Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự
Việt Nam
Bùi Thị Chinh Phương
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: GS.TSKH Lê Văn Cảm
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Trình bày những vấn đề chung về Quyết định hình phạt (QĐHP) trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam như: khái
niệm, các căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt, khái quát sự hình thành và
phát triển của pháp luật hình sự nước ta từ trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự
(BLHS) Việt Nam năm 1985 và BLHS Việt Nam năm 1999 về QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Nghiên cứu nội dung cơ bản của các quy
phạm, thực tiễn áp dụng của chế định QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam năm 1999 thơng qua phân tích một số
vụ án cụ thể. Nghiên cứu đánh giá, phân tích những điểm tồn tại của chế định QĐHP
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đề xuất kiến giải hoàn thiện
để nâng cao hiệu qủa áp dụng các quy phạm về chế định này trong luật hình sự Việt
Nam, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp từ nay cho đến năm 2020.
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật hình sự; Phạm tội
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm gần đây thấy rằng tình hình tội
phạm diễn biến hết sức phức tạp, tinh vi, với nhiều khâu, nhiều thủ đoạn và nhiều giai đoạn khác
nhau. Luật hình sự đi vào đời sống xã hội có vai trò ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là việc quyết định
hình phạt (QĐHP) của Tòa án đối với các trường hợp phạm tội nói chung, trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng có ý nghĩa chính trị xã hội và pháp lý. Bởi lẽ, hoạt
động thường xuyên của Tòa án là việc QĐHP, do vậy, việc đưa ra các bản án chính xác, cơng
bằng và đúng pháp luật khơng chỉ đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà cịn có tác dụng
cho người dân tin tưởng vào chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn xét xử trong các năm gần đây có nhiều bản án, QĐHP trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cịn có những điểm chưa thống nhất, gây nên nhiều bức xúc
trong dư luận xã hội và quần chúng nhân dân.
Hiện nay, các quy định của Pháp luật hình sự của Nhà nước ta đang trong giai đoạn hoàn
thiện, trong chừng mực nhất định quy định đó cịn chưa rõ ràng, việc QĐHP cho các trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cịn mang tính khái qt cao, chưa chặt chẽ. Chính
vì những hạn chế này đã ảnh hưởng khơng nhỏ, gây khó khăn trong việc QĐHP nói chung và
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt của Tịa án các cấp nói riêng.
Do đó, để tiếp tục xây dựng và hồn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho
tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp
luật đều bị xử lý, không làm oan cho người vô tội, bởi lẽ mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật. Tuy nhiên, trong diễn biến quá trình thực hiện tội phạm, việc xác định những hành
vi nào đã đến mức gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, QĐHP đối
với những người thực hiện hành vi nói trên giúp cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa
án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội, làm được điều này không phải bao giờ cũng đơn giản, dễ dàng. Mặt khác, để QĐHP
được chính xác và cơng bằng thường gặp một số khó khăn nhất định hay cịn có nhiều sai sót,
đặc biệt khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và thời điểm dừng lại của hành
vi phạm tội trong thực tế khách quan với ý nghĩ, mong muốn chủ quan của người phạm tội.
Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng phạm tội đang diễn biến hết sức phức tạp chính vì lẽ đó
mà QĐHP cho những hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành, không thể không coi trọng. Mặc dù, tội phạm trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt luôn chiếm tỷ lệ không lớn so với các tội phạm hồn thành, tính chất và
mức độ cũng khơng nguy hiểm bằng, song khơng vì thế mà pháp luật của Nhà nước ta không
quan tâm chú trọng.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện
nay, để đẩy mạnh công tác đấu tranh phịng chống tội phạm có hiệu quả cao, bên cạnh việc cụ
thể hóa các căn cứ QĐHP nói chung, việc nghiên cứu và làm rõ cơ sở pháp lý các quy định
QĐHP trong trường hợp đặc biệt phần nào giải quyết vấn đề đặt ra nêu trên. Mặt khác, hiện
nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam, chưa có đề tài nghiên cứu về QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và tồn diện,
mà chỉ nghiên cứu trong phạm vi về QĐHP nói chung.
Vì vậy, việc tiếp cận và nghiên cứu đề tài QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt, những vấn đề lý luận và việc áp dụng nó trong thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra
những kiến giải lập pháp hồn thiện phục vụ u cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm, đồng thời,
ngăn chặn, hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra, điều đó có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng. Đây là lý do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Những vấn đề lý luận
và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước và sau khi pháp điển hóa lần thứ hai Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999,
các nhà khoa học luật hình sự đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu về
QĐHP nói chung, nhưng QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo
luật hình sự Việt Nam, có rất ít cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, hoặc có chăng vấn đề
này chỉ được nghiên cứu với tính chất là một mảng nhỏ trong QĐHP nói chung, hay trong các
sách chuyên khảo, giáo trình và các bài viết.
- Sách chuyên khảo:
+ Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm trong sách Các nghiên cứu chuyên khảo về
Phần chung luật hình sự, tập IV, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội năm 2000, của tác giả
TSKH. GS. Lê Văn Cảm.
+ Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), sách chuyên khảo, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, của GS. TSKH. Lê Văn Cảm.
2
- Sách giáo trình:
Các giai đoạn phạm tội, (chương XII, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, của TS. Nguyễn Ngọc Chí, 2001 (tái bản 2003, 2007).
- Các bài viết:
+ Trần Văn Độ, Hồn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội
phạm, Tòa án nhân dân, số 02/1999.
+ GS. TS. Võ Khánh Vinh: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 1/1992.
+ Lâm Minh Hạnh, Chương III - Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Những vấn đề lý
luận cơ bản về tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 1986
+ TS. Phạm Mạnh Hùng: Hoàn thiện các quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự với
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Kiểm sát, số
10/1999.
+ TS. Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, tạp chí Khoa học
(chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002.
+ TS. Trịnh Tiến Việt: Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá
trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học (chuyên san Luật học), số 02/2009.
+ TS. Dương Tuyết Miên: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2001, và đề tài luận án Tiến sỹ "Quyết định hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam", Luận án Tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2002.
+ Tác giả Trần Văn Sơn trong: Quyết định hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 trong Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11/2000.
+ Nguyễn Thị Mai, Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tạp chí Tịa án nhân dân,
số 6/1993, v.v...
Ngồi ra, dưới góc độ luận văn thạc sĩ cũng chưa có cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp
về vấn đề này.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, các sách báo khoa học pháp lý trên đây đều đề cập đến
một số khía cạnh nhất định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt,
nhưng chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ là một trường hợp nhỏ trong QĐHP nói chung. Có thể
nói, đến nay chưa có một cơng trình, hay tài liệu nghiên cứu toàn diện về QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Với nội dung đề tài này, tác giả lựa chọn nghiên
cứu làm luận văn của mình, sẽ góp phần làm rõ hơn nữa về việc QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Trong giai đoạn hoàn thiện pháp luật và xây dựng Nhà
nước pháp quyền, xã hội chủ nghĩa, vấn đề QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt càng có vai trị quan trọng bảo vệ công bằng xã hội, đảm bảo được các nguyên tắc
pháp luật hình sự như: (1) Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; (2) Nguyên tắc công minh; (3)
Nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm; (4) Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi…
Do vậy, QĐHP đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan, sai người vô
tội, tuân thủ nguyên tắc mọi hành vi vi phạm pháp luật hình sự đều phải chịu trách nhiệm hình
sự (TNHS). Vì lẽ đó, vấn đề này cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn làm cơ
sở cho việc hoàn thiện cho các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt. Ngoài ra còn đáp ứng yêu cầu trong hoạt động cải cách tư pháp của nước ta trong
việc QĐHP có căn cứ và đúng pháp luật, để mọi hành vi vi phạm pháp luật hình đều phải chịu
TNHS, theo phán quyết của Tịa án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn góp phần hồn thiện thêm một số điểm về mặt lý luận khoa học và
thực tiễn của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo PLHS
3
Việt Nam năm 1999. Đồng thời xác định những điểm bất cập chưa hợp lý trong thực tiễn xét
xử và đề xuất một số kiến giải lập pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về QĐHP
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt dưới góc độ thực tiễn của hoạt động
xét xử và nhận thức khoa học.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ
yếu như sau:
Thứ nhất: Về mặt lý luận trên cơ sở nghiên cứu những quy định chung về QĐHP trong
luật hình sự Việt Nam, khái quát sự hình thành và phát triển của PLHS nước ta từ trước khi pháp
điển hóa pháp BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt. Phân tích nội dung cơ bản, thực tiễn áp dụng của chế định nói trên bằng việc
tham khảo một số vụ án cụ thể.
Thứ hai: Nghiên cứu đánh giá, phân tích những điểm tồn tại của chế định QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đề xuất kiến giải hoàn thiện để nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy phạm về chế định này trong luật hình sự Việt Nam, phù hợp với yêu cầu cải
cách tư pháp từ nay cho đến năm 2020.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam hiện hành, và thực tiễn
áp dụng các quy định về QĐHP của Tòa án bằng việc nghiên cứu một số vụ án cụ thể.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: luận văn tác giả dựa trên cơ phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Luận văn cũng vận dụng những luận điểm khoa học
trong các cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một
số các nhà khoa học hình sự Việt Nam trong và ngoài nước.
- Các phương pháp nghiên cứu: Lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so sánh và phương
pháp phân tích, tổng hợp…
Bên cạnh đó việc nghiên cứu đề tài luận văn tác giả còn vận dụng các bản án hình sự và
các thơng tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Việc nghiên cứu đề tài luận văn là kết quả nghiên cứu một cách đồng bộ có hệ thống và
riêng biệt tồn diện nhất về những vấn đề lý luận và thực tiễn về QĐHP trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Luận văn góp phần hồn thiện hơn các
quy định của PLHS hiện hành về chế định này, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong thực tiễn
xét xử của Tòa án về QĐHP trong các trường hợp mà tác giả lựa chọn đề tài luận văn nghiên cứu.
Về thực tiễn, luận văn tiếp cận nghiên cứu các bản án của Tòa án đã xét xử để rút ra ý
nghĩa thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt theo theo luật hình sự Việt Nam.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, các căn cứ quyết định hình phạt và ý nghĩa của việc quyết định hình
phạt
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Khái niệm QĐHP được coi là một trong các khái niệm cơ bản và quan trọng của Luật
hình sự Việt Nam, đây là một trong những khái niệm thể hiện tập trung nhất bản chất giai cấp
và chính sách hình sự của Nhà nước ta. QĐHP là giai đoạn quan trọng trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự của Tịa án. Khi chưa có BLHS năm 1985, khái niệm QĐHP chỉ mang ý nghĩa
lượng hình, sau khi có BLHS này ra đời, mới xuất hiện tên gọi quyết định hình phạt như hiện
nay. Mặc dù, là khái niệm quan trọng nhưng cho tới nay, PLHS Việt Nam vẫn chưa có một văn
bản chính thức để định nghĩa cụ thể về khái niệm QĐHP. Khái niệm này chỉ được nghiên cứu
dưới góc độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong hệ thống
văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính thống.
Có nhiều tác giả đều có quan điểm chung về QĐHP: là việc Tịa án lựa chọn loại hình phạt
cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi
luật định để áp dụng cho người phạm tội. Có thể đưa ra khái niệm khoa học về QĐHP được hiểu
theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp như sau:
Thứ nhất: Nghĩa hẹp là Tòa án ra QĐHP với hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Thứ hai: Nghĩa rộng là QĐHP bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung, quyết
định các biện pháp chấp hành hình phạt, miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc là quyết định áp
dụng các biện pháp tư pháp khác nhằm mục đích thay thế hoặc bổ sung cho hình phạt
Theo quan điểm của chúng tơi, khái niệm QĐHP được hiểu là: Quyết định hình phạt là
hoạt động của Tịa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt
chính và hình phạt bổ sung, trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.
Hiện nay, có các xu hướng cho rằng:
Thứ nhất; xác định khung hình phạt thuộc về giai đoạn định tội danh
Thứ hai; xác định khung hình phạt thuộc về giai đoạn QĐHP
Theo chúng tơi, để đi tới QĐHP phải trải qua giai đoạn định tội danh chính xác, dựa vào
những căn cứ pháp lý của PLHS, khoa học mới đi đến QĐHP.
1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt
1.1.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự
Căn cứ vào Phần chung của Luật hình sự Tịa án khi QĐHP bao gồm hình phạt chính và hình
phạt bổ sung. Áp dụng đúng khung hình phạt, loại hình phạt mà điều luật quy định, khơng được
áp dụng cao hơn mức cao nhất của khung hình phạt.
Căn cứ vào các quy định của BLHS là quan trọng nhất trong các căn cứ QĐHP. Căn cứ
này thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Quyết định hình phạt phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội
Dưới góc độ khoa học, theo chúng tơi: Tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
là những dấu hiệu (về chất) phản ánh sự khác nhau giữa tội phạm này với tội phạm khác. Còn
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu (định lượng) phản ánh mức độ nguy
hiểm cụ thể của cùng một loại tội phạm được thực hiện trong các trường hợp khác nhau.
1.1.2.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp tất cả các đặc điểm có ảnh hưởng nhất định tới
HVPT và khả năng cải tạo giáo dục của người đó. Nhân thân người phạm tội còn là cách xét
tổng hợp giữa quan hệ của người đó với xã hội, gia đình và những người xung quanh, cũng như
5
các yếu tố khác bao gồm: Tuổi đời, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, trình độ văn hóa, chun
mơn, ngành nghề cơng tác, thành tích, kỷ luật cá nhân, hồn cảnh gia đình... của người phạm
tội. Tất cả các yếu tố trên thuộc về cá nhân của người đó, mỗi người có một nhân thân khác
nhau, cùng thực hiện một tội phạm, nên Tòa án phải xem xét, dựa vào nhân thân của từng bị cáo
để có QĐHP có căn cứ và đúng pháp luật.
1.1.2.4. Căn cứ các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS là: Những tình tiết làm cho những trường hợp phạm
tội cụ thể, mỗi tội phạm khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Những tình tiết này có ý
nghĩa về mặt lượng hình, tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, hình phạt trong khung hình phạt
nhất định.
Có thể chia các căn cứ giảm nhẹ TNHS thành các nhóm:
Một là; giảm nhẹ TNHS ảnh hưởng đến mức nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
Hai là; giảm nhẹ TNHS do có khả năng cải tạo giáo dục người phạm tội;
Ba là; giảm nhẹ TNHS do hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội;
Bốn là: giảm nhẹ TNHS do mức độ của hành vi phạm tội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt
QĐHP là tiền đề, là điều kiện cho việc đạt được mục đích của hình phạt. Hiệu quả của
hình phạt chính là mức độ đạt được mục đích của hình phạt khi áp dụng hình phạt đối với
người bị kết án. Hiệu quả hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: Chính sách
hình sự; QĐHP, chấp hành hình phạt, việc tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật trong xã
hội… Trong tất cả các yếu tố nêu trên chúng tơi nhận thấy rằng việc QĐHP có ý nghĩa quan
trọng nhất. Việc chấp hành hình phạt có kết quả tốt, nếu Tòa án QĐHP đúng (đúng người,
đúng tội, đúng với các quy định của pháp luật hình sự và áp dụng chính xác các căn cứ
QĐHP).
1.2. Khái niệm, các căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt
a. Khái niệm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Theo quan điểm của chúng tơi có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm này như sau:
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội là việc Tòa án xem xét QĐHP cho hành vi chuẩn bị
phạm tội theo các điều của BLHS hiện hành về các tội phạm tương ứng, căn cứ trên tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho
hành vi chuẩn bị phạm tội không thực hiện được tới cùng.
b. Khái niệm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt
Bằng việc phân tích trên đây, tác giả đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm này như
sau: QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt là việc Tòa án dựa trên các quy định hình sự
hiện hành, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, ý chí chủ quan thể hiện mức
độ của ý định phạm tội, và những tình tiết khách quan khác khiến cho tội phạm khơng thực
hiện được tới cùng. Qua đó đưa ra mức hình phạt phù hợp với người phạm tội trong trường
hợp phạm tội chưa đạt.
1.2.2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt
- QĐHP có giá trị cho việc phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng, giúp người dân tôn
trọng các giá trị và qui tắc đạo đức trong đời sống xã hội và ý nghĩa trong hoạt động đấu tranh
phòng, chống, giáo dục, cải tạo.
1.2.3. Các đặc điểm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt
a. Đặc điểm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
6
Chuẩn bị phạm tội là hành vi cố ý, chuẩn bị cho các bước tiếp theo của quá trình phạm
tội, đã thể hiện ra ngoài thế giới khách quan, bằng ý chí của chủ thể phạm tội. Thỏa mãn ý
định phạm tội bằng hành vi tìm kiếm cơng cụ, phương tiện, hay các điều kiện khác để thực
hiện ý định phạm tội của mình.
Dựa trên những đặc trưng đánh giá về lượng nêu trên, việc QĐHP cho chuẩn bị phạm tội
phải nhẹ hơn so với tội phạm hoàn thành trong điều luật tương ứng. Điều này thể hiện được
nguyên tắc cơng bằng trong QĐHP nói chung và QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
nói riêng.
Các căn cứ cho việc xác định "tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội"
b. Đặc điểm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt
QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt giống giai đoạn tố tụng đối với các tội phạm
khác, nhưng người phạm tội được giảm nhẹ đặc biệt. Tòa án phải dựa theo các căn cứ chung
về QĐHP xem xét yếu tố khách quan khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến
cùng.
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội thì trong giai đoạn phạm tội chưa đạt phải
chịu TNHS về tất cả các tội phạm thực hiện có trong luật hình sự hiện hành.
1.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm về quyết định hình
phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam
từ năm 1945 đến nay
1.3.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần
thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985
Sự kiện Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đánh dấu một bước quan trọng về mọi
mặt của Nhà nước ta, trong đó pháp luật giai đoạn này cũng đánh dấu một thời kỳ mới. Thời
gian này, bước đầu Nhà nước mới thành lập đã cho ra đời các qui định, pháp luật nhằm bảo vệ
và duy trì ổn định một Nhà nước cịn non trẻ, mang tính sáng tạo, nhân văn và đậm đà bản sắc
dân tộc.
Mặc dù vậy, trong hoàn cảnh đất nước vừa có chiến tranh vừa hịa bình thì khơng thể có điều
kiện xây dựng BLHS điều chỉnh đầy đủ các hành vi xâm phạm nói trên được. Pháp luật trong giai
đoạn này cũng đề cập tới trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong các các tội phạm
cụ thể, tiêu biểu như các quy định sau: Sắc lệnh số 02/SLT ngày 18/06/1957 quy định về một
trong những trường hợp khẩn mà cơ quan cơng an có thể bắt giữ trước khi có lệnh viết của cơ
quan tư pháp từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên hoặc của Tịa án binh khi có hành vi chuẩn bị làm
việc phạm pháp, trên cơ sở quy phạm pháp luật này, thì bất kỳ người nào có hành vi, mục đích
làm những việc phạm pháp xâm hại tới khách thể được Nhà nước bảo vệ như: Chính quyền nhân
dân, tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân và tập thể thì dù chỉ là hành vi chuẩn bị cơng cụ
phương tiện "phạm pháp" thì cũng bị bắt giữ, để điều tra và xử lý. Tòa án nhân dân tối cao, cũng
có những văn bản hướng dẫn cho các Tòa án cấp dưới khi xét xử hay trong các báo cáo tổng kết
hàng năm.
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay
BLHS Việt Nam năm 1985 ra đời đánh dấu những bước chuyển đổi của nền kinh tế tập
trung sang nền kinh kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Sự thay đổi hình thức quản lý kinh tế
này đã ảnh hưởng và tác động to lớn tới sự ra đời của BLHS đầu tiên của nước ta năm 1985
được Quốc hội khóa VI, kỳ họp 9 thơng qua và có hiệu lực ngày 01/01/1986.
Qua các lần sửa đổi, bổ sung trong những năm 1989, 1991, 1992, và 1997, nhưng BLHS Việt
Nam năm 1985 các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
không thay đổi. Nhưng qua thực tiễn xét xử hơn mười năm từ 1985 - 1999 thấy rằng nhược điểm
rõ ràng tại quy định trên về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Tại kỳ
họp Quốc hội 6, khóa X thơng qua BLHS Việt Nam năm 199, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000.
7
Được quy định tại các Điều 17, Điều 18 BLHS Việt Nam năm 1999 về chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt tại Điều 52 BLHS hiện hành tại chương về QĐHP.
Chương 2
CÁC QUY PHẠM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ
PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các quy phạm về quyết định hình phạttrong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt
2.1.1. Các quy phạm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Theo quy định tại Phần chung BLHS, việc chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp tác động tới
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, chưa trực tiếp gây nguy hại cho khách thể của luật
hình sự nhưng đây là giai đoạn đầu tiên và là tiền đề, là điều kiện cho việc thực hiện HVPT
được diễn ra nhanh chóng, gọn nhẹ, rút ngắn thời gian thực hiện HVPT nhanh nhất
Về cơ bản có các dạng sau:
- Tìm kiếm cơng cụ, phương tiện thực hiện tội phạm
- Sửa soạn công cụ phương tiện thực hiện tội phạm
- Cố ý tạo ra các điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm
Tóm lại, BLHS Việt Nam năm 1999 quy định việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội theo điều luật là phù hợp, bởi lẽ, Tịa án xem xét các căn cứ, tình tiết cụ thể của vụ
án, để ra quyết định hình phạt trong trường hợp giảm nhẹ đặc biệt đối so với các trường hợp
phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành, theo các điều tương ứng của Bộ luật hình sự. Tùy
theo tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và
các tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được tới cùng. Mức cao nhất của khung
hình phạt tù chung thân, tử hình thì khơng q 20 năm tù; tù có thời hạn khơng q một phần
hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
Điều kiện QĐHP với hành vi chuẩn bị phạm tội:
Một là, người đó phải có năng lực TNHS, là chủ thể của TNHS. Người đó có khả năng
nhận thức đầy đủ tính chất pháp lý của hành vi do mình thực, có khả năng điều khiển hành vi
của mình.
Hai là, người chuẩn bị phạm tội phải đủ tuổi chịu TNHS do luật hình sự quy định.
Ba là, tại thời điểm thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội thì người đó phải có khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi do mình thực hiện.
Bốn là, hành vi chuẩn bị phạm tội đã thể hiện ra bên ngoài khách quan, là hành vi chuẩn bị
phạm tội cho những tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Năm là, người chuẩn bị phạm tội phải có lỗi cố ý trong việc chuẩn bị phạm tội. Ý chí bên
trong và ý chí bên ngồi.
Sáu là, hành vi chuẩn bị phạm tội đối với những tội được quy định trong BLHS, xâm hại
tới khách thể được luật hình sự bảo vệ.
2.1.2. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt: Là hành vi đã được miêu tả trong cấu thành tội phạm, nhưng hành vi
đó khơng thực hiện được tới cùng, chưa có hậu quả xảy ra. Hoặc hậu quả đó khơng phù hợp
với hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm. Có hậu quả xảy ra nhưng không phù
hợp với mối quan hệ nhân quả, với hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Hoặc người
đó mới thực hiện được một phần trong nhiều hành vi khách quan mô tả trong cấu thành tội
phạm.
Chúng tôi đồng nhất với quan điểm: Là người đó đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm
(thực hành) hành vi này đã đầy đủ các dấu hiệu khách quan của của cấu thành tội phạm cụ
8
thể được quy định trong Phần các tội phạm cụ thể. Hành vi khơng thực hiện được đến cùng
ngồi ý muốn của người phạm tội.
Đó là hành vi đi liền trước hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm mà
không tách ra được.
Chúng tôi đưa ra định nghĩa khoa học về căn cứ QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa
đạt: là việc Tòa án xem xét lựa chọn mức hình phạt tương ứng với hành vi và mức độ phạm
tội, ý định phạm tội, dựa trên các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự hiện hành.
Chưa đạt chưa hoàn thành hoặc chưa đạt đã hồn thành (vì kết quả mà người phạm tội dự
định đạt được nhiều hơn ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành).
So sánh hai trường hợp này, hành vi chưa đạt đã hoàn thành gần với tội phạm hoàn
thành nên mức hình phạt cho hành vi này trên thực tế thường cao hơn.
Các trường hợp khách quan thường gặp là:
- Sự việc xảy ra bất ngờ mà người phạm tội khơng nghĩ rằng sẽ xảy ra hoặc có xảy ra thì
vẫn có thể ngăn cản được.
- Người bị hại có khả năng chống cự được nên hậu quả không xảy ra như mong muốn
ban đầu của người phạm tội.
- Do các thể nhân khác đã phát hiện và kịp thời ngăn chặn
- Khả năng và trình độ của chính người phạm tội kém nên hậu quả không xảy ra.
- Do ngoại cảnh thiên nhiên bên ngoài ngăn cản…
2.1.3. Văn bản hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 về "Hướng dẫn áp dụng một số quy
định trong Phần chung của Bộ luật hình năm 1999", trong đó có hướng dẫn về phạm tội chưa
đạt trong Điều 18 như sau:
Một là, theo quy định tại Điều 18, BLHS năm 1999 thì phạm tội chưa đạt là trường hợp
đã bắt đầu cố ý thực hiện tội phạm, nhưng khơng thực hiện được đến cùng vì những ngun
nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Hai là, trong trường hợp xác định được hành vi vi phạm mà người đó thực hiện khơng đạt
vì những ngun nhân ngồi ý muốn chủ quan của họ khơng có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành
tội phạm hoặc trong trường hợp không thể xác định được hành vi vi phạm mà họ thực hiện.
Ba là, khi QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt, ngoài việc phải áp dụng điểm,
khoản, điều luật quy định về tội phạm đó, cần phải áp dụng Điều 18 và các khoản 1 và 3 Điều
52 BLHS năm 1999.
2.2. Tthực tiễn áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy phạm của pháp luật hình về quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Số lượng các vụ án ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội được truy tố và đưa ra xét xử là không
nhiều, chiếm tỷ rất nhỏ. Mặc dù phần lớn các tội phạm đều có hành vi chuẩn bị phạm tội.
Qua thực tiễn xét xử hơn mười năm (2000 - 2011) chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các
hành vi chuẩn bị phạm tội đối với các loại tội phạm với tính chất mức độ rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng về mặt khách quan đã biểu lộ ý chí, hành vi ra bên ngồi thì mới xem
xét và bị truy cứu TNHS.
Các loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, hành vi chuẩn bị truyền đơn, tài liệu chống
phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân… tất cả các hành vi này dù chưa hoàn thành các yếu tố
cấu thành tội phạm đều bị xét xử là tội phạm ở giai đoạn hoàn thành.
Thực tiễn cho thấy số lượng về các vụ việc đưa ra xét xử tội phạm trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội chiếm tỷ lệ 0.01% trong tổng số các vụ án được thụ lý và đưa ra xét xử.
2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự trong trường hợp phạm tội
chưa đạt
9
Thực tiễn xét xử thấy ở giai đoạn chưa đạt tồn tại ở những loại như sau:
Một là, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành Đây là trường hợp chưa đạt về hậu quả, chưa
hoàn thành về hành vi.
Hai là, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành
Ba là, phạm tội chưa đạt vơ hiệu là trường hợp "Ngồi hai trường hợp nêu ở trên khoa
học luật hình sự cũng như sách báo pháp lý còn đưa ra trường hợp phạm tội chưa đạt do vơ
hiệu". Về ý chí thực hiện tội phạm là mong muốn thực hiện đến cùng như hai trường hợp nêu
trên. Vì vậy, tính chất nguy hiểm cho xã hội phải đặt ra, như các hành vi: giết người nhưng
người đó đã chết, ăn trộm nhưng là tiền giả, bắn người nhưng đạn hỏng…
Qua việc xem xét, điều tra những bản án đã được xét xử trong địa bàn của tỉnh Thái Bình,
tỉnh Phú Thọ và huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định, hành vi của các loại tội phạm chưa đạt
chúng tôi nhận thấy: Thông thường các trường hợp phạm tội chưa đạt tập trung vào các loại
tội phạm chủ yếu như sau: Tội giết người (Điều 93 BLHS Việt Nam năm 1999); Tội hiếp dâm
(Điều 111 BLHS Việt Nam năm 1999); Tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS Việt Nam năm
1999); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS Việt Nam năm 1999).
Chương 3
HỒN THIỆN CÁC QUY PHẠM CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
3.1. Sự cần thiết của việc hồn thiện các quy phạm pháp luật hình sự về quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
3.1.1. Về phương diện lập pháp
Về phương diện lập pháp, các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội có
những điểm thiếu hợp lý như sau:
Một là, mặc dù, được quy định và ghi nhận thành các điều độc lập về hành vi chuẩn bị
phạm tội trong BLHS, tuy nhiên, trong việc áp dụng thực tế xét xử gây ra nhiều cách hiểu
khác nhau
Hai là, Nghị quyết số 01/2000-NQHĐTP ngày 04/08/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung BLHS năm 1999 cũng
được coi là văn bản có tính chất pháp lý cho việc áp dụng.
Những vận dụng, đối chiếu nhiều văn bản pháp lý như trên, tạo nên những khó khăn nhất
định cho hoạt động xét xử của Tòa án.
Hiện có các xu hướng sau:
Xu hướng thứ nhất, nếu hành vi thỏa mãn khung hình phạt nào thì vận dụng khung hình
phạt đó.
Xu hướng thứ hai, nếu hành vi chưa thỏa mãn tình tiết tăng nặng định khung mà vận dụng
khung tăng nặng điều đó có nghĩa là đồng nhất tính nguy hiểm cho xã hội của trường hợp
chuẩn bị phạm tội với những trường hợp tăng nặng của tội phạm đã hoàn thành.
3.1.2. Về phương diện thực tiễn
Việc quy định ở Điều 52 của BLHS không chỉ ra khung hình phạt để áp dụng, chỉ đưa ra
mức quy định 1/2 và 3/4 như trên rất khó khăn cho việc xác định khung hình phạt áp dụng.
Hiện nay có nhiều cách thức giải quyết vấn đề như sau:
Cách thứ nhất cho rằng: hành vi thỏa mãn khung hình phạt nào thì vận dụng khung hình
phạt đó để QĐHP đối với người phạm tội.
Cách thứ hai cho rằng: thỏa mãn cấu thành tội phạm tăng nặng TNHS và vận dụng khung
tăng nặng thì đồng nhất tính nguy hiểm cho xã hội của trường hợp tăng nặng của tội phạm đã
hoàn thành.
3.1.3. Về phương diện lý luận
10
Về mặt lý luận, cần phải tuân thủ các quy định về QĐHP nói chung và các quy định đặc thù
riêng của Điều 17, Điều 18, Điều 52 BLHS Việt Nam năm 1999. Tính chất MĐNH cho xã hội
của hành vi chuẩn bị phạm tội, HVPT chưa đạt;
Nhân thân người phạm tội: Qua nhìn nhận thực tiễn xét xử trong hơn 10 năm qua chúng tơi
có một số nhận xét chung sau đây:
Một là, chưa nhận thức đúng về các căn cứ QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt.
Hai là, nhận thức chưa đúng về mức độ phải chịu TNHS. Cụ thể vận dụng mức 1/2 và 3/4
mức phạt tù mà điều luật quy định trong mỗi Tòa án khác nhau, điều này thiếu thống nhất và đồng
bộ trong việc áp dụng cùng một điều luật.
Ba là, chưa có sự phân biệt cụ thể về các trường hợp: Tội phạm hoàn thành, tội phạm
chưa đạt; tội phạm chưa đạt chưa hoàn thành; tội phạm chưa đạt đã hoàn thành và tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội.
3.2. Giải pháp cụ thể sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật hình sự về quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
3.2.1 Nhận xét các quy phạm pháp luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Thứ nhất, các quy phạm QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội phạm tội chưa đạt là
việc QĐHP trong trường hợp giảm nhẹ đặc biệt so với tội phạm hoàn thành. Việc Nhà nước
quy định về TNHS cho trường hợp nêu trên đã giải quyết cho thực tiễn xét xử của các Tòa án
trong thời gian qua, những quy định của pháp luật hình tại Điều 17, Điều 18 và Điều 52
BLHS hiện hành, đã góp phần cho cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm của Nhà nước ta.
Thứ hai, qua hơn mười năm thực hiện (năm 1999 - 2011), qua thực tiễn xét xử thấy rằng
các quy định hình sự nêu trên cịn có nhiều điểm bất cập chưa phù hợp với thực tế.
Thứ ba, các quy định trên về câu chữ còn gây nên cách hiểu chưa chính xác, dẫn tới các
Tịa án áp dụng PLHS không đồng nhất.
Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hồn thành tính chất MĐNH hơn, gần với phạm tội
hoàn thành, nên cần QĐHP nặng hơn. Như vậy, mới đạt được ngun tắc cơng bằng trong
QĐHP nói chung và QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng.
Thứ tư, Điều 52 BLHS quy định một cách chung chung
3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật hình sự về quyết định hình
phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Thứ nhất, cần phải bổ sung vào BLHS hiện hành một cách khái quát và cơ bản về các
trường hợp: Chuẩn bị phạm tội; phạm tội chưa đạt; tự ý nửa chừng chấm rứt việc phạm tội;
phạm tội hoàn thành; phạm tội chưa đạt chưa đạt chưa hoàn thành; phạm tội chưa đạt đã hoàn
thành.
Cụ thể, Điều 18 BLHS nên sửa như sau" Phạm tội chưa đạt là hành vi cố ý thực hiện tội
phạm nhưng tội phạm đã khơng được thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách
quan ngoài ý muốn của người phạm tội".
Thứ hai, bổ sung vào khoản 1 Điều 52 BLHS: " điểm b, khung hình phạt áp dụng đối với
phạm tội chưa đạt là khung mà HVPT thỏa mãn có thể là khung cơ bản, khung tăng nặng hay
khung giảm nhẹ. Đối với chuẩn bị phạm tội, khung hình phạt được áp dụng là khung cơ bản".
Thứ ba, khoản 2 và khoản 3 Điều 52 BLHS nên quy định là không quá 1/2 hoặc không
quá 3/4 mức phạt tù cao nhất của điều luật tương ứng quy định
Có thể bổ sung vào khoản 3 Điều 52 BLHS như sau: "Đối với trường hợp phạm tội chưa
đạt, nếu điều luật được áp dụng có hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có
thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì
mức hình phạt nằm trong giới hạn ba phần tư mức tối thiểu và khơng q ba phần tư mức tối đa
của khung hình phạt mà điều luật tương ứng qui định". Khi người phạm tội vừa có tình tiết
11
tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ TNHS thì Tịa án áp dụng khung hình phạt trong biên độ
dao động nhỏ, nên sẽ bảo đảm tính chính xác cao.
Thứ tư, không nên quy định QĐHP cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình đối với trường
hợp phạm tội chưa đạt. QĐHP tù chung thân hoặc tử hình đối với các "trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng", tuy nhiên các nhà làm luật không đưa ra định nghĩa pháp lý về trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng. Điều này, gây nên những hiểu lầm khi QĐHP đối với các Tòa án khác nhau,
khi áp dụng vào khoản 3, Điều 52 BLHS hiện hành, "thế nào là trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng", cần qui định cụ thể trong BLHS hiện hành.
Thứ năm, nên thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự đối với các tội phạm trong trường hợp
hành vi ít nghiêm trọng và những loại tội phạm về kinh tế, các tội xâm phạm trật tự an toàn xã
hội.
Thứ sáu, nên bổ sung thêm tại Phần chung của BLHS về nội dung "Cấu thành tội phạm
của hành vi phạm tội chưa đạt".
3.2.3. Mơ hình lý luận và các kiến giải lập pháp về quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Thứ nhất, những quy định này, bảo đảm được những đòi hỏi trong thực tiễn xét xử, tuân
thủ các nguyên tắc trong QĐHP nói chung, vừa mang tính logic về mặt pháp lý, chặt chẽ về
kỹ thuật lập pháp của PLHS, cụ thể hóa TNHS đối với hai hành vi nêu trên.
Thứ hai, việc đưa ra mơ hình lý luận sửa đổi, bổ sung cho các quy định QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt sẽ là căn cứ pháp lý Tòa án QĐHP bảo đảm
sự thống nhất, đồng bộ; Đồng thời tránh gây nên nhiều cách hiểu khác nhau trong cùng một
điều luật; Có sự cá thể hóa rõ ràng từng hành vi đối với các trường hợp về chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và
phạm tội hoàn thành.
Thứ ba, trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở về
các khái niệm về PLHS theo cách hiểu phổ biến hiện nay, bảo đảm tính thống nhất về mặt
khoa học, chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp vì:
Chúng tơi đồng tình với những kiến giải lập pháp của GS.TSKH. Lê Văn Cảm bổ sung một
điều luật ở Phần chung BLHS hiện hành như sau:
Điều.... Tội phạm chưa hoàn thành (mới):
1. Tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
2. Trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng được xác định theo điều tương ứng về tội phạm hoàn thành trong Phần các tội
phạm và Điều 17, Điều 52
3. Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hồn thành do HVPT chưa đạt được xác
định theo điều tương ứng về tội phạm hoàn thành trong Phần các tội phạm đồng thời viện dẫn
Điều 18 và Điều 52 BLHS năm 1999.
Điều... Chuẩn bị phạm tội (Điều 17 BLHS năm 1999)
1. Chuẩn bị phạm tội là hành vi tìm kiếm hoặc sửa soạn công cụ hay phương tiện thực
hiện tội phạm, cũng như tìm kiếm những người đồng phạm, cấu kết với nhau hoặc cố ý tạo ra
những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm, nhưng đã không thực hiện được đến
cùng vì những ngun nhân ngồi ý muốn của người phạm tội.
2. (Có thể giữ nguyên như quy định tại đoạn 2 Điều 17 BLHS năm 1999).
Điều... Phạm tội chưa đạt (Điều 18 BLHS năm 1999):
1. Phạm tội chưa đạt là hành vi cố ý thực hiện tội phạm nhưng tội phạm không thực hiện
được đến cùng vì những ngun nhân ngồi ý muốn của người phạm tội.
Ngoài những sửa đổi bổ sung trên, theo quan điểm của chúng tôi nên đưa thêm vào điều
về phạm tội chưa đạt như sau:
12
Bổ sung cho khoản 1, Điều 18: Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm chưa đạt.
2. Hành vi phạm tội chưa đạt gồm chưa đạt chưa hoàn thành và chưa đạt đã hoàn thành.
a) Chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội chưa thực hiện hết tất cả các
hành vi thuộc mặt khách quan trong cấu thành tội phạm và hậu quả của tội phạm chưa xảy ra
nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội.
b) Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội phạm tội đã thực hiện hết
các hành vi mà họ tin rằng đã gây ra hậu quả và đạt được mục đích của họ nhưng hậu quả chưa
phù hợp với hậu quả của tội phạm phản ánh trong cấu thành tội phạm.
Đối với việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nên sửa đổi
bổ sung theo hướng:
Điều 52. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt
Phương án 1:
Khoản 1 (giữ nguyên).
1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và HVPT chưa đạt, hình phạt được quyết định theo
các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, MĐNH cho xã hội của
hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không
thực hiện được đến cùng.
2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là
khơng q hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt được áp dụng trong giới
hạn 1/2 mức tối thiểu và không quá 1/2 mức tối đa của khung hình phạt mà điều luật quy
định.
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng riêng hình phạt tù chung
thân trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt được áp
dụng nằm trong giới hạn 3/4 mức tối thiểu và không quá 3/4 mức tối đa của khung hình phạt
mà điều luật quy định.
4. Khi QĐHP, Tịa án QĐHP đối với trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành nhẹ
hơn so với trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và tội phạm hoàn thành tương ứng
khác.
Quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt phải được
ghi rõ trong quyết định của bản án hình sự.
Phương án 2:
1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và HVPT chưa đạt, hình phạt được quyết định theo
các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, MĐNH cho xã hội của
hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không
thực hiện được đến cùng. Hình phạt đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn so với phạm
tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành nhẹ hơn so với
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
2. Khung hình phạt được áp dụng đối với phạm tội chưa đạt là khung mà HVPT thỏa mãn
có thể là khung cơ bản, khung tăng nặng hay khung giảm nhẹ. Cịn đối với chuẩn bị phạm tội,
khung hình phạt được áp dụng là khung cơ bản.
3. Quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt phải được
ghi rõ trong quyết định của bản án hình sự về tội phạm chưa đạt đó.
Phương án 3:
1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm vi chưa đạt, hình phạt được quyết định
theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, MĐNH cho xã
13
hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm
không thực hiện được đến cùng.
2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là
không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt được áp dụng là khung cơ
bản hoặc khung giảm nhẹ tương ứng mà điều luật quy định.
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng riêng hình phạt tù chung
thân trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt được áp
dụng là khung mà hành vi phạm tội thỏa mãn (có thể là khung cơ bản, khung tăng nặng hoặc
khung giảm nhẹ).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hiện nay chưa thống nhất, về phương diện lập pháp
còn hạn chế gây nên nhiều cách hiểu khác nhau. Do đó việc chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề
tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam" sẽ phần nào làm rõ hơn về mặt lý
luận và giúp cho các Tòa án QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt có
sự thống nhất trong việc vận dụng các quy phạm pháp luật vào thực tiễn, để QĐHP tương
xứng với hành vi và hậu quả xảy ra, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là việc lựa
chọn loại và mức hình phạt thích hợp tương xứng với hành vi hậu quả xảy ra. Phân biệt và
làm rõ hơn hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa
đạt đã hoàn thành, phạm tội hồn thành... Giúp cho việc QĐHP của Tịa án có căn cứ, đúng
pháp luật khơng QĐHP q nặng hoặc quá nhẹ dẫn tới bỏ lọt tội phạm hoặc oan, sai cho
người vô tội. QĐHP đúng sẽ làm cơ sở để đạt được mục đích của hình phạt, nâng cao hiệu
quả của hình phạt góp phần củng cố pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng.
2. Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, mặc dù tội
phạm trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt so với tội phạm hoàn thành khác
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Tuy nhiên, việc đưa ra quy phạm về QĐHP cho trường hợp nêu trên
sẽ góp phần giáo dục, dăn đe những trường hợp có ý định phạm tội khác. Mặt khác, góp phần
cá thể hóa TNHS đối với từng trường hợp phạm tội trường hợp phạm tội khác nhau. Trong
phạm vi giới hạn của luận văn, dựa trên các nguyên tắc QĐHP nói chung, tác giả đưa ra các
nguyên tắc QĐHP cho trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt để việc vận dụng quy
phạm pháp luật hình sự này có căn cứ và đúng pháp luật vì: Ngun tắc QĐHP chính là sợi
chỉ đỏ xuyên xuốt để các Tịa án vận dụng có căn cứ và đúng pháp luật.
3. Thông qua việc nghiên cứu, xem xét cả về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng của một số
bản án hình sự Tịa án hình sự thấy rằng Điều 52 BLHS Việt Nam năm 1999 hiện hành đã
được sửa đổ bổ sung một số điều ngày 19/06/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 vẫn
chưa được chú trọng sửa đổi mặc dù các quy định ở trên còn nhiều điểm bất cập chưa hợp lý
(như đã phân tích ở chương 3). Việc tác giả đưa ra một số kiến giải lập pháp, dưới góc độ
khoa học pháp lý hình sự, mong muốn nhằm khắc phục những điểm hạn chế, bất cập trong
thực tiễn xét xử. Qua đó, bảo đảm mọi hành vi phạm tội dù ở giai đoạn nào cũng bị phát hiện
và xử lý kịp thời, tương xứng với hành vi và mức độ phạm tội, thực hiện đúng nguyên tắc xét
xử công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, để QĐHP có hiệu quả cao. Để tạo điều
14
kiện cho việc vận dụng thống nhất và có hiệu quả các quy định về QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đòi hỏi cơ quan chức năng, các nhà lập pháp cần có
quyết sách sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Hoặc có văn bản pháp lý nhằm hướng
dẫn các Tịa án áp dụng thống nhất, đồng bộ trong việc vận dụng các quy định tại Điều 52
BLHS một cách kịp thời.
4. Để nâng cao hoạt động xét xử của Tòa án trong giai đoạn hiện nay theo quan điểm của
chúng tôi cần chú trọng cơng tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn cho các Thẩm
phán có vai trị đặc biệt quan trọng. Đồng thời, có sự hướng dẫn cụ thể, rõ ràng của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để giúp cho việc thống nhất áp dụng các quy định pháp
luật vào thực tiễn xét xử đối với từng trường hợp cụ thể.
Bên cạnh đó cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong quần
chúng nhân để tuân thủ và thực hiện đúng pháp luật, để quần chúng nhân dân thấy được tính
chất mức độ nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đều phải chịu
TNHS tương xứng với hành vi và hậu quả xảy ra. Điều này, có ý nghĩa rất lớn, hỗ trợ trong
hoạt động xét xử nói chung và QĐHP trong giai đoạn phạm tội sơ bộ nói riêng.
5. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là việc
QĐHP trong trường hợp đặc biệt, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở trường hợp đặc biệt
nêu trên, có giá trị cho việc hoạch định chính sách hình sự, và hồn thiện sửa đổi các quy định
về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Quá trình vận dụng các quy
định pháp luật hình sự này cho thấy vai trị to lớn của QĐHP trong giai đoạn phạm tội sơ bộ
đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như giáo dục nhân dân sống và làm
việc theo hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Chúng tôi mong rằng, những kiến nghị trong
luận văn này sẽ được các nhà làm luật xem xét để xây dựng BLHS hiện hành hoàn thiện hơn
trong đó có các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt.
References
1. Bộ Tư pháp (1997), Bộ luật hình sự Nhật Bản, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
2. Lê Cảm (1989), "Bản chất pháp lý của quy phạm "Nguyên tắc quyết định hình phạt", tại
Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam một số vấn đề lý luận - thực tiễn và hồn thiện
pháp luật", Tịa án nhân dân, (1-2).
3. Lê Cảm (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. (Tái bản năm 2003, 2007).
4. Lê Cảm (2002), Sách các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự, (tập III,
IV), Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội.
5. Lê Văn Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Lê Văn Cảm (Chủ biên) (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần
chung), Sách chuyên khảo sau Sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Lê Văn Cảm (2005), "Nghiên cứu so sánh luật hình sự một số nước Châu Âu", Tòa án
nhân dân, (19).
15
8. Lê Văn Cảm (2005), Nghiên cứu so các quy định về Phần chung luật hình sự, Chuyên đề
giảng dạy sau đại học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền, (Sách chuyên khảo), Nxb, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Lê Cảm, Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh, lý luận hướng dẫn mẫu và 350 bài thực
hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Chí (2007), "Chương XII: Các giai đoạn phạm tội", Trong sách: Giáo trình
luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Lê Cảm (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Chí (2007), Đề cương giảng dạy sau đại học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
14. Nguyễn Ngọc Điệp (1999), "Tìm hiểu Bộ luật hình sự Việt Nam" so sánh và đối chiếu Bộ
luật hình sự năm 1999 và 1985, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh
15. Lê Văn Đệ (2003), Chế định nhiều tội phạm những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Hiện (1999), "Một số vấn đề quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự sửa
đổi", Tòa án nhân dân, (5).
17. Nguyễn Ngọc Hòa (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Cơng an nhân dân, Hà
Nội.
18. Nguyễn Ngọc Hịa (2001), "Một số hình thức đặc biệt của tội phạm", Tòa án nhân dân,
(6).
19. Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam (1976), Sắc luật
số 03-SL/76 ngày 15/3 quy định các tội phạm và hình phạt, Sài Gịn.
20. Phạm Mạnh Hùng (2002), "Một số vấn đề hoàn thiện chế định chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt", Kiểm sát, (10).
21. ng Chu Lưu (Chủ biên) (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 (Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16
22. C. Mác - Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Mai (1993), "Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt", Tòa án nhân dân,
(3).
24. Dương Tuyết Miên (2001), "Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt", Luật học, (4).
25. Dương Tuyết Miên (2002), Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
26. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - Xã hội,
Hà Nội.
27. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đinh Văn Quế (2000), "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 - Phần chung",
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội
30. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội
31. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
32. Trần Văn Sơn (2000), "Quyết định hình phạt theo quan điểm của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999", Tịa án nhân dân, (11).
33. Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
34. Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (1962), Báo cáo tổng kết năm 1962, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (1970), Báo cáo tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8 về thực tiễn xét
xử tội giết người, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I (1945 - 1974), Hà
Nội.
38. Tịa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II (1975 - 1978), Hà
Nội.
17
39. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định
trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.
40. Trịnh Quốc Toản (2002), "Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt", Khoa học,
(Chuyên san Kinh tế - Luật), (4).
41. Trịnh Quốc Toản (2008), "Hồn thiện hình phạt tử hình, tù có thời hạn và phạt tiền theo
yêu cầu cải cách tư pháp", Tòa án nhân dân, (9).
42. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1993), Mơ hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình sự
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam, (Quyển I - Những vấn đề chung), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
45. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1967), Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng, Hà
Nội.
46. Chu Thị Trang Vân (2003), "Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phương
diện là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tịa án", Khoa học,
(Chuyên san Kinh tế - Luật), (4).
47. Trịnh Tiến Việt (2006), "Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội", Khoa học, (Chuyên san Kinh tế - Luật), (2).
48. Trịnh Tiến Việt (2006), Nguyên tắc dân chủ trong Luật hình sự Việt Nam, (Sách chuyên
khảo), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
49. Trịnh Tiến Việt (2007), "Về khái niệm tội phạm trong luật hình sự Việt Nam", Tịa án
nhân dân, (13).
50. Trịnh Tiến Việt (2009), "Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong
quá trình thực hiện tội phạm", Khoa học, tập 25, (2).
51. Võ Khánh Vinh (1989), "Quyết định hình phạt, một số vấn đề chung", Nhà nước và pháp
luật, (9).
TRANG WEB
52. Http://www.dantri.com
18
53. Http://www.ngoisao.net
54. Http://www.vnexpress.net
19