo kỹ năng sống, kỹ năng tái hịa nhập cộng
đồng hoặc các chương trình tham vấn, tư vấn trang bị các kỹ năng giúp các em tái hòa nhập
sau khi ra trường.
Thứ bảy, hạn chế trong việc chưa có sự hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục áp dụng biện
pháp tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm và biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại trong Bộ luật tố tụng hình sự nên gây khó khăn trong thực tế áp
dụng
3.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các biện pháp tƣ pháp áp dụng
đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội

Về nguyên tắc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội: Để
khẳng định việc ưu tiên áp dụng biện pháp này, khoản 4 Điều 69 Bộ luật Hình sự có thể sửa
đổi như sau:
"Khi xét xử, Tịa án ưu tiên áp dụng các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 của Bộ
luật này trước khi xem xét việc áp dụng hình phạt. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
được ưu tiên áp dụng."
Về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Cần mở rộng phạm vi áp dụng của biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn để tạo cơ
hội cho người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được hưởng sự giáo dục từ cộng
đồng.
Đồng thời, để biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đạt hiệu quả, cần có quy định cụ
thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức giao giám sát, giao dục với gia đình và Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn.
Pháp luật cũng cần phải hướng dẫn việc xác định các cơ quan, tổ chức phù hợp với nhu
cầu giáo dục của người chưa thành niên.
Vấn đề trách nhiệm của người chưa thành niên bị kết án cũng cần được tăng cường.
Về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng: cần bổ sung việc đào tạo, hướng dẫn các kỹ
năng sống, các hoạt động tham vấn, tư vấn để trang bị những kiến thức cần thiết về tái hòa
nhập cộng đồng.
Về biện pháp tịch thu vật, tiền liên quan đến việc phạm tội; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi và bắt buộc chữa bệnh.
Đối với các biện pháp tư pháp còn lại, để việc áp dụng các biện pháp này được thuận lợi,
đề nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục áp dụng của
từng biện pháp.
Kiến nghị bổ sung thêm biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự
Để tăng cường hiệu quả của việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên, theo
tác giả nên mở rộng khả năng lựa chọn các biện pháp áp dụng của Tịa án để phát huy tính
linh hoạt, tránh việc áp dụng biện pháp cách ly các em khỏi xã hội. Do đó, có thể bổ sung biện
pháp lao động phục vụ cộng đồng. Biện pháp tư pháp lao động phục vụ cộng đồng có thể
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi thực

hiện các một trong các hành vi sau:

13


- Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp, hủy hoại, cố ý làm hư hỏng tài sản quy
định tại khoản 1 Điều 137, 138, 143 Bộ luật hình sự trừ trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm;
- Hành vi tổ chức đua xe trái phép, đua xe trái phép quy định tại khoản 1 Điều 206, 207
Bộ luật hình sự.
Thời gian áp dụng từ 30 giờ đến 120 giờ, không quá 3 giờ một ngày. Biện pháp lao động
phục vụ cộng đồng được áp dụng trên cơ sở cân nhắc độ tuổi, sức khỏe, khả năng của người
chưa thành niên phạm tội.
Thời gian lao động không được ảnh hưởng tới thời gian học tập, lao động bình thường
của người chưa thành niên và công việc lao động phải phù hợp với sự phát triển thể chất của
người chưa thành niên.
KẾT LUẬN
Người chưa thành niên chính là tương lai của đất nước, việc bảo vệ và chăm sóc các em
ln được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách
quan, tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện vẫn xuất hiện, đặc biệt đang có chiều
hướng gia tăng trong những năm gần đây. Do đó, u cầu kìm chế tình hình gia tăng đối với
loại tội phạm là hiện hữu. Để đáp ứng được yêu cầu này trước tiên cần có hệ thống tư pháp
người chưa thành niên hoàn thiện.
Người chưa thành niên phạm tội ở một góc độ nhất định họ cũng là nạn nhân của tội phạm,
do đó, trong q trình áp dụng các chế tài hình sự khi xử lý người chưa thành niên cũng cần cân
nhắc yếu tố này. Và xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý đặc thù của người chưa thành niên nên phải
thống nhất rằng nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên sẽ được xem xét nhẹ hơn so với
người đã thành niên. Việc xử lý các em phạm tội chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ các em
sửa chữa sai lầm là chính, ưu tiên áp dụng các biện pháp không tước tự do đối với các em. Đây là
những chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực thi những

chính sách này ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực chưa hiệu quả, như việc áp dụng các biện pháp tư pháp
đối với người chưa thành niên phạm tội, do đó, việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện về mặt lý
luận các biện pháp tư pháp là cần thiết.
Trong luận văn đã phân tích những vấn đề cơ bản nhất về mặt lý luận của biện pháp tư pháp
áp dụng đối với người chưa thành niên: khái niệm biện pháp tư pháp, đặc điểm, phân biệt biện
pháp tư pháp so với hình phạt. Đồng thời, luận văn cũng đưa ra một số vấn đề còn tồn tại trong
thực tiễn của việc áp dụng biện pháp tư pháp này như hiệu quả áp dụng khơng cao, tỷ lệ áp
dụng cịn thấp. Qua đó, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị:
- Về nguyên tắc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên: Kiến nghị sửa
khoản 4 Điều 69 Bộ luật Hình sự theo hướng quy định cụ thể việc tăng cường khả năng áp
dụng biện pháp tư pháp trên thực tiễn. Cụ thể "Khi xét xử, Tòa án ưu tiên áp dụng các biện pháp
tư pháp quy định tại Điều 70 của Bộ luật này trước khi xem xét việc áp dụng hình phạt. Biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ưu tiên áp dụng".
- Về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Kiến nghị mở rộng phạm vi áp dụng biện
pháp này đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi có kèm một số điều kiện.
- Kiến nghị bổ sung thêm biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự như
biện pháp lao động phục vụ cộng đồng.
Ngồi ra, cịn một số kiến nghị liên quan đến việc áp dụng biện pháp tư pháp khác.

14


References
1.

Ban Chỉ đạo thi hành Bộ luật Hình sự (2000), Tài liệu tập huấn chuyên sâu về Bộ luật
Hình sự năm 1999, Nhà in Bộ Công an, Hà Nội

2.


Vũ Ngọc Bình (2000), Các văn bản quốc tế về bảo vệ trẻ em, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội

3.

Nguyễn Mai Bộ (2001), "Một số ý kiến về chính sách hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 1999", Nhà nước và pháp luật, (4)

4.

Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học
Luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

5.

Lê Cảm - Đỗ Thị Phương (2004), "Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội, những khía cạnh pháp lý hình sự", Tịa án nhân dân, (20).

6.

Lê Cảm - Đỗ Thị Phương (2004), "Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội, những khía cạnh tội phạm học", Tịa án nhân dân (22).

7.

Chính phủ (1967), Quyết định số 217-TTg/NC ngày 18/12 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tổ chức lại các trường giáo dục thiếu niên hư, Hà Nội.

8.


Chính phủ (2000), Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10 quy định việc thi hành biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội, Hà Nội.

9.

Chính phủ (2001), Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8 hướng dẫn biện pháp tư
pháp đưa vào trường giáo dưỡng, Hà Nội.

10. Trần Văn Dũng (2005), "Những điểm cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên phạm tội trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam", Tòa án nhân dân, (22).
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Hà Nội
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

15


14. Phạm Hồng Hải (2000), "Các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và vấn
đề hồn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp đó",
Luật học, (5).
15. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2006), Từ điển Pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
16. Vũ Việt Hùng (2007), "Về áp dụng các biện pháp tư pháp phục hồi đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật", Kiểm sát, (15).
17. Phạm Mạnh Hùng (2007), "Bàn về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội trong pháp luật hình sự Việt Nam", Kiểm sát, (6).
18. Liên hợp quốc (1985), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về tư pháp người chưa thành niên.

19. Liên hợp quốc (1989), Công ước của về quyền trẻ em.
20. Liên hợp quốc (1990), Hướng dẫn về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên.
21. Liên hợp quốc (1991), Quy tắc về việc bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự
do.
22. Đoàn Tấn Minh (2009), "Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định về người chưa thành niên
phạm tội trong Bộ luật Hình sự", Kiểm sát, (10)
23. Đặng Thanh Nga (2008), "Một số đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội",
Luật học, (1).
24. Cao Thị Oanh (2007), "Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người
chưa thành niên phạm tội", Luật học, (10).
25. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 (Phần chung), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
26. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
27. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
28. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
29. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
30. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.
31. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
32. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

16


33. Hồ Sĩ Sơn, (2004), "Thi hành các biện pháp tư pháp khơng phải là hình phạt", Nhà nước
và pháp luật, (4).
34. Tạp chí Dân chủ và pháp luật (1998), "Luật hình sự của một số nước trên thế giới", (Số
chun đề).
35. Trịnh Đình Thể (2006), Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
36. Ngô Ngọc Thủy (1995), "Một số vấn đề về người chưa thành niên phạm tội", Luật học,

(2).
37. Trần Quang Tiệp (2004), "Vai trị của gia đình trong việc thi hành các hình phạt khơng
tước tự do và các biện pháp tư pháp", Nhà nước và Pháp luật, (2).
38. Vũ Văn Tiếu (2009), "Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền bạc trực tiếp
liên quan đến tội phạm", Tòa án nhân dân, (13).
39. Tòa án nhân dân tối cao (1969), Chỉ thị số 46-TH ngày 14/01 về việc tăng cường và phát
huy hơn nữa tác dụng của cơng tác Tịa án trong cơng tác bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ tài
sản của Nhà nước và quản lý thị trường ở thành phố Hà Nội, Hà Nội.
40. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 1, Hà Nội.
41. Tòa án nhân dân tối cao (1979), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 2, Hà Nội
42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2002) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
43. Trịnh Tiến Việt (2010), "Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội", Tòa án nhân dân, (13).
44. Trương Quang Vinh (2010), "Thực trạng quy định của pháp luật về các biện pháp tư
pháp: thực tiễn áp dụng và một số đề xuất", Nhà nước và pháp luật, (2).
45. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp (2005), Quyền trẻ em trong pháp luật
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
46. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp (2006), Bảo vệ quyền của người chưa
thành niên và trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.

17


47. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp (2008), Tiếp tục hoàn thiện những quy
định đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự, Kỷ yếu hội thảo.
48. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính - Bộ Tư pháp (2008), Luật Tư pháp thanh thiếu niên
của Kosovo, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
49. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính - Bộ Tư pháp (2008), Luật Tư pháp người chưa

thành niên năm 2005 của Nhà nước độc lập Papua New Guinea, (Tài liệu dịch tham
khảo), Hà Nội.
50. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính - Bộ Tư pháp (2008), Luật Tư pháp và phúc lợi
người chưa thành niên năm 2006 của nước Cộng hòa Philipin, (Tài liệu dịch tham khảo),
Hà Nội.
51. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp (2009), Thuật ngữ tư pháp người chưa
thành niên, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
52. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp (2010), Dự thảo báo cáo đánh giá các
quy định của Bộ luật Hình sự liên quan đến người chưa thành niên, Hà Nội.
53. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp (2010), Báo cáo kết quả khảo sát đánh
giá các quy định của Bộ luật Hình sự liên quan đến người chưa thành niên, Hà Nội.

18



×