Lời mở đầu
Là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất
trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự với nhiều nét đặc thù. Việc xây
dựng hệ thống pháp luật có liên quan cũng như áp dụng biện pháp tạm giam trên
thực tế đang ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, các quy định về các biện
pháp tạm giam vẫn còn nhiều điều hạn chế, bất cập dẫn đến nhiều vấn đề vướng
mắc trong áp dụng. Chính vì vậy, trong phạm vi bài luận này, em quyết định lựa
chọn đề tài “Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam- Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” để qua đó mong muốn có thể mang lại những nhận thức
cơ bản về biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự cũng như có thể tìm ra
những khiếm khuyết, những bất cập trong quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn áp dụng biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự, đồng thời đưa ra một số
phương hướng để nâng cao hiệu quả của biện pháp này.
I. Những vấn đề cơ bản về biện pháp ngăn chặn tạm giam
1. Khái niệm về tạm giam
Tạm giam là biện pháp tạm thời tước tự do do Cơ quan điều tra, VKS,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp do luật định. Thời hạn
tạm giam phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng cũng như tính chất phức tạp của vụ án
mà bị can, bị cáo phải thực hiện
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất trong số các BPNC. Nếu như các
biện pháp ngăn chặn khác như cầm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân
như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp.
Còn các biện pháp bắt người, tạm giữ cũng là BPNC nghiêm khắc, nó cũng hạn
chế quyền tự do của công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong bắt và
tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi bị bắt, Cơ
quan điều tra phải lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả lại tự do cho người
bị bắt. Thời gian tạm giữ là 3 ngày đêm và tối đa là 09 ngày đếm đối với trường
hợp có gia hạn tạm giữ. Trong khi đó thời hạn tạm giam để điều tra có thể lên đến
12 tháng hoặc 16 tháng.
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất nhưng tạm giam không phải là hình
phạt tù bởi vì mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh
1
pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi
hành án được tiến hành đúng đắn, còn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc của Nhà nước do Tòa án áp dụng nhằm trừng phạt người phạm tội và nhằm
mục đích cải tạo họ thành người có ích cho xã hội
Tạm giam là biện pháp có tính chất lựa chọn “có thể áp dung” tức là
không phải bắt buộc áp dụng đống loạt cho mọi bị can, bị cáo khi đã có đủ căn cứ
mà những căn cứ chỉ là điều kiện đủ để áp dụng tạm giam
Với mục đích ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm, việc quy định biện
pháp tạm giam trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng. Biện pháp tạm giam góp
phận nâng cao hiệu lục quản lý nhà nước, cũng cố, tăng cường pháp chế XHCN,
bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ XHCN, bảo vệ tại sản, tính mạng, sức
khỏa, danh dự, nhân phẩm của công dân, tạm giam đúng sẽ góp phần bảo đảm sự
dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định như
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…, tạm giam
đúng còn bảo đảm cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả,
bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự
chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Như vậy, có định nghĩa về tạm giam như sau: “Tạm giam là biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền ở Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội
nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt
tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
2. Mục đích tạm giam
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác
nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn
không để bị can, bị cáo có điều kiền tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó
khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng
biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố
tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai
đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt
2
động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần
thiết mà không phải triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lí,
giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm
bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi
3. Đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất, thể hiện ở chỗ nó có thể hạn chế
quyền tự do thân thể của người bị áp dụng biện pháp này trong một thời gian khá
dài. Chính vì vậy mà việc áp dụng biện pháp tạm giam phải tuân theo những quy
định chặt chẽ của pháp luật.
Cũng như biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, đối tượng bị áp dụng
biện pháp tạm giam cũng chỉ có thể là bị can, bị cáo. Song không phải bị can, bị
cáo nào cũng có thể bị áp dụng biện pháp này, mà những bị can, bị cáo đó phải
thỏa mãn những căn cứ luật định thì mới bị tam giam.
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: tam giam chỉ có thể áp dụng
đối với những bị can, bị cáo trong những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy
định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. (trong trường
hợp này, với tư cách là một BPNC, tạm giam được áp dụng khi chưa biết bị can,
bị cáo bị Tòa án áp dụng hình phạt gì, do đó phải dựa vào mức hình phạt mà
BLHS quy định tội ấy trên 2 năm tù).
Nếu như BLHS trước đây quy định căn cứ là trên một năm tù và tương
ứng với nó BLHS có 11 tội danh có khung hình phạt cao nhất là trên 1 năm tù thì
BLHS năm 1999 quy định có 16 tội danh có khung hình phạt cao nhất đến 2 năm
tù. Đó là các tội quy định tại cáo điều như Điều 94, 128, 129, 130, 148, 149, 152,
159… Theo các điều kiện thứ nhất thì trong cáo trường hợp trên, có quan có thẩm
quyền không được áp dụng biện pháp tạm giam. Ngoài ra, đối với các điều luật có
nhiều điều khoản thì trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ở khung hình phạt
có mức cao nhất ở khung hình phạt là 2 năm thì cũng không tạm giam họ. Đó là
các khoản 1 Điều 96, khoản 1 Điều 105, khoản 1 Điều 108, khoản 1 Điều 110…
BLHS.
3
Do những quy định trên, để cho việc áp dụng điều kiện này một các có
căn cứ, trong quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án
ra xét xử cần nêu rõ tội danh và điều khoản của BLHS mà bị can, bị cáo bị áp
dụng.
Trong căn cứ này, ngoài điều kiện mà bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm thì nó còn phải
thỏa mãn điều kiện: có căn cú cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để xác định bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội, thường phải căn cú vào việc điều tra, xét xử và sự
cần thiết của việc ngăn chặn tội phạm; nhân thân của bị can, bị cáo khi được áp
dụng BPNC ít nghiêm khắc hơn. Khi áp dụng BPNC ít nghiêm khắc hơn biện
pháp tạm giam nhưng sau đó bị can, bị cáo không thực hiện nghĩa vụ có mặt theo
giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng, trón tránh việc điều tra, xét xử hoặc
làm rõ sự thật của vụ án thì có thể xác định đó là hành động không thực hiện các
điều kiện của BPNC đã được áp dụng thì có thể bắt để tạm giam bị can, bị cáo đó.
Như vậy, chỉ khi nào có đầy đủ hai điều kiện kể trên mới được quyết định tạm
giam.
Qua nghiên cứu quy định cảu BLTTHS về tạm giam cho thấy, BPNC này
chỉ cần thiết khi các BPNC khác không đảm bảo được mục đích nghăn chặn tội
phạm.
4. Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam
Như đã phân tích ở trên, không phải bị can, bị cáo nào cũng phải áp dụng
biện pháp tạm giam. Khoản 2 Điều 88 BLTTHS đã quy định các trường hợp
không được áp dụng biện pháp tạm giam mà áp dụng các biện pháp khác, trừ
trường hợp đặc biệt:
- Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36
tháng tuổi có nơi cư trú rõ ràng.
- Bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng.
Đối với bị can, bị cáo thuộc một trong hai trường hợp nói trên cần áp
dụng BPNC khác, có thể là cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc bảo lãnh…
4
Tuy nhiên, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng,
nếu có đủ điều kiện tạm giam thì vẫn có thể ra lệnh tạm giam, các trường hợp đó
được quy định cụ thể tại các điểm a, b, c của khoản 1 Điều 88 như sau:
- Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
- Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục
phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử.
- Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho
rằng nều không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Ngoài các quy định nói trên, có thể coi các trường hợp sau đây cũng là
các trường hợp không cần thiết phải tạm giam mà có thể áp dụng BPNC khác:
- Người bị tam giam có căn cước rõ ràng, hành vi phạm tội thuộc tội ít
nghiêm trọng, việc áp dụng các BPNC khác không ảnh hưởng đến việc điều tra,
xét xử hoặc thi hành án.
- Người bị tam giam được người khác bảo lãnh và có đủ điều kiện để áp
dụng BPNC này.
Điều 303 BLTTHS còn quy định việc tạm giam người chưa thành niên,
Theo quy định của điều này thì việc tam giam người chưa thành niên phạm tội
phải có đủ ba điều kiện sau:
- Phải có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120
BLTTHS. Đây là trường hợp người chưa thành niên phạm tội bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp, bị bắt do phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, bị tam giữ, tạm
giam để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của họ, bảo đảm cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án
- Tội phạm do họ thực hiện là tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
- Họ đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 68 BLHS.
5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Tại khoản 3 Điều 88 BLTTHS quy định: “Những người có thẩm quyền ra
lệnh bắt được quy định tại Điều 80 Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh
tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 3 Điều 80 Bộ luật này
phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”.
5
Theo quy định trên, việc áp dụng biện pháp tạm giam chỉ được giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án, VKS, Cơ quan điều tra mà thôi, cụ thể:
- Viện trường, phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp;
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chành tòa phúc thẩm TANDTC
- Hội đồng xét xử.
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp
này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành
6. Thủ tục tạm giam
Theo quy định của BLTTHS thì việc tam giam bị can, bị cáo phải có lệnh
tạm giam. Lệnh tạm giam phải do những người có thẩm quyền ký.
Lệnh tam giam của cơ quan điều tra phải được Viện trưởng VKS cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành, thẩm quyền phê chuẩn này đã được quy định lại
trong khoản 3 Điều 88 BLTTHS.
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong TTHS, nó
không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do và danh dự
của công dân mà còn ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm của người bị tạm giam
và thân nhân của họ. Chính vì vậy, cơ quan đã ra lệnh tạm giam cần phải thông
báo ngay cho gia đinh người bị tam giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nới người bị tam giam cư trú hoặc làm việc biết
7. Thời hạn tạm giam
Điều 120 BLTTHS 2003 quy định thời hạn tạm giam để điều tra, thời hạn
gia hạn tạm giam để điều tra và đối với từng giai đoạn tố tụng cụ thể lại có những
thời hạn tam giam khác nhau được quy định trong Bộ luật như: tạm giam để truy
tố, tạm giam để xét xử sơ thẩm, tạm giam bị cáo trong trường cấp phúc thẩm hủy
án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại; tạm giam bị cáo trong trường hợp cấp Giấm đốc
thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại
8. Một số vấn đề khác xung quanh việc tạm giam
8.1. Về chế độ tạm giam
Tạm giam là BPNC được áp dụng để bảo đảm cho hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng và không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện tội
6