ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN HỒNG THUỶ
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN HỒNG THUỶ
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TSKH LÊ VĂN CẢM
Hà Nội - 2010
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT
TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM 10
1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 10
1.2. Bản chất và phân loại tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 13
1.2.1. Bản chất pháp lý của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 13
1.2.2.Phân loại tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 22
1.3. Ý nghĩa các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 24
1.3.1. Ý nghĩa về mặt pháp lý 24
1.3.2. Ý nghĩa về mặt chính trị 26
1.4. Phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 27
1.4.1. Phân loại căn cứ tính chất của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự 27
1.4.2. Phân loại căn cứ vào ý nghĩa pháp lý của các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự 29
CHƯƠNG 2: CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 34
2.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự
Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 34
2.1.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trước khi pháp điển
hoá 34
2.1.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
1985 37
2.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự
1999 41
2.2.1. Tình tiết tăng nặng định khung 41
2.2.2. Tình tiết tăng nặng định tội 47
2.2.3. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung 49
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ - NHỮNG HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP 68
3.1. Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự . 68
3.2. Những hạn chế khi áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự 97
3.2.1. Những hạn chế khi áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 97
3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trên 99
3.3. Các giải pháp khắc phục những hạn chế khi áp dụng các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự ………………………………………… 101
3.3.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật……………101
3.3.2. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tình tiết tăng nặng
103
3.3.3. Nâng cao trình độ nhận thức và áp dụng pháp luật của người
tiến hành tố
tụng………………………………………………………105
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………… 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
- BLHS: Bộ luật Hình sự
- TNHS: Trách nhiệm hình sự
- TTHS: Tố tụng hình sự
- TTTN: Tình tiết tăng nặng
- XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã
tồn tại từ khá lâu trong lịch sử từ sau khi giành được độc lập đất nước 1945,
vấn đề các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng đã được
nhắc đến và nằm rải rác ở các văn bản pháp lý mang tính đơn lẻ, không hệ
thống như: Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/3/1946 của Chính phủ quy định lại về
mặt tội danh và hình phạt; Sắc lệnh số 25/SL ngày 25/02/1946 quy định việc
trừng trị đối với các hành vi phá hủy công sản; Sắc lệnh số 27/SL được ban
hành ngày 28/02/1946 nhằm trừng trị các hành vi bắt cóc, tống tiền và ám sát.
Sắc lệnh số 71/SL ban hành ngày 02/02/1946 ấn định quy tắc quân đội quốc
gia. Sắc lệnh đại xá ngày 20/10/1945, văn bản này đã đại xá cho tuyệt đại đa
số án được tuyên trong thời Pháp thuộc; Sắc lệnh số 113/SL ngày 20/01/1953
trừng trị các loại Việt gian, phản động và xét xử những âm mưu và hành động
phản quốc (Điều 1 Sắc lệnh); Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946; Pháp lệnh
trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970; Thông tư số 03-
BTP/TT tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định
về các tội phạm và hình phạt; Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm
hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 10/7/1982; v.v
Đến Bộ luật hình sự năm 1985, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự mới được ghi nhận chính thức như là những chế định độc lập trong pháp
luật hình sự. Đến khi pháp điển hóa pháp luật hình sự Việt Nam lần thứ hai
với việc thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, các quy định về các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng đã được sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn
2
thiện. Tuy nhiên, lần pháp điển hóa thứ hai này vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu về mặt lập pháp đối với chế định này, cũng như thực tiễn áp dụng nó.
Chẳng hạn, cả hai Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999 vẫn chưa đưa ra
được định nghĩa pháp lý của khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự, định nghĩa về khái niệm tình tiết định tội, tình tiết định khung. Mặt
khác, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy những quy phạm của
chế định này còn nhiều bất cập, một số quy định chưa chặt chẽ và thống nhất
về nội dung, đặc biệt trong thực tiễn đời sống xã hội & thực tiễn pháp lý đang
tồn tại nhiều trường hợp có thể áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự nhưng lại chưa được nhà làm luật Việt Nam ghi nhận và quy định
trong Bộ luật hình sự.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt
khoa học những vấn đề về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và áp
dụng các quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong thực
tiễn, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện để góp phần nâng cao hiệu
quả của các quy định đã nêu trong bối cảnh chúng ta đang tiến hành các bước
để tiến hành pháp điển hóa pháp luật hình sự lần thứ 3 (sửa đổi, bổ sung Bộ
luật hình sự 1999) không những có ý nghĩa lý luận-thực tiễn và pháp lý quan
trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng
cho việc tác giả quyết định lựa chọn đề tài “các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam- Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một trong những chế định quan trọng, chế định các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự có liên quan mật thiết và chặt chẽ đến chế định hình
phạt và nhiều chế định khác trong Luật hình sự, chính vì vậy nó được ghi nhận
3
trong pháp luật hình sự ở nhiều nước trên thế giới như: Liên bang Nga, Cộng
hòa Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển; v.v
Còn ở nước ta, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy
định trực tiếp tại các điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được đề cập, phân tích
trong một số Giáo trình và sách tham khảo như: 1) Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Phần chung). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; 2) Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ
biên. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 và 2003 (tái bản lần thứ nhất); 3)
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Tập thể tác giả do GS. TS. Nguyễn Ngọc
Hòa chủ biên. NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2003; 4) Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do PGS. TS. Võ Khánh Vinh chủ
biên. Đại học Huế. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000; 5) . Các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự-Đinh văn Quế- Sách tham khảo (2000), NXB
Chính trị quốc gia. 6) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 - Phần chung
(NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000) của ThS. Đinh Văn Quế
Hoặc được đề cập trong một số bài viết khác trên các Tạp chí chuyên
ngành như: 1) “ Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong BLHS 1999 và một số kiến nghị” – Trịnh Tiến Việt- Tạp chí Tòa án
nhân dân số 13, tháng 7/2004; 2) “ Một vài ý kiến về chế định tái phạm, tái
phạm nguy hiểm theo quy định của BLHS 1999”-Phạm Hồng Hải- Tạp chí
Tòa án nhân dân số 4/2001; 3) “ Những bất cập trong một số điều khoản của
BLHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung” – Nguyên Hồng- tạp chí Nghiên cứu lập
pháp- số 91, tháng 01/2007; 4) “ Bàn về các tình tiết tăng nặng trong việc cá
thể hóa TNHS và hình phạt”- Trịnh Tiến Việt- Tạp chí Kiểm Sát số 04/2003;
7) “ Cần thống nhất nhận thức khi áp dụng một số tình tiết định tội và định
4
khung tăng nặng của tội cố ý gây thương tích”- Phan Hồng Thủy- Tạp chí
Kiểm Sát số 12/2004…
Đặc biệt đáng lưu ý trong lĩnh vực này có một công trình nghiên cứu đó
là: Luận văn Thạc sỹ Luật học của Bùi Văn Lam về “ Các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự việt nam”, bảo vệ Năm 2002 tại trường
Đại học Luật Hà Nội. Tác giả Bùi Văn Lam nghiên cứu các tình tiết tăng nặng
TNHS, trong đó đề cập đến một số tình tiết như: phạm tội trong thời gian thử
thách của án treo, phạm tội trong tình trạng say rượu, phạm tội nhiều lần… tuy
nhiên kết quả nghiên cứu đã lâu (cách đây 08 năm), các vấn đề được tác giả đề
cập đã được pháp điển hóa hoặc không còn mang tính thời sự.
Còn tác giả của luận văn này sẽ đi sâu phân tích về việc áp dụng các tình
tiết tăng nặng TNHS theo khoản 1 điều 48 BLHS như: Xâm phạm tài sản của
Nhà nước; Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; Phạm tội vì động cơ đê hèn; Lợi
dụng chức vụ để phạm tội; cũng như tác giả sẽ tập trung phân tích nghiên cứu
những giải pháp khắc phục những bất cập tại khoản khoản 2 điều 48 BLHS về
những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không coi là
tình tiết tăng nặng; Giải quyết bài toán về việc xác định “ Tái phạm, tái phạm
nguy hiểm” đối với loại tội có quy định tình tiết định tội “ Đã bị kết án về loại tội
này, chưa được xóa án tích”…
Thời điểm tập trung nghiên cứu là thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự trong giai đoạn hiện nay (2001-2009).
3. Phạm vi nghiên cứu
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những chế định phức tạp,
có nhiều nội dung liên quan đến các chế định khác nhau trong Bộ luật hình sự
như: hình phạt, trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự; tái phạm, tái
phạm nguy hiểm, án treo v.v Bởi vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ
5
xem xét và giải quyết một số vấn đề xung quanh các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự, mà cụ thể là:
1) Khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự;
2) Phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các chế định
khác có liên quan như đối với các tình tiết định tội, định khung.
3) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt
Nam;
4) Phân tích nội dung và điều kiện áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, kết hợp với
thực tiễn áp dụng.
Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu nội dung cơ bản của các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự trên phương diện (khía cạnh) lập pháp và việc
áp dụng chế định này trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy
phạm của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung
vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
1) Phân tích và xây dựng định nghĩa khoa học của khái niệm các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết định tội, tình tiết định khung;
nghiên cứu và phân tích các đặc điểm cơ bản của các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự và so sánh nó với các tình tiết định tội, định khung.
2) Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy định về các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.
6
3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự theo các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành và
thực tiễn áp dụng các quy định này. Từ đây phân tích một số tồn tại xung
quanh việc quy định và áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
4) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, những
phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn
thiện các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm
1999, đồng thời đưa ra mô hình lý luận với sự bổ sung một số các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự cần phải được nhà làm luật nước ta ghi nhận
trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà nước
và pháp luật, về tội phạm học, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguyên
tắc xử lý tội phạm. Phép duy vật biện chứng là phương pháp luận để nhận thức
bản chất của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Cặp phạm trù hình thức
và nội dung, cái riêng và cái chung là cơ sở để lý giải một số vấn đề lý luận
của đề tài như phân biệt hình phạt và trách nhiệm hình sự, phân biệt các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các tình tiết định tội, định khung hình
phạt Q uan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là cơ sở phương
pháp luận để nhận thức các ảnh hưởng của điều kiện lịch sử đến các quy định
của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhờ đó,
người nghiên cứu làm rõ những nét đặc thù và giá trị kế thừa trong các quy
định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Qua đó hình dung sự biến đổi
biện chứng của chế định này trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, cũng
7
như trang bị cách tiếp cận biện chứng trong thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch
sử và phương pháp tổng hợp, cũng như những thành tựu của khoa học Luật
hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật; v.v trong các
công trình của các nhà khoa học-luật gia ở trong và ngoài nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo
của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số vụ án
hình sự trong thực tiễn xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và
đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học Luật hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự, nội dung và điều kiện áp dụng các các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự trên cơ sở xem xét những quy định của pháp
luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy
phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực
tiễn.
Đặc biệt, để góp phần nhân đạo hóa hơn nữa kết hợp với trừng trị
nghiêm khắc trong chính sách hình sự của Nhà nước ta và để phù hợp với các
yêu cầu của thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự các nước, tác giả luận văn
kiến nghị bổ sung những trường hợp có thể áp dụng các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự chưa được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật
hình sự. Ngoài ra luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho
các cán bộ đang làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành tố tụng,
8
các cán bộ nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
Chương 2: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Những phương hướng cơ bản và một số giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự.
9
CHƢƠNG 1 :
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.
I. KHÁI NIỆM CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
Theo Điều 45 BLHS về căn cứ quyết định hình phạt, khi quyết định
hình phạt, ngoài căn cứ vào các quy định của BLHS, việc cân nhắc tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, toà án còn
phải cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vậy
chúng ta cần làm rõ khái niệm tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS là gì.
Theo Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
1999 thì khái niệm tội phạm được định nghĩa như sau: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một các cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ choc, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.”
10
Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được phân biệt
với hành vi không phải là tội phạm qua 4 dấu hiệu, đó là: Tính nguy hiểm cho
xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt.
Nghiên cứu về mặt cấu trúc, tội phạm có đặc điểm chung là đều hợp
thành bởi những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau, những yếu tố
đó là: Khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm.
- Khách thể: là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại.
- Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể có năng lực TNHS và đạt
độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội.
- Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm, bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả , mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như các điều kiện bên
ngoài khác (công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh
phạm tội…).
- Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của
tội phạm, bao gồm: Lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.
Như vậy, về mặt cấu trúc, tất cả các tội phạm đều phải thoả mãn đầy đủ
4 yếu tố cấu thành tội phạm kể trên. Bất cứ một hành vi phạm tội nào, dù đặc
biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng dù có
chế tài thế nào cũng đều là thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ
quan, giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều
là hoạt động của con người cụ thể xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ
xã hội nhất định.
Lựa chọn hình phạt thích hợp cho các trường hợp phạm tội cụ thể là quá
trình hoạt động phức tạp. Trong thực tế, tội phạm thể hiện hết sức đa dạng và
phong phú. Xem xét và đánh giá một tội phạm ở khía cạnh lượng hình đòi hỏi
11
phải xem xét một cách toàn diện trong sự cân nhắc các tình tiết khác cũng có ý
nghĩa ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Điều 45 BLHS 1999 quy định “Khi quyết định hình phạt, Toà án căn
cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Như vậy các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng khi quyết định hình phạt.
Qua nghiên cứu cho thấy, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
bao gồm những tình tiết làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
hoặc tình tiết làm tăng tình nguy hiểm của nhân thân người phạm tội, do đó,
người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn. Những tình tiết đó
mang tính chất khách quan, được các nhà làm luật nhận thức và quy định
trong BLHS để đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật hình
sự. Trách nhiệm hình sự, hình phạt chỉ đạt được mục đích trừng trị, giáo dục,
cải tạo người phạm tội khi chúng được toà án tuyên tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và người phạm tội.
Tình tiết tăng nặng TNHS là tình tiết làm cho trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội trong từng trường hợp phạm tội cụ thể cao hơn, thể hiện ở
ba mức độ khác nhau: Tội danh nặng hơn; Khung hình phạt cao hơn; Mức
hình phạt nặng hơn.
Tội danh nặng hơn được hiểu là tội danh dạng đặc biệt của tội danh cơ
bản chung, tức là cấu thành tội phạm của tội danh nặng hơn là một dạng đặc
biệt của cấu thành tội phạm cơ bản mà không có tình tiết này thì hành vi đã
cấu thành tội phạm cơ bản. Do đó một tội phạm thoả mãn cấu thành tội phạm
nặng hơn thì coi như mặc nhiên nó đủ yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản (nhẹ
hơn). Hay nói cách khác, cấu thành tội phạm thuộc tội danh nặng hơn chính là
tội phạm tăng nặng định tội. Ví dụ như: Tội Cưỡng dâm quy định tại điều 113
12
BLHS và tội Cưỡng dâm trẻ em quy định tại điều 114 BLHS, đều có dấu hiệu
chung là hành vi ép buộc bằng những thủ đoạn khác nhau để người phụ nữ lệ
thuộc mình hoặc người phụ nữ đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn
cưỡng giao cấu. Nhưng nếu nạn nhân là người phụ nữ ở đây ở độ tuổi từ 13
đến dưới 16 tuổi thì người phạm tội phải bị truy cứu TNHS theo Điều 114
BLHS tội cưỡng dâm trẻ em với khung hình phạt cao hơn nhiều. Còn nếu
trường hợp nạn nhân dưới 13 tuổi thì có dùng thủ đoạn ép buộc hay được sự
đồng ý của nạn nhân thì kẻ phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội Hiếp dâm trẻ em với khung hình phạt tăng nặng đặc biệt.
Việc quy định thành các tội như vậy là vì nhà làm luật cho rằng giữa
các trường hợp đó có sự khác nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm. Như vậy, để hành vi cấu thành tội danh riêng nặng hơn, hành vi đó phải
bao gồm các yếu tố cấu thành tội phạm chung, tức là nếu không có tình tiết
tăng nặng định tội hành vi cũng đã cấu thành một tội phạm và người phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự. Tình tiết tăng nặng chỉ làm cho TNHS nặng
hơn theo một tội có chế tài nặng hơn mà thôi [10, tr.5].
Mức hình phạt cao hơn ở đây là mức hình phạt cao hơn của một loại
hình phạt hoặc loại hình phạt nặng hơn trong một khung hình phạt của một tội
phạm cụ thể.
Khung hình phạt cao hơn ở đây là khung hình phạt cao hơn trong cùng
tội quy định ở một điều luật. Tuỳ từng trường hợp nhà làm luật quy định
khung hình phạt cao hơn trước hoặc sau. Nhưng chỉ những tội quy định cấu
thành tội phạm cơ bản có khung hình phạt thấp nhất thì mới có khung hình
phạt nặng hơn, mỗi tội có thể có một hoặc nhiều khung hình phạt tăng nặng.
Để đảm bảo yêu cầu phân hoá trách nhiệm hình sự tương ứng với các
mức tăng nặng trách nhiệm hình sự dựa trên mức độ làm tăng tính nguy hiểm
cho xã hội của từng tình tiết đối với từng tội phạm nhiều hay ít. Vì thế, để
13
tương ứng với ba mức độ tăng nặng TNHS trên, bộ luật hình quy định ba loại
tình tiết tăng nặng TNHS đó là:
- Tình tiết tăng nặng định tội.
- Tình tiết tăng nặng định khung.
- Tình tiết tăng nặng chung.
Từ những phân tích trên chúng tôi nhất trí với tác giả Bùi Văn Lam đã
đưa ra khái niệm về tình tiết tăng nặng TNHS, tuy nhiên có bổ sung thêm một
số cụm từ in đậm để đảm bảo tính chính xác như sau: “Tình tiết tăng nặng
TNHS là những tình tiết thuộc yếu tố chủ quan hoặc khách quan của tội
phạm, hay tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội, mà khi có những tình tiết
đó, tính nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội hoặc tội phạm tăng lên và
do đó TNHS phải tăng lên, thể hiện ở việc tội phạm bị xử lý theo tội danh
nặng hơn, khung hình phạt nặng hơn, hoặc mức hình phạt cao hơn.”
II. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ.
1. Bản chất pháp lý của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các tình tiết tăng nặng TNHS được quy định trong BLHS đều có ý
nghĩa làm tăng trách nhiệm hình sự, mà chủ yếu làm tăng hình phạt đối với
người phạm tội. Nhưng cơ sở nào để các nhà làm luật quy định đó là những
tình tiết tăng nặng TNHS. Để trả lời được câu hỏi đó chúng ta cần làm rõ bản
chất pháp lý của các tình tiết tăng nặng TNHS.
Như đã trình bày ở trên, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách vô ý
hoặc cố ý xâm phạm đến các khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Mỗi một tội
phạm dù nặng hay nhẹ, xâm phạm đến bất cứ một khách thể nào đều được cấu
thành bởi các mặt: khách quan, khách thể, chủ quan và chủ thể, trừ một số
trường hợp đặc biệt, nhân thân người phạm tội cũng đóng vai trò là tình tiết
14
định tội. Mỗi một hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội thoả mãn đầy
đủ các yếu tố đó thì đồng nghĩa với việc nó đã mang tính nguy hiểm cho xã
hội là tội phạm. Sự khác nhau của các yếu tố trong cấu thành tội phạm sẽ tạo
nên sự khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Tuy nhiên,
chỉ sự khác nhau về các yếu tố cấu thành tội phạm của một loại tội phạm thì
mới làm cho tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó tăng lên
hay giảm xuống trong một mối quan hệ nhất định. Còn các trường hợp khác
nhau thì đều có thể dẫn đến các cấu thành tội phạm khác nhau.
a. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tính nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm.
Qua sự phân tích trên cho thấy, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
và tình tiết tăng nặng TNHS có mối quan hệ tương tác với nhau. Các tình tiết
tăng nặng TNHS luôn luôn thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
cao hơn. Và do tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cao hơn nên người
phạm tội phải chịu TNHS nặng hơn.
Tính nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan, là dấu hiệu cơ bản,
quan trọng của tội phạm, quyết định những dấu hiệu khác. Một hành vi nào đó
phải có tính nguy hiểm cho xã hội thì pháp luật mới quy định là tội phạm và ai
vi phạm thì phải chịu hình phạt. Hay nói cách khác, tính trái pháp luật hình sự,
tính chịu hình phạt là hệ quả của tính nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, một hành
vi nào đó có tính nguy hiểm cho xã hội phải bảo đảm thoả mãn đầy đủ các yếu
tố cấu thành tội phạm. Trước hết, đó là yếu tố khách quan bao gồm hành vi
xâm phạm đến các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ, hậu quả gây ra
cho quan hệ xã hội đó (thực chất là làm biến đổi đối tượng tác động là khách
thể của quan hệ xã hội) và các tình tiết liên quan khác. Sau đó là lỗi, động cơ
mục đích của chủ thể của tội phạm (thuộc yếu tố chủ quan của tội phạm).
Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm xã hội của chủ thể tội phạm,
15
cũng có tác động làm thay đổi tính nguy hiểm cho xã hội, nhưng nó không
phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm nên cần tách riêng khi nghiên
cứu (trừ một số dạng cấu thành đặc biệt của tội phạm).
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và yếu tố khách quan của
tội phạm.
Nếu tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất của
tội phạm, thì yếu tố khách quan là biểu hiện trước tiên, thể hiện bản chất của
tính nguy hiểm cho xã hội. Bởi vì, yếu tố khách quan của tội phạm bao gồm
hành vi, hậu quả thể hiện đầy đủ việc gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho
các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Tất nhiên thiệt hại do tội phạm
gây ra hoặc đe doạ gây ra đó phải đến mức đáng kể (do luật quy định trên cơ
sở thực tế khách quan). Do đó, trong BLHS, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS thuộc yếu tố khách quan của tội phạm chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là
tình tiết tăng nặng TNHS định khung hình phạt. Thực tiến xét xử cho thấy, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS thuộc yếu tố khách quan của tội phạm
cũng được áp dụng rất phổ biến.
Khi nói một hành vi nào đó có tính nguy hiểm cho xã hội, là tội phạm
thì tức là nó đã xâm phạm (gây thiệt hại, đe doạ gây thiệt hại) đến quan hệ xã
hội được Luật hình sự bảo vệ, đó chính là khách thể của tội phạm. Tội phạm
không phải xâm phạm đến khách thể một cách chung chung mà nó làm biến
đổi tình trạng bình thường của các bộ phận của quan hệ xã hội. Các bộ phận
đó chính là đối tượng tác động của tội phạm. Các đối tượng đó có thể là con
người, vật chất, tài sản hoặc hoạt động bình thường của chủ thể như cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội, trật tự xã hội. Khi tội phạm gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại đến các quan hệ xã hội khác nhau thì tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội cũng khác nhau do tầm quan trọng của quan hệ xã hội đó. Sự
khác nhau của các quan hệ xã hội đó là do sự khác nhau về các bộ phận của
16
quan hệ xã hội đó, gồm: chủ thể, nội dung và đối tượng. Ví dụ: quan hệ về
tính mạng con người thì quan trọng hơn quan hệ sở hữu, quan hệ về sức khoẻ
con người thì quan trọng hơn về danh dự, nhân phẩm. Do đó, trách nhiệm hình
sự đối với tội phạm xâm phạm hại từng loại quan hệ xã hội đó cũng khác
nhau. Tuy nhiên, sự khác nhau đó không phải là sự tăng lên hay giảm xuống
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Đối tượng tác động khách thể của tội phạm có thể làm tăng tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm. Do đó việc dùng các yếu tố khách thể là đối
tượng tác động của tội phạm để quy định thành các tình tiết tăng nặng TNHS
là điều hết sức cần thiết và đúng đắn.
Những tình tiết tăng nặng phổ biến thuộc đối tượng tác động là khách
thể của tội phạm bao gồm: phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già
yếu, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người lệ thuộc về mặt vật
chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác, người chưa thành niên, thầy
thuốc, nhân viên y tế (chữa bệnh cho người phạm tội), người thi hành công vụ,
thầy cô giáo, ông, bà, cha, mẹ, người có cùng dòng máu (tình tiết này cũng thể
hiện nội dung của chủ thể đặc biệt).
Như vậy, hành vi khách quan quyết định tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm. Do đó, "hành vi khách quan được phản ánh trong tất cả các cấu
thành tội phạm, không có hành vi khách quan thì cũng không có tội phạm"
[22, tr.59].
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các yếu tố chủ quan của
tội phạm.
Có rất nhiều những sự kiện gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội, đó là
những hiện tượng thiên nhiên như động đất, lũ lụt, hoặc rủi ro như hoả hoạn,
hoặc do hành vi của con người. Song, chỉ có những hành vi nào đó có lỗi của
con người thì mới đặt ra vấn đề trách nhiệm, tức là đó phải là hành vi do chủ
17
thể có tự do lựa chọn. Đó là những người có đủ điều kiện lựa chọn, quyết định
một xử sự khác phù hợp đòi hỏi của xã hội, nhưng họ đã lựa chọn một xử sự
gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội. Con người tự do luôn luôn có đủ điều
kiện để lựa chọn hành vi cho mình mà không phụ thuộc hoàn toàn vào yếu tố
bên ngoài. Bởi vì "tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên
phải thông qua đầu óc họ" [20, tr.78].
Trong pháp luật hình sự, một hành vi gây thiệt hại cho quan hệ xã hội
được Luật hình sự bảo vệ phải có lỗi thì mới được coi là tính nguy hiểm cho
xã hội và bị coi là tội phạm. Như vậy, có thể nói tội phạm là sự thống nhất
giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan. Hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ
xã hội là sự phủ định khách quan, còn ý thức phạm tội, lựa chọn hành vi gây
thiệt hại cho xã hội là sự phủ định chủ quan. Tất nhiên người phạm tội có thể
lựa chọn hành vi trực tiếp nhằm mục đích gây thiệt hại cho xã hội như giết
người hoặc hành vi không nhằm gây thiệt hại cho xã hội nhưng do tác động
của các điều kiện khách quan khác nên đã trở thành tội phạm. Ví dụ: trường
hợp một người chăng dây điện ở nơi ít người qua lại để bẫy chuột, mặc dù đã
áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng không may vẫn có người đi vào đó
và bị điện giật chết. Phủ định chủ quan là nguyên nhân còn phủ định khách
quan là kết quả. Tất nhiên chỉ nói đến phủ định chủ quan khi có phủ định
khách quan (gây thiệt hại trên thực tế). Những trường hợp một người gây thiệt
hại do bị cưỡng bức thân thể thì không có lỗi và không bị coi là tội phạm
(khác với cưỡng bức về tinh thần).
Do đó, lỗi được coi là yếu tố không thể thiếu trong cấu thành tội phạm,
thể hiện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Hay nói cách
khác, tính chất. Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phụ thuộc một phần
vào lỗi. Tất nhiên lỗi ở đây của các chủ thể khác nhau, trong từng trường hợp
khác nhau, điều kiện phạm tội khác nhau, với ý thức chủ quan khác nhau nên
18
sự ảnh hưởng của nó đối với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng
khác nhau. Để nhận thức rõ được mức độ ảnh hưởng khác nhau của lỗi đến
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm (làm tăng lên hoặc giảm xuống) làm
cơ sở cho việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (trường
hợp lỗi biểu hiện như thế nào thì cần tăng nặng trách nhiệm hình sự hơn mức
bình thường) chúng ta cần căn cứ vào bản chất, hình thức, các loại và mức độ
lỗi, các yếu tố khác cũng thuộc mặt chủ quan của tội phạm như động cơ, mục
đích phạm tội. Các loại lỗi trong từng hình thức lỗi cũng chỉ mới phản ánh
được ý thức chủ quan của tội phạm. Còn từng trường hợp phạm tội cụ thể,
mức độ lỗi lại khác nhau. Cùng một mục đích phạm tội nhưng mức độ quyết
tâm phạm tội có thể khác nhau.
Mỗi hành vi của con người đều gắn với những động cơ, mục đích nhất
định. Vì vậy, hành vi phạm tội bao giờ cũng do những động cơ và nhằm
những mục đích khác nhau. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể
thực hiện hành vi phạm tội. Còn mục đích chính là cái mà chủ thể đặt ra khi
thực hiện hành vi phạm tội. Bởi vậy, một hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ
xã hội dù với động cơ, mục đích nào cũng đều phạm tội (với điều kiện thoả
mãn các dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm). Do đó, chỉ trừ một số tội
phạm (như các tội xâm phạm an ninh quốc gia), mục đích là dấu hiệu bắt buộc
của cấu thành tội phạm, còn phần lớn các tội phạm khác mục đích không
thuộc cấu thành tội phạm cơ bản.
Mỗi một hành vi của con người nói chung và hành vi phạm tội nói riêng
đều có những động cơ và mục đích nhất định. Tuy nhiên, chỉ có đối với những
trường hợp lỗi cố ý thì mới có động cơ, mục đích phạm tội. Vì chỉ những
trường hợp này, người phạm tội mới mong muốn thực hiện tội phạm. Do đó,
các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc mục đích hay động cơ phạm tội chỉ được
áp dụng đối với các tội có lỗi cố ý.
19
Khi nói đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thì không thể
không nói đến chủ thể của tội phạm. Bởi vì, hành vi nguy hiểm cho xã hội
cũng là hành vi của chủ thể, lỗi cũng là của chủ thể. Do đó, chủ thể là một
trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Theo Luật hình sự Việt Nam, chủ thể
gồm hai dấu hiệu: độ tuổi và năng lực TNHS. Luật không quy định thế nào là
người có năng lực TNHS, nhưng lại quy định trường hợp không có năng lực
TNHS. Đó là người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Điều
46 BLHS cũng quy định các trường hợp được giảm nhẹ TNHS do đặc điểm
riêng của chủ thể. Đó là: phạm tội do lạc hậu, người phạm tội là phụ nữ có
thai, là người già, là người có bệnh hạn chế năng lực nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi. Những quy định này là nhằm đảm bảo nguyên tắc công
bằng, nguyên tắc tự do và trách nhiệm, chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Một người chỉ phải chịu TNHS khi nhận thức được đầy đủ hành vi của mình
và đủ khả năng điều khiển hành vi. Những người do độ tuổi hoặc bệnh tật mà
hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi thì TNHS đối với họ
cần được hạn chế và giảm nhẹ. Tuy nhiên, đối với trường hợp đủ năng lực
TNHS thì luật không quy định các mức độ khác nhau. Tức là, luật không quy
định người có nhận thức cao thì phải chịu TNHS cao hơn người có nhận thức
thấp. Hay nói cách khác, không có tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố chủ
thể của tội phạm, trừ những trường hợp thuộc chủ thể đặc biệt. Thực tế, người
có nhận thức cao, thực hiện một tội phạm tương tự bao giờ tính nguy hiểm cho
xã hội cũng cao hơn trường hợp người có nhận thức thấp. Do đó, TNHS đối
với người có nhận thức cao phải cao hơn, bởi vì giữa những trường hợp đó, có
sự khác nhau về mức độ, khả năng nhận thức hậu quả của tội phạm.
20
b. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân ngƣời
phạm tội.
Nhân thân người phạm tội là “tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của
người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn về TNHS của họ”
[11, tr.97].
Các đặc điểm nhân thân người phạm tội hầu hết không thuộc cấu thành
tội phạm. Tức là có các đặc điểm đó chỉ đóng vai trò làm tính nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm tăng lên hoặc giảm xuống. Tùy theo từng trường hợp cụ
thể, có tội đó là tính tiết định khung, có tội đó là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
chung. Chỉ có một số ít trường hợp, dấu hiệu nhân thân đóng vai trò là tình tiết
định tội, ở một số tội như trộm cắp tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ở
các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng như: tội gây rối trật tự
công cộng, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Đó là những dấu hiệu đã bị xử phạt
hành chính về hành vi cùng loại hoặc đã bị kết án, chưa được xóa án về tội
phạm cùng loại.
Nhân thân người phạm tội không ảnh hưởng trực tiếp đến tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm được thực hiện. Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của thân nhân người phạm tội bộc lộ qua tội phạm được thực hiện.
Do đó, nó cũng làm tăng hoặc giảm tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Tức là mức độ thiệt hại, hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội của
tội phạm phụ thuộc một phần vào các đặc điểm thân nhân người phạm tội.
Việc nghiên cứu thân nhân người phạm tội có ý nghĩa lớn về nhiều mặt.
Trước hết, về mặt chính trị, qua việc nghiên cứu về việc thân nhân người
phạm tội giúp cho Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối, chính sách
đúng đắn trong đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng thời kỳ.
Về mặt lý luận, thông qua việc nghiên cứu thân nhân người phạm tội
các nhà làm luật nắm vững bản chất, vai trò của các đặc điểm thân nhân người