Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Căn cứ quyết định hình phạt những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 131 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






PHẠM ĐÌNH DŨNG




CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN








LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





PHẠM ĐÌNH DŨNG



CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN




CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ






HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt

1.1. Khái niệm quyết định hình phạt.
7
1.1.1. Đặc điểm của quyết định hình phạt.
8
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt.
17
1.1.3. ý nghĩa của quyết định hình phạt.
19
1.2. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt.
29

1.2.1. Đặc điểm của căn cứ quyết định hình phạt.
29
1.2.2. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt.
33
1.2.3. ý nghĩa của căn cứ quyết định hình phạt.
36
Kết luận chương 1
38
Chương 2:
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới về căn
cứ quyết định hình phạt

2.1. Pháp luật hình sự Việt Nam về căn cứ quyết định hình phạt
từ năm 1945 đến trước năm 1999.

40
2.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi BLHS năm 1985 ra đời.
40
2.1.2. Từ năm 1985 đến trước khi pháp điển hoá BLHS năm
1999.

44
2.2. Quy định của BLHS năm 1999 về căn cứ quyết định hình
phạt.

47
2.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự.
48
2.2.2. Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội.


52
2.2.3. Cân nhắc nhân thân người phạm tội.
55


2.2.4. Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS
61
2.3. Căn cứ quyết định hình phạt trong pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới.

74
Kết luận chương 2
80
Chương 3:
Thực tiễn áp dụng căn cứ quyết định hình phạt
và giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt
của Toà án

3.1. áp dụng căn cứ quyết định hình phạt trong thực tiễn quyết
định hình phạt của Toà án.

82
3.1.1. Kết quả áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong
thực tiễn quyết định hình phạt của Tòa án.

82
3.1.2. Những sai sót trong thực tiễn hoạt động quyết định hình
phạt của Toà án.


89
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt của
Tòa án.

95
3.2.1. Hoàn thiện quy định về các căn cứ quyết định hình phạt tại
Điều 45 BLHS năm 1999.

96
3.2.2. Khi quyết định hình phạt, Toà án cần tham khảo các bản
án mẫu (án lệ) đã được thừa nhận chung do TAND tối cao
tập hợp và phát hành.


101
3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình
phạt.


106
Kết luận chương 3
108
KẾT LUẬN
110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO







NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự
BLHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
BLTTHS
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
CHXHCN
Nhà xuất bản
Nxb
Toà án nhân dân
TAND
Toà án quân sự
TAQS
Trách nhiệm hình sự
TNHS
Xã hội chủ nghĩa
XHCN



1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự đặc biệt
quan trọng do Toà án cấp sơ thẩm thực hiện trên cơ sở kiểm tra, đánh giá
toàn bộ các tình tiết của vụ án theo những quy định của BLTTHS để chứng
minh tội phạm, giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với

ngƣời bị kết án. Trong giai đoạn này, quyết định hình phạt là hoạt động
không thể thiếu sau khi đã định tội danh mà kết quả là Hội đồng xét xử nhân
danh Nhà nƣớc CHXHCN Việt Nam tuyên cho ngƣời bị kết tội một hình
phạt cụ thể. Việc Toà án tuyên một hình phạt đảm bảo tính công lý có ý
nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý hết sức to lớn. Quyết định hình phạt đúng,
đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật hình sự, tƣơng xứng với
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội chính là để bảo
vệ pháp chế và chế độ XHCN, là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt đƣợc các mục
đích của hình phạt. Nhìn chung, quyết định hình phạt đúng không chỉ có tác
dụng đối với ngƣời phạm tội mà còn thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật và phát huy tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung. Vì vậy, mọi trƣờng
hợp áp dụng hình phạt nhẹ hơn hoặc nặng hơn mức cần thiết đối với hành vi
phạm tội đều không đảm bảo đƣợc mục đích trừng trị và giáo dục ngƣời
phạm tội. Đối với trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú, thực sự ăn năn,
hối cải, có khả năng cải tạo tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS phải có
sự khoan hồng. Tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị càng phải
nghiêm khắc (hình phạt càng cao). Có nhƣ vậy mới buộc ngƣời phạm tội
phải suy nghĩ về những sai lầm, những thiệt hại do mình gây ra cho xã hội,
mới thấm thía hậu quả pháp lý mà mình phải gánh chịu để cải tạo thành
ngƣời có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống XHCN, không phạm tội mới và qua đó đáp ứng đƣợc yêu cầu
phòng ngừa chung.

2
Trong hoạt động thực tiễn, để quyết định hình phạt đúng, phát huy đƣợc
hiệu quả và mục đích của hình phạt không phải là công việc đơn giản vì Hội
đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) không bao giờ quyết định
hình phạt lại dựa trên một khuôn mẫu chung, mang tính định sẵn trong mối
quan hệ với tính đa dạng của các loại hành vi phạm tội. Đặc biệt, từ khi
BLHS đầu tiên ra đời năm 1985, án lệ không còn đƣợc coi là nguồn của pháp

luật hình sự thì càng không thể có một hình phạt mẫu với những thông số
cho sẵn để hoạt động quyết định hình phạt chỉ việc lắp ráp một cách máy
móc. Hệ thống hình phạt đa dạng, với các mức độ nghiêm khắc khác nhau
đƣợc quy định trong BLHS tuy đã phát huy đƣợc tác dụng tích cực trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nhƣng việc quy định khoảng cách
giữa mức tối thiểu và tối đa của hình phạt tù có thời hạn vẫn còn rộng nên dễ
tạo ra sự tuỳ tiện trong quyết định hình phạt, không đảm bảo công bằng giữa
các trƣờng hợp phạm tội. Mặt khác, hoạt động quyết định hình phạt cũng
không cho phép Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đƣợc quyết định hình
phạt một cách chủ quan, thiếu căn cứ pháp lý hay đi tìm tội danh cho một
hình phạt đã có sẵn vì kết quả sẽ là sự xâm hại thô bạo các quyền và lợi ích
chính đáng của ngƣời phạm tội, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc pháp chế
của Luật hình sự trong một nhà nƣớc pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Vì vậy, để đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật của hoạt động
quyết định hình phạt, pháp luật hình sự nƣớc ta đã chính thức ghi nhận các
căn cứ quyết định hình phạt trong BLHS để Toà án dựa vào khi quyết định
hình phạt. Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định
hình phạt từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực đến nay đã cho thấy vẫn còn
nhiều Toà án mắc phải những sai sót nhất định khi thực hiện hoạt động quyết
định hình phạt, nhất là trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt.
Mặt khác, xuất phát từ việc nhận thức rõ hậu quả tiêu cực cho xã hội do hoạt
động quyết định hình phạt không đúng gây ra, chúng tôi cho rằng việc

3
nghiên cứu một cách căn bản, có hệ thống về “Căn cứ quyết định hình
phạt” dƣới góc độ lý luận và thực tiễn là hết sức cần thiết và có giá trị nhằm
nâng cao nhận thức và khắc phục những vƣớng mắc, thiếu sót trong thực tiễn
hoạt động quyết định hình phạt của Toà án. Ngoài ra, nghiên cứu hoàn thiện
quy định về các căn cứ quyết định hình phạt cũng là một nhiệm vụ cấp thiết

để xây dựng pháp luật hình sự công bằng, nhân đạo, dân chủ và công minh
trong nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU:
Các căn cứ quyết định hình phạt đƣợc quy định tại Điều 45 BLHS năm
1999 là cơ sở pháp lý bắt buộc Toà án phải dựa vào khi thực hiện hoạt động
quyết định hình phạt. Đây là một chế định quan trọng và không thể thiếu
nhằm đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động quyết định hình phạt của
Toà án. Chính vì vậy, các căn cứ quyết định hình phạt không chỉ đƣợc đề cập
đến trong giáo trình Luật hình sự của các trƣờng đại học nhƣ Đại học Luật
Hà Nội, khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội để đào tạo cử nhân luật
học, cán bộ tƣ pháp tƣơng lai, mà còn là mối quan tâm của các cán bộ làm
công tác xét xử, là trọng tâm nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý hình
sự nhƣ:
TSKH. PGS. Lê Cảm: Về bản chất pháp lý của quy phạm “Nguyên tắc
quyết định hình phạt” tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam - Tạp chí Tòa án
nhân dân số 1+2/1989; Nhân thân người phạm tội - Tạp chí Tòa án nhân dân
số 10/2001.
TSKH. PGS. Lê Cảm và ThS. Trịnh Tiến Việt: Nhân thân người phạm
tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2002.
ThS. Trịnh Tiến Việt: Về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị - Tạp chí
Tòa án nhân dân số 13/2004.
ThS. Phạm Thanh Bình: Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự trong luật hình sự Việt Nam - Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/1995.

4
ThS. Nguyễn Mai Bộ: Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng - Tạp chí
Tòa án nhân dân số 1/1999.
ThS. Đinh Văn Quế: Một số điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
hình phạt và quyết định hình phạt - Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2000.

Đặng Xuân Đào: “Một số nội dung mới của các quy định về các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam
năm 1999” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2000
Tuy nhiên, những công trình khoa học này chủ yếu nghiên cứu về các
căn cứ quyết định hình phạt dƣới góc độ là các căn cứ độc lập hoặc là một
phần trong chế định quyết định hình phạt của Luật hình sự nên phần nào
chƣa thể hiện đƣợc tính hệ thống, tính toàn diện về lý luận và thực tiễn. Đặc
biệt, các công trình khoa học này cũng chƣa đƣa ra đƣợc các giải pháp hoàn
thiện quy định về căn cứ quyết định hình phạt. Điều đó cho thấy yêu cầu
nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự có liên quan đến căn cứ quyết định hình phạt và hoàn thiện quy
định về căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999 là hoàn
toàn có giá trị khoa học và rất thiết thực. Làm đƣợc điều này sẽ góp phần
nâng cao chất lƣợng hoạt động quyết định hình phạt, qua đó đáp ứng mục
tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xét xử các vụ án hình sự mà
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc
Cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã đề ra.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu về các căn cứ quyết định hình phạt,
chúng tôi nhận thấy cần có sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về các căn
cứ quyết định hình phạt đƣợc quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999. Dựa
trên kết quả nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực tiễn vận dụng các căn cứ
quyết định hình phạt trong hoạt động xét xử của Toà án các cấp, luận văn
không những nhằm tiếp tục phát triển đề tài “Các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự: Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn” mà tác giả đã hoàn

5
thành năm 1995 ở bậc cử nhân luật học mà còn đƣa ra những ý kiến đề xuất
hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến các căn cứ quyết
định hình phạt và hoàn thiện quy định về căn cứ quyết định hình phạt tại

Điều 45 BLHS năm 1999. Cũng qua đó góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu
quả hoạt động quyết định hình phạt của Toà án để đạt đƣợc mục đích cuối
cùng của hình phạt là giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội trở thành công dân có
ích cho xã hội.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Để đạt đƣợc mục đích đã đề ra, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu
là những quy định của pháp luật hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt
tại Điều 45 BLHS năm 1999. Trong đó, tập trung nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt của Toà án trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ khi BLHS năm 1999 có
hiệu lực (ngày 01/7/2000) đến nay. Qua đó chỉ ra những hạn chế, nguyên
nhân và đề xuất ý kiến hoàn thiện các căn cứ quyết định hình phạt nhằm tạo
cơ sở vững chắc cho hoạt động quyết định hình phạt của Toà án đảm bảo
tính đúng đắn, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tƣ pháp
ở Việt Nam hiện nay.
5. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI:
+ Cơ sở lý luận: Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ
nghĩa Mác - LêNin, đƣờng lối (các Nghị quyết) của Đảng Cộng sản Việt
Nam; Chính sách hình sự, chính sách nhân đạo, các nguyên tắc của luật hình
sự Việt Nam; các quy định của BLHS năm 1999 về quyết định hình phạt và
căn cứ quyết định hình phạt và các văn bản hƣớng dẫn thi hành BLHS năm
1999.
+ Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn áp dụng căn cứ quyết định hình phạt trong
hoạt động quyết định hình phạt của Toà án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm từ
khi BLHS năm 1999 có hiệu lực (01/7/2000) đến nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

6
Để trình bầy bản luận văn của mình, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng
pháp nghiên cứu chủ yếu là: phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp phân tích,

phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp thống kê và phỏng vấn trực tiếp cán bộ
làm công tác xét xử ở cơ quan Toà án.
7. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN:
Các căn cứ quyết định hình phạt là những vấn đề đƣợc khá nhiều tác
giả nghiên cứu dƣới những góc độ khác nhau. Thực tế đó đã tạo ra những
thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu đề tài nhƣng cũng chính là khó khăn
lớn đối với tác giả vì sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp về những kiến thức
pháp luật hình sự cơ bản đã đƣợc thừa nhận rộng rãi trong khoa học pháp lý.
Mặc dù vậy, dựa trên những nghiên cứu lý luận về quyết định hình phạt, tìm
hiểu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, pháp luật hình sự một số
nƣớc trên thế giới về căn cứ quyết định hình phạt và kết quả đánh giá thực
tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của Toà án, có thể thấy những điểm mới của luận văn là:
+ Góp phần đảm bảo sự nhận thức thống nhất về nội dung, ý nghĩa của
các căn cứ quyết định hình phạt.
+ Chỉ ra những sai sót trong thực tiễn vận dụng và nguyên nhân của
việc áp dụng chƣa đúng các căn cứ quyết định hình phạt.
+ Điểm mới quan trọng nhất của luận văn là đƣa ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong thực tiễn, bao gồm: Giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các căn cứ quyết
định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999, cơ sở pháp lý của hoạt động
quyết định hình phạt; Kiến nghị áp dụng căn cứ thực tiễn (án lệ) của hoạt
động quyết định hình phạt; Nâng cao ý thức pháp luật của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài lời mở đầu, phụ lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng với nội dung nhƣ sau:

7
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt.

Chƣơng 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và một số nƣớc trên
thế giới về căn cứ quyết định hình phạt.
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng căn cứ quyết định hình phạt và giải pháp nâng
cao hiệu quả quyết định hình phạt của Toà án.

8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT.
1.1. Khái niệm quyết định hình phạt.
Định tội danh và quyết định hình phạt là hai nhiệm vụ cơ bản của giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó, hoạt động định tội danh là tiền
đề cho hoạt động quyết định hình phạt. Định tội danh là hoạt động đánh giá
chính thức về mặt pháp lý hình sự của của Hội đồng xét xử đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm nhằm đạt đƣợc sự thật khách quan là
hành vi đó đã thoả mãn các yếu tố cấu thành tội phạm của điều luật cụ thể
đƣợc quy định trong phần các tội phạm của BLHS. Đây chính là cơ sở để xác
định chính xác TNHS mà ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
đó phải gánh chịu. Vì vậy, định tội danh và quyết định hình phạt đúng không
chỉ đạt đƣợc mục đích quan trọng là giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội mà cao
cả hơn chính là sự khẳng định mục tiêu của pháp luật hình sự Việt Nam là:
Xét xử đúng ngƣời, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngƣời
vô tội. Nhƣng, nói nhƣ vậy không có nghĩa là cứ định tội danh đúng thì
quyết định hình phạt cũng tất yếu sẽ đúng. Giữa định tội danh và quyết định
hình phạt luôn tồn tại mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhƣng mỗi yếu tố lại có
tính độc lập tƣơng đối của nó. Quyết định hình phạt đƣợc xem là sự xác định
hậu quả pháp lý của tội phạm, tuy phụ thuộc vào hoạt động định tội danh
nhƣng quyết định hình phạt với tính độc lập tƣơng đối của mình có khi lại
không phản ánh đúng yếu tố mà mình phụ thuộc. Điều đó thể hiện ở việc
quyết định hình phạt đã không lựa chọn đúng loại và mức hình phạt phù hợp

với tội danh mà hoạt động định tội danh đã khẳng định. Vì vậy, có thể nói
quyết định hình phạt là hoạt động giữ vị trí, vai trò không kém phần quan
trọng so với định tội danh nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách khách
quan, nghiêm minh, công bằng và đúng pháp luật.

9
1.1.1. Đặc điểm của quyết định hình phạt.
Quyết định hình phạt là một hoạt động thực tiễn có tính đặc thù của
Toà án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Dựa vào các quy định của
pháp luật hình sự, hoạt động quyết định hình phạt nhằm giải quyết vấn đề
TNHS của ngƣời phạm tội trong các trƣờng hợp phạm tội cụ thể. Trên cơ sở
đó, hình phạt đƣợc quyết định một cách công bằng, bình đẳng, đảm bảo sự
kết hợp giữa trừng trị với giáo dục ngƣời phạm tội và phòng ngừa chung.
Qua đó, có thể thấy quyết định hình phạt có những đặc điểm sau:
a, Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật
hình sự của Hội đồng xét xử.
Đối tƣợng điều chỉnh của ngành Luật hình sự là những quan hệ xã hội
tiêu cực phát sinh giữa một bên là ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị coi là tội phạm với bên kia là Nhà nƣớc có nghĩa vụ bảo vệ các quan
hệ xã hội, trong đó có quan hệ pháp luật hình sự. Trong quan hệ pháp luật
hình sự đó, nghĩa vụ và TNHS của ngƣời phạm tội không mặc nhiên phát
sinh nếu không có hoạt động xét xử của cơ quan Toà án đƣợc tiến hành trên
cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt những quy trình, thủ tục tố tụng do BLTTHS quy
định để chứng minh ngƣời đó phạm tội và áp dụng các biện pháp chế tài của
luật hình sự đối với họ. Do đó, quyết định hình phạt luôn luôn là hoạt động
nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
tiến hành trên cơ sở căn cứ vào các quy định của BLHS về quyết định hình
phạt đối với từng trƣờng hợp phạm tội cụ thể.
Các quy định của BLHS là những quy phạm pháp luật hình sự có tính
khái quát cao và không phải để áp dụng riêng cho một tội phạm cụ thể nào

nên quyết định hình phạt không thể mang tính tự động, dập khuôn mà ngƣợc
lại luôn đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải có tính sáng tạo. Tức
là, sau khi đã thực hiện việc định tội danh, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
phải cân nhắc, đánh giá, lựa chọn các quy phạm của BLHS (cả phần chung
và phần các tội phạm) trên cơ sở nhận thức đúng nội dung, yêu cầu, phù hợp

10
với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng
giáo dục, cải tạo của ngƣời phạm tội để quyết định một hình phạt tƣơng
xứng. Chỉ khi lựa chọn chính xác các quy phạm của BLHS mới có thể quyết
định hình phạt đúng. Do đó, quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và
vận dụng các quy phạm pháp luật hình sự một cách sáng tạo của Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân để hình phạt đƣợc tuyên không những đảm bảo tính
pháp lý, chính trị - xã hội mà còn là phƣơng án tối ƣu để đạt đƣợc các mục
đích của hình phạt. Điều này hoàn toàn đúng nhƣ Mác đã viết: “Nếu như luật
pháp tự nó vận dụng được thì Toà án sẽ là thừa” 18, tr.90.
b, Đối tượng của Quyết định hình phạt là cá nhân người phạm tội.
Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay chỉ thừa nhận chủ thể của tội
phạm là con ngƣời cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là
tội phạm và có lỗi trong điều kiện hoàn toàn có đủ năng lực TNHS và đạt độ
tuổi luật định tại thời điểm thực hiện tội phạm. Trƣờng hợp, ngƣời bị coi là
phạm tội (bị cáo) đƣợc đƣa ra xét xử nhƣng qua quá trình xét xử lại không có
tội và đƣợc ghi nhận bằng bản án tuyên vô tội của Toà án thì đƣơng nhiên
việc quyết định hình phạt sẽ không diễn ra. Điều này đã cho thấy, quyết định
hình phạt chỉ diễn ra khi ngƣời phạm tội qua quá trình xét xử bị khẳng định
là có tội bằng bản án kết kết tội của Toà án có thẩm quyền và phải chịu hình
phạt theo quy định của BLHS. Do đó, đối tƣợng của quyết định hình phạt chỉ
là ngƣời phạm tội bị kết án và chính ngƣời này sẽ phải chấp hành hình phạt
mà Toà án đã tuyên chứ không ai có thể chấp hành thay, cho dù là tự
nguyện. Có nhƣ vậy, hình phạt mới phát huy đƣợc tác dụng trừng trị và giáo

dục, cải tạo ngƣời phạm tội. Đối với pháp nhân phạm tội, việc quyết định
hình phạt cũng đƣợc thực hiện đối với từng cá nhân ngƣời phạm tội trên cơ
sở hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, lỗi và TNHS của họ thì hình
phạt mới đạt đƣợc mục đích trừng trị và giáo dục ngƣời phạm tội.
c, Phạm vi của quyết định hình phạt bao gồm các nội dung:
Về lý luận cũng nhƣ thực tiễn, quyết định hình phạt chỉ diễn ra sau khi

11
Toà án đã tiến hành hoạt động định tội danh và chỉ trong trƣờng hợp ngƣời
phạm tội bị khẳng định là có tội. Đây chính là kết quả của hoạt động chứng
minh tội phạm do Toà án thực hiện dựa trên các tài liệu, chứng cứ do cơ
quan Điều tra, Viện kiểm sát thu thập và qua hoạt động xét hỏi, tranh tụng tại
phiên toà mà Toà án có đƣợc theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy
định. Theo đó, khi bị cáo bị kết tội thì quyết định hình phạt sẽ đƣợc thực hiện
bao gồm các nội dung đƣợc sắp xếp theo thứ tự trƣớc, sau trong các trƣờng
hợp cụ thể là:
Trường hợp người phạm tội bị kết án bằng bản án kết tội của Toà án
và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình bằng hình phạt cụ thể.
Trong trƣờng hợp này, nội dung đầu tiên của quyết định hình phạt
đƣợc thực hiện là hoạt động xác định khung hình phạt. Trong thực tiễn, hoạt
động xét xử vụ án hình sự của Toà án cấp sơ thẩm thƣờng đƣợc trải qua 3
giai đoạn là: Định tội - Định khung hình phạt - Quyết định hình phạt.
Hoạt động định tội nhằm xác định bị cáo có phạm tội hay không? nếu
phạm tội thì phạm tội gì? và thuộc điều luật cụ thể nào trong phần các tội
phạm của BLHS.
Hoạt động định khung hình phạt nhằm xác định tội phạm mà bị cáo
thực hiện thuộc khung nào của điều luật quy định về tội phạm đó.
Hoạt động quyết định hình phạt nhằm xác định loại hình phạt và mức
hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt của điều luật quy định về tội
phạm đó.

Từ 3 giai đoạn này, xuất hiện vấn đề cần giải quyết là: Giai đoạn định
khung thuộc về giai đoạn định tội? hay giai đoạn định khung thuộc về giai
đoạn quyết định hình phạt?
Xuất phát từ lập luận là khi thực hiện việc định tội danh, Hội đồng xét
xử phải chỉ ra tội phạm mà ngƣời phạm tội thực hiện đƣợc quy định tại điều
luật cụ thể nào trong phần các tội phạm của BLHS. Tiếp theo là phải xác
định hành vi phạm tội thuộc khung nào của điều luật đó vì đa phần các điều

12
luật quy định về tội phạm cụ thể của BLHS năm 1999 đều có ít nhất từ 2
khung hình phạt đến 6 khung hình phạt (257 điều trên tổng số 267 điều). Do
đó, để xác định đƣợc khung hình phạt phải dựa vào cấu thành định khung
tăng nặng và cấu thành định khung giảm nhẹ.
Với quy trình nhƣ trên, nếu lấy giai đoạn định khung hình phạt để so
sánh thì định khung hình phạt sai sẽ dẫn đến quyết định hình phạt sai vì chỉ
khi xác định khung hình phạt chính xác thì mới có cơ sở để lựa chọn đúng
loại và mức hình phạt cụ thể. Nhƣng cũng là định khung hình phạt sai thì
việc định tội danh vẫn đúng vì việc định tội danh không phụ thuộc vào việc
xác định khung hình phạt mà dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản (cấu thành
định tội). Vì vậy, chúng tôi cho rằng định khung hình phạt là bƣớc đầu của
quyết định hình phạt, là cơ sở để quyết định hình phạt đúng nên định khung
hình phạt thuộc về quyết định hình phạt. Tuy nhiên, đối với điều luật chỉ quy
định một khung hình phạt thì giai đoạn định tội và định khung hình phạt lại
là một. Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 có 10 điều luật chỉ
gồm 1 khung hình phạt là: Điều 94, Điều 128, Điều 130, Điều 146, Điều
148, Điều 150, Điều 151, Điều 152, Điều 269, Điều 304, Điều 341, Điều
342, Điều 343. Đối với điều luật có từ 2 khung hình phạt trở lên thì định tội
và định khung hình phạt vẫn có thể là một nếu tình tiết định tội và định
khung hình phạt của hành vi phạm tội đều thuộc về cấu thành tội phạm cơ
bản (cấu thành định tội).

Để quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải tiến hành quyết định đối
với hình phạt chính trƣớc và sau đó mới quyết định hình phạt bổ sung vì hình
phạt bổ sung là loại hình phạt không thể tuyên độc lập.
Quyết định hình phạt chính là việc lựa chọn loại và mức hình phạt
thuộc hệ thống hình phạt chính mà điều luật về tội phạm đã quy định, phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để áp
dụng đối với ngƣời bị kết án. Nếu khung hình phạt quy định nhiều loại hình
phạt chính thì việc quyết định hình phạt chỉ đƣợc lựa chọn 1 trong số các loại

13
hình phạt chính đó với mức hình phạt tƣơng xứng. Ví dụ: Theo khoản 1 Điều
145 BLHS năm 1999, ngƣời phạm tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản chỉ bị áp dụng 1 trong 3 loại hình phạt chính đƣợc điều luật quy định là
cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến
2 năm. Qua ví dụ này đã cho thấy, việc lựa chọn hình phạt chính chỉ diễn ra
trong số các loại hình phạt chính mà điều luật về tội phạm có quy định và
việc xác định mức hình phạt cụ thể chỉ diễn ra trong giới hạn tối thiểu và tối
đa của khung hình phạt đó, trừ trƣờng hợp theo quy định tại Điều 47 BLHS
năm 1999. Tuy nhiên, việc xác định mức hình phạt chỉ xảy ra khi các loại
hình phạt chính đƣợc tuyên là phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời
hạn. Còn với các loại hình phạt chính khác nhƣ: cảnh cáo, trục xuất, tù chung
thân, tử hình, việc quyết định hình phạt thực chất chỉ là sự lựa chọn loại hình
phạt chính mà không có việc xác định mức hình phạt cụ thể.
Quyết định hình phạt bổ sung là việc lựa chọn loại và mức hình phạt
mà điều luật về tội phạm có quy định, nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính để áp
dụng đối với ngƣời bị kết án. Khác với quyết định hình phạt chính, khi quyết
định hình phạt bổ sung, Hội đồng xét xử có thể lựa chọn một hoặc một số
hình phạt bổ sung với mức hình phạt tƣơng xứng trong phạm vi điều luật về
tội phạm quy định để áp dụng đối với ngƣời bị kết án. Riêng với hình phạt
bổ sung là trục xuất thì sẽ không có việc xác định mức hình phạt. Tuy nhiên,

việc quyết định hình phạt bổ sung lại không mang tính bắt buộc mà thuộc
quyền tuỳ nghi của Hội đồng xét xử. Trong từng trƣờng hợp phạm tội cụ thể,
Tòa án có thể cân nhắc việc áp dụng hay không áp dụng hình phạt bổ sung
trong phạm vi điều luật cho phép. Cơ sở pháp lý của quyền tuỳ nghi này là
khoản 3 Điều 28 BLHS năm 1999: “Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội
chỉ bị áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể bị áp dụng một hoặc một số
hình phạt bổ sung”. Quy định này đƣợc cụ thể hoá trong các điều luật về tội
phạm cụ thể cho phép Hội đồng xét xử có thể áp dụng hoặc không áp dụng
hình phạt bổ sung với ngƣời phạm tội.

14
Nhƣ vậy, bất kỳ ngƣời phạm tội nào bị kết án và phải chịu TNHS cũng
đều phải gánh chịu một hình phạt chính đƣợc ghi rõ trong bản án do Toà án
tuyên nhƣng không phải ngƣời phạm tội bị kết án nào cũng bị áp dụng hình
phạt bổ sung. Điều đó cho thấy trong quyết định hình phạt, quyết định hình
phạt chính giữ vị trí quyết định và không thể không đƣợc thực hiện trong
trƣờng hợp ngƣời phạm tội bị kết án và phải chịu TNHS.
Trường hợp người phạm tội bị kết tội nhưng được Toà án miễn
TNHS đối với tội phạm mà người phạm tội thực hiện.
Điều 2 BLHS năm 1999 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã
được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy định này đã
khẳng định bất kỳ ai nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, thoả mãn
các yếu tố cấu thành của một tội phạm cụ thể tƣơng ứng đƣợc quy định trong
phần Các tội phạm của BLHS thì sẽ phải chịu TNHS về việc thực hiện tội
phạm đó. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của BLHS hiện hành cho thấy
có những trƣờng hợp phạm tội (Điều 19, Điều 25, khoản 2 Điều 69, Điều 80,
khoản 6 Điều 289, khoản 6 Điều 290, khoản 3 Điều 314), ngƣời phạm tội lại
đƣơng nhiên đƣợc miễn TNHS hoặc đƣợc cơ quan tiến hành tố tụng ở mỗi
giai đoạn tố tụng quyết định miễn TNHS nếu xét thấy việc miễn TNHS vẫn
đảm bảo đƣợc yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo

đó, ngƣời phạm tội có thể sẽ không phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi
của việc thực hiện tội phạm nhƣ không bị truy cứu TNHS, không bị đƣa ra
xét xử, không bị áp dụng hình phạt của luật hình sự và đƣơng nhiên không
có án tích 33, tr.39.
Có thể nói, miễn TNHS là một trong những chính sách khoan hồng, thể
hiện bản chất nhân đạo của luật hình sự Việt Nam. Miễn TNHS đƣợc áp
dụng đối với ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm khi có căn cứ và thoả mãn các điều kiện do luật hình sự quy định.
Song, do TNHS phát sinh từ khi có hành vi phạm tội xảy ra trong thực tế và
chỉ kết thúc khi ngƣời bị kết án đƣợc xoá án (không còn án tích) nên việc

15
giải quyết TNHS đối với ngƣời phạm tội sẽ thuộc thẩm quyền của bất kỳ cơ
quan tƣ pháp nào (cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án), tuỳ thuộc vào
từng giai đoạn tố tụng hình sự tƣơng ứng. Điều này cũng có nghĩa là mỗi cơ
quan tƣ pháp trên đây đều có quyền miễn TNHS cho ngƣời đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm khi có những căn cứ và điều
kiện nhất định. Vấn đề là việc miễn TNHS do Toà án thực hiện có gì khác so
với việc miễn TNHS do cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát thực hiện?
Thứ nhất, nếu cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát miễn TNHS cho ngƣời
phạm tội thì ngƣời này sẽ không bị truy cứu TNHS, không bị Toà án đƣa ra
xét xử và đƣơng nhiên không bị kết tội. Ngƣợc lại, nếu bị đƣa ra xét xử tại
Toà án có thẩm quyền thì ngƣời phạm tội phải bị truy cứu TNHS và có thể bị
kết tội, bị buộc phải chấp hành hình phạt do Toà án tuyên.
Thứ hai, tuy TNHS phát sinh từ khi hành vi phạm tội đƣợc thực hiện,
nhƣng TNHS này chỉ chính thức đƣợc bắt đầu thực hiện sau khi bản án kết
tội của Toà án đƣợc tuyên có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, nếu trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự mà ngƣời phạm tội đƣợc miễn TNHS thì họ vẫn bị kết
tội nhƣng vì có đủ các điều kiện do luật hình sự quy định nên ngƣời này
đƣợc miễn TNHS, tức là không phải chịu các biện pháp cƣỡng chế của luật

hình sự (hình phạt hay các biện pháp tƣ pháp).
Tất cả những vấn đề nêu trên đây, chỉ để đƣa đến vấn đề cuối cùng là
miễn TNHS thuộc về định tội danh hay miễn TNHS thuộc về quyết định
hình phạt? Trƣờng hợp ngƣời phạm tội bị đƣa ra xét xử và bị khẳng định là
có tội nhƣng đƣợc miễn TNHS thì có nghĩa là ngƣời phạm tội không bị buộc
phải chịu TNHS về tội phạm mà ngƣời này đã thực hiện. Nhƣ vậy, so sánh
về trình tự trƣớc, sau thì việc định tội phải đƣợc tiến hành trƣớc vì chỉ trên
trên cơ sở tội danh mới xác định ngƣời phạm tội đƣợc miễn hay không đƣợc
miễn TNHS về tội phạm mà họ thực hiện. Nếu ngƣời phạm tội không đƣợc
miễn TNHS thì việc quyết định hình phạt sẽ đƣợc tiến hành thông qua các
nội dung là xác định khung hình phạt, lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể

16
trong phạm vi khung hình phạt và ngƣời bị kết án bắt buộc phải chấp hành
hình phạt do Toà án tuyên. Ngƣợc lại nếu ngƣời phạm tội đƣợc miễn TNHS
thì đƣơng nhiên không phải chịu hình phạt của luật hình sự với tính chất là
hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và theo đó, việc quyết định hình
phạt sẽ không đặt ra. Quy trình này đã cho thấy việc miễn hay không miễn
TNHS chỉ là tiền đề cho việc quyết định hình phạt có đƣợc thực hiện hay
không cần thực hiện. Vì vậy, miễn TNHS không phải là nội dung thuộc về
phạm vi của quyết định hình phạt.
Trường hợp người phạm tội bị kết án bằng bản án kết tội của Toà án
và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình nhưng được miễn hình
phạt.
Căn cứ vào quy định tại Điều 54 BLHS năm 1999 thì miễn hình phạt
thực chất là việc Toà án có thẩm quyền đã không tuyên bất kỳ hình phạt nào
thuộc hệ thống hình phạt đối với ngƣời phạm tội bị kết án mà đáng lẽ ra phải
tuyên nếu ngƣời này không thoả mãn đƣợc những căn cứ và điều kiện do
BLHS quy định.
Cũng giống nhƣ miễn TNHS, miễn hình phạt là một trong những chính

sách khoan hồng, thể hiện bản chất nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.
Ngƣời đƣợc miễn hình phạt, tuy đã bị khẳng định là có tội nhƣng không phải
gánh chịu biện pháp cƣỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc là
hình phạt và đƣơng nhiên đƣợc xoá án tích.
Khác với ngƣời đƣợc miễn TNHS, ngƣời phạm tội chỉ đƣợc miễn hình
phạt nếu thuộc trƣờng hợp đáng đƣợc khoan hồng đặc biệt nhƣng chƣa đến
mức miễn TNHS. Vì vậy, ngƣời đƣợc miễn hình phạt vẫn phải chịu TNHS.
Nếu miễn TNHS có thể do các cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án thực
hiện trong các giai đoạn tố tụng hình sự tƣơng ứng thì việc miễn hình phạt
chỉ thuộc thẩm quyền của Toà án khi xét thấy không cần tuyên hình phạt đối
với ngƣời phạm tội mà vẫn đảm bảo đƣợc yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Mặc dù vậy, ngƣời đƣợc miễn hình phạt vẫn có thể bị Toà án áp

17
dụng các biện pháp tƣ pháp do BLHS quy định. Đó là những biện pháp ít
nghiêm khắc hơn hình phạt, đƣợc áp dụng thay thế cho hình phạt nhằm hạn
chế một số quyền, lợi ích của ngƣời phạm tội.
Nhƣ vậy, việc miễn hình phạt hay áp dụng biện pháp tƣ pháp chỉ thuộc
thẩm quyền của Toà án và đƣợc thực hiện theo những thủ tục do pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự quy định. Vậy, trong hoạt động xét xử vụ án hình
sự của Toà án, miễn hình phạt thuộc về định tội danh hay thuộc về quyết
định hình phạt? Theo quan điểm của chúng tôi, miễn hình phạt đƣợc thực
hiện sau khi Toà án đã thực hiện việc định tội danh và xác định TNHS của
ngƣời phạm tội nên miễn hình phạt thuộc về quyết định hình phạt. Đây là
trƣờng hợp ngƣời phạm tội không đƣợc miễn TNHS và đáng nhẽ ra họ phải
gánh chịu hình phạt (hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung với mức
độ cụ thể trong khung hình phạt) tƣơng ứng với tội phạm đã đƣợc thực hiện,
nhƣng do thoả mãn các điều kiện luật định (Điều 54, khoản 3 Điều 314) nên
đƣợc miễn hình phạt. Điều này có nghĩa là khi quyết định hình phạt, nếu bị
cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại điều 46 BLHS 1999, nhân

thân của bị cáo tốt và không cần cách ly khỏi đời sống xã hội vẫn có khả
năng giáo dục, cải tạo hoặc thuộc đối tƣợng của chính sách khoan hồng,
chính sách ƣu đãi xã hội của Đảng và Nhà nƣớc thì sẽ đƣợc miễn hình phạt.
Nhƣ vậy, khi ngƣời phạm tội không đƣợc miễn TNHS thì quyết định
hình phạt vẫn đƣợc đặt ra. Hội đồng xét xử trong quá trình quyết định hình
phạt ngoài việc đánh giá thống nhất toàn bộ các tình tiết của vụ án còn phải
cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và các đặc điểm thuộc về nhân thân ngƣời
phạm tội đáng đƣợc khoan hồng để quyết định miễn hình phạt cho ngƣời
phạm tội. Đây chính là một nội dung trong quyết định hình phạt, đồng thời
cũng thể hiện sự phân định giữa việc áp dụng Điều 47 hay Điều 54 BLHS
năm 1999. Chính vì vậy, miễn hình phạt là một nội dung và thuộc về quyết
định hình phạt.
Ngoài miễn hình phạt ra, trong BLHS năm 1999 còn quy định các

18
trƣờng hợp đƣợc miễn chấp hành hình phạt (Điều 57), giảm mức hình phạt
đã tuyên (Điều 58), giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trƣờng hợp đặc
biệt (Điều 59), hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 61), tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù (Điều 62). Tất cả những trƣờng hợp này tuy đều do Toà án
quyết định nhƣng không phải là nội dung của quyết định hình phạt mà thuộc
về giai đoạn thi hành các hình phạt cụ thể (sản phẩm của việc quyết định
hình phạt) do Toà án tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Riêng
án treo (Điều 60), tuy đƣợc thực hiện trong quá trình quyết định hình phạt
nhƣng do không phải là hình phạt mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện nên cũng không thể là nội dung của quyết định hình phạt.
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt.
Với vị trí là một chế định quan trọng của Luật hình sự, là một hoạt
động cơ bản của Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
quyết định hình phạt đƣợc xác định là một khái niệm pháp lý cụ thể. Tuy
nhiên, điểm đáng nói là cả BLHS năm 1999 và BLTTHS năm 2003 cũng

nhƣ các văn bản hƣớng dẫn thi hành hai bộ luật trên đều không đề cập đến
khái niệm quyết định hình phạt. Khái niệm này chỉ tồn tại trong lý luận và
đƣợc đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học. Thực tế này
đã phần nào làm cho khái niệm quyết định hình phạt chƣa đạt đƣợc sự thống
nhất cao trong khoa học pháp lý hình sự. Nhƣng, có thể khẳng định rằng, về
cơ bản các cách hiểu đều thể hiện sự đồng nhất về nội dung (bản chất) của
khái niệm quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn loại và mức hình
phạt áp dụng đối với ngƣời phạm tội. Sự đồng nhất này có thể thấy rõ trong
giáo trình Luật hình sự của các trƣờng Đại học và trong một số tài liệu khác.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của khoa Luật thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội thì: “Quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn loại hình phạt
cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội” 21,
tr.317.

19
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trƣờng Đại học Luật Hà Nội thì:
“Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình
phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ
thể” 30, tr.201.
Hoặc tác giả Đinh Văn Quế có định nghĩa: “Quyết định hình phạt là
việc Toà án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Toà án
lựa chọn loại hình phạt nào, mức phạt bao nhiêu, phải tuân theo những quy
định của Bộ luật hình sự” 27, tr.89.
Tác giả Lê Văn Đệ cũng đƣa ra khái niệm “Quyết định hình phạt là sự
lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật
định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể” 24, tr.161.
Nhìn chung, các khái niệm về quyết định hình phạt trên đây suy cho
cùng đều khẳng định quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn loại và
mức hình phạt trong phạm vi luật định để áp dụng đối với ngƣời phạm tội.

Việc lựa chọn loại hình phạt đƣợc hiểu là chỉ lựa chọn loại hình phạt chính
hoặc cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong số các hình phạt thuộc hệ
thống hình phạt mà BLHS đã quy định, với những mức độ cụ thể, phù hợp
với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhằm
đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Có thể nói đây chính là nội hàm của khái
niệm quyết định hình phạt đƣợc nhiều ngƣời ủng hộ. Ngoài ra, ngay trong
cuốn giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trƣờng Đại học Luật năm 2001,
trang 202 còn đề cập đến khái niệm quyết định hình phạt theo nghĩa rộng
hơn là quyết định biện pháp xử lý đối với ngƣời phạm tội. Theo cách hiểu
này, quyết định hình phạt không chỉ là việc lựa chọn hình phạt chính và hình
phạt bổ sung mà còn bao gồm cả việc quyết định các biện pháp tƣ pháp
nhằm hỗ trợ cho hình phạt đƣợc áp dụng đối với ngƣời bị kết án.
Đánh giá một cách khách quan, các khái niệm trên đây đều đã thể hiện
đƣợc bản chất của quyết định hình phạt. Tuy nhiên, theo quan điểm của
chúng tôi, các khái niệm này còn một số vấn đề cần làm sáng tỏ. Cụ thể là:

20
Thứ nhất, việc sử dụng cụm từ “ngƣời phạm tội” trong khái niệm quyết
định hình phạt nên đƣợc thống nhất bằng cụm từ “cá nhân ngƣời phạm tội”
thì chính xác hơn với đối tƣợng của quyết định hình phạt.
Thứ hai, vấn đề cơ bản nhất là các khái niệm quyết định hình phạt trên
đây chƣa thể hiện đƣợc đầy đủ phạm vi của quyết định hình phạt là bao gồm
những nội dung nào. Việc lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể đã bao quát
hết nội dung của khái niệm quyết định hình phạt chƣa? hay việc xác định
TNHS, xác định khung hình phạt, miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp
hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, quyết định cho hƣởng án
treo có phải là những nội dung thuộc phạm vi của quyết định hình phạt
không? Tất cả những vấn đề đó cần đƣợc làm sáng tỏ khi xây dựng khái
niệm quyết định hình phạt.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa định tội danh và quyết định hình

phạt, các đặc điểm và các nội dung thuộc phạm vi của quyết định hình phạt,
dƣới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự, khái niệm quyết định hình phạt
có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình
sự, do Toà án có thẩm quyền (Hội đồng xét xử), nhân danh Nhà nước
CHXHCN Việt Nam thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng
trường hợp để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính,
hình phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng cho chính cá nhân người
phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp
với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn
hình phạt cho người phạm tội theo quy định của BLHS.
1.1.3. Ý nghĩa của quyết định hình phạt.
Quyết định hình phạt là một hoạt động tố tụng hình sự, thể hiện ở việc
Toà án tuân thủ các quy định của BLHS và BLTTHS để tuyên một hình phạt
đảm bảo tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật đối với ngƣời phạm tội
bị kết án. Qua đó, góp phần tích cực vào việc bảo vệ các quyền con ngƣời và

×