Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Chế định hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.6 MB, 110 trang )

Đ Ạ I HỌC QUỐC G IA HÀ N ỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TH ÀN H LO NG
CHÊ DỊNH HỢP TÁC QUỐC TÊ
TRONG LUÂT Tố TUNG HÌNH SựVIÊT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
M ã sô : 60 38 40
LUẬN VẢN TH ẠC s ĩ L U Ậ T HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH Lê Cảm
o A í HOC. o o o C -



、! ( ,
fPUNG ĨÂ M THÔNG NN ĩh ỉ; ựj,
M : L q/
HÀ NÔI • 2006
L Ờ I C A M Đ O AN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương l

MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN CHUNG VỂ HỢP TÁC QUỐC
TÊ TRONG TỔ TỤNG HÌNH sự
1.1. Khái niệm hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự và ý nghĩa


của việc ghi nhận chế định hợp tác quốc tế trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam
1.2. Lược khảo lịch sử hình thành và phát triển những quy định về
hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trước khi
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời
1.3. Những quy định về hợp tác quốc tế trong pháp luật tố tụng
hình sự một số nước trên thế giới
Chương 2

NHỦNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT Tố TỤNG HÌNH
SỤ HIỆN HÀNH VỂ HỢP TÁC QUỐC TÊ VÀ THỰC TIÊN
ÁP DỤNG
2.1 Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
hợp tác quốc tế
2.2. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt Nam
Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT Tố TỤNG HÌNH
Sự VỂ HỢP TÁC QUỐC TẾ
3.L Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế
3.2. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước cần quá triệt trong
việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế
3.3. Cách giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế trong thời
gian tới ở nước ta
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang
1
6
6
15
33
44
44
59
71
71
77
81
97
101
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện Việt Nam đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực từ những năm 90 đến nay, bên cạnh những mặt tích cực, tình
hình tội phạm có tính quốc tế (hay còn gọi là tội phạm xuyên quốc gia, tội
phạm có yếu tố nước ngoài) diễn biến phức tạp. Tình trạng người Việt Nam
phạm tội ở nước ngoài, người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam, người Việt
Nam phạm tội ở trong nước bỏ trốn ra nước ngoài, người nước ngoài phạm
tội ở nước ngoài trốn sang Việt Nam, các băng nhóm tội phạm ở trong nước
cấu kết với các tổ chức tội phạm nước ngoài mua bán phụ nữ, trẻ em, làm
hộ chiếu giả, làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, các giấy tờ có
giá giả khác, buôn lậu vũ khí, sản xuất, buôn bán hàng giả, sản xuất, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy có xu hướng gia tăng cả về mức
độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội. Tình hình này không những xâm hại

tính mạng, sức khỏe của người dân, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức,
làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, mà còn thực sự đe dọa phá vỡ chính
sách kinh tế, xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu quả nặng nề vế
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thậm chí tình hình tội phạm có tính
quốc tế còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi
dụng tiến hành các hoạt động mua chuộc, thu thập tình báo, phá hoại sự
nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.
Để đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính quốc tế đạt hiệu quả
cao, thì hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này trở thành vấn đề mang tính tất
yếu, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Đáp ứng yêu cầu này, Bộ luật
tố tụng hình sự (sửa đổi) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hôi chủ nghĩa
Việt Nam khóa X I,thông qua tại kỳ họp thứ tư, ngày 26-11-2003,đã dành
riêng Phần thứ tám quy định vể hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, thực tiễn thi hành hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự cũng đã đặt
ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự phải
nghiên cứu giải quyết như dẫn độ người phạm tội để truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc thi hành án, từ chối dẫn độ người phạm tội, việc chuyển giao
hổ sơ, tài liệu, vật chứng của vụ án… Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế
định hợp tác quốc tế chưa được tập trung nghiên cứu một cách thỏa đáng,
và xung quanh chế định này, còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài n Chế định hợp tác quốc tế trong luật
tô tụng hình sự Việt Nam \ mang tính cấp thiết, không những về lý luận,
mà còn là đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong
tố tụng hình sự ở Việt Nam.
2.
Tình hình nghiên cứu
Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là vấn đẻ quan trọng và nhạy
cảm,đã được một số nhà luật học, cơ quan ở trong và ngoài nước quan tâm

nghiên cứu. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp có đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ ”Cơ sớ lý luận và thực tiễn xây dựng pháp lệnlì
tương trự tư pháp quốc tể 1 (Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2000); Tổng cục Cảnh sát,
Bộ Công an có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Đẩn độ tội phạm và
tương trợ tư pháp hình sự trong phồng chổng tội phạm ở Việt Nam - thực
trạng và giải pháp” (Bộ Công an, Hà Nội, 2000); Bùi Anh Dũng - Học viện
Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an có luận văn thạc sĩ luật học: "Quan hệ phối
hợp giữa lực lượng Cảnh sát nhân dán Việt Nam với Cảnh sát nước ngoài
trong đấu tran lì phòng,chống tội phạm" (Học viện cảnh sát nhân dân, Hà
Nội, 2000)
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau vẻ
hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, tương trợ tư pháp
2
hình sự, nhưng chưa có cỏng trinh nào nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống về chế định hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự, cũng như
thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiêm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
luận văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận vãn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn hợp tác
quốc tế trong tố tụng hình sự, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu
quả việc áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác
quốc tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm hợp tác quốc tế, các hình thức hợp tác
quốc tế trong tố tụng hình sự.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế ở Việt Nam.

- Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế
của một số nước trên thế giới.
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
hợp tác quốc tế và thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở nước ta.
一 Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về hợp
tác quốc tế, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hợp tác
quốc tế và thực tien hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự của Việt Nam với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu đề tài này dưới góc độ luật tố tụng hình sự.
4.
Cơ SƯ lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận vãn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân
và vì dân, về chính sách hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm của Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về hợp tác quốc tế trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo
tổng kết, số liệu vé hợp tác quốc tế của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Cơ sớ phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, các phương
pháp hộ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, thống kê, so sánh pháp
luật, xã hội học đã được sử dụng để hoàn thành các nhiệm vụ mà tác giả
luận văn đã đặt ra.
5* Những đóng góp mới của luận văn

Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối
toàn diện và tương đối có hẹ thống vé chế định hợp tác quốc tế trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng
góp mới của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế trong tố tụng
hình sự.
4
- Phân tích làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành vé hợp tác quốc tế và thực tiễn áp dụng ở nước la.
- Nghiên cứu, so sánh các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
của nước ta về hợp tác quốc tế với những quy định tương ứng trong pháp
luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới để rút ra những giá trị
hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình sự.
- Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp được đề xuất trong luận văn
có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự nói riêng. Thông qua hệ thống
các giải pháp, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự
phát triển của kho tàng lý luận pháp lý tố tụng hình sự và tổng kết, nghiên
cứu thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt Nam. Đồng thời,
tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ luận cứ khoa học cho việc đổi mới
tổ chức, bộ máy, hố trí cán bộ các cơ quan tư pháp hình sự, góp phần vào
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy vể khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật tố tụng
hình sự nói riêng, cũng như trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách về
hợp tác quốc tế thuộc các ngành Tư pháp, Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
vãn gồm 3 chương, 8 mục.
M Ộ T SỐ VÂN ĐỂ LÝ LU ẬN CHUNG
VÊ HỢP TÁC QUỐC TÊ TRONG T ố TỤNG H ÌN H s ự
Chương 1
1.1. KHÁI NIỆM HỢP TÁC QUỐC TÊ TRONG T ố TỤNG HÌNH sự VÀ
Ý NGHĨA CỦA VIỆC GHI NHẬN CHÊ ĐỊNH HỢP TÁC QUỐC TÊ TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM
Ì.ĨA.
Khái niêm hợp tác quốc tê trong tố tụng hình sự
Hợp tác quốc tế là sản phẩm của sự phát triển xã hội loài người,
một bộ phận tạo thành của tiến trình lịch sử nhân loại, chịu sự chi phối của
những biến thiên của lịch sử. Xã hội nguyên thủy chưa có Nhà nước, do đó
cũng không có hợp tác quốc tế. Từ khi Nhà nước xuất hiện, giai cấp thống
trị thông qua chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước để củng cố, mở
rộng sự thống trị của mình. Chức năng đối ngoại của Nhà nước là tiền để để
hình thành sự hợp tác quốc tế. Do sự phát triển không đổng đều của xã hội
loài người, mà trong cùng một thời đại, thường tồn tại nhiéu loại chế độ
chính trị và nhiều loại hình hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế phát triển
trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, có nhiều tầng nấc đan xen nhau.
Thế kỷ X X I sẽ tiếp tục có nhiẻu biến đổi. Khoa học và công nghẹ sẽ
có nhiều bước nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong
quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực,
vừa có mặt tiêu cực,vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ
bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn
tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Thế giới đang đứng trước nhiểu
vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết
nếu không có sự hợp tác đa phương như chống tội phạm quốc tế, tội phạm

6
có tính quốc tế (hay còn gọi là tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố
nước ngoài), bảo vệ môi trường, hạn chế bùng nổ dân số, đẩy lùi những
dịch bộnh hiểm nghèo Những vấn nạn này đã có từ lâu, nhưng chưa bao
giờ chúng trở thành vấn đề lớn, nghiẽm trọng, ảnh hướng đến sự phát triển
của các quốc gia, tương lai loài người tùy thuộc một phần quan trọng vào
việc giải quyết những vấn đề này. Vì vậy, hợp tác quốc tế ngày nay đang
diễn ra với quy mô ngày càng rộng lớn, nội dung sâu sắc, hình thức sinh
động phong phú. Không một quốc gia nào tồn tại biệt lập lại có thể phát
triển được. Việt Nam đã chủ động tham gia hội nhập quốc tế và khu vực,
đến nay đã tạo dựng được cho mình một vị trí mới trên thế giới.
Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, nếu như vào các
thập ký trước, tội phạm mới chỉ dừng lại ở phạm vi hoạt động giữa các quốc
gia láng giểng, thì ngày nay tội phạm quốc tế,tội phạm có tính quốc tế đã
mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp nơi trên thế giới, tức là mang tính toàn
cầu, phương thức, thủ đoạn phạm tội càng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, lợi
dụng tối đa các thành tựu của khoa học, công nghệ để hoạt động. Hậu quả
do tội phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế gây ra là vô cùng to lớn đối
với từng quốc gia, cũng như trên phạm vi quốc tế. Vì vậy, đấu tranh phòng,
chống tội phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế không còn trong phạm vi
mỗi quốc gia, mà phải tiến hành đấu tranh trên phạm vi toàn cầu. Để cuộc
đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm này có hiệu quả, các cơ quan tiến
hành tố tụng mỗi nước phải hợp tác, phối hợp, liên kết với nhau vì lợi ích
của mỗi quốc gia và vì lợi ích chung.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Hợp tác là trợ giúp qua lại lẫn
nhau" [71, tr. 848]. Như vậy, hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự có thể
được hiểu là sự trợ giúp qua lại lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các cơ quan có thẩm quyền, người có
7

thẩm quycn tương ứng của nước ngoài được thực hiện trôn cơ sớ nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp
và cổng việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với Hiến
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra những đặc điểm của hợp tác quốc tế
trong tố tụng hình sự như sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, thông qua tại kỳ họp
thứ tư, ngày 26-11-2003 (sau đây gọi tắt là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003):
1 • Các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm:
a) Cơ quan điều tra;
b) Viện kiểm sát;
c) Tòa án.
2. Những người tiến hành tố tụng gồm có:
a) Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên;
b) Viện trưởng, Hìó Viện trưởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký Tòa án [9].
Đối với nước ngoài, chủ thể của quan hệ quốc tế trong tố tụng hình
sự là các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tương ứng.
Điều 341 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta quy định:
"Khi thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan có thẩm quyển tiến hành tố tụng
8
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng những quy định
của điéu ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xâ hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của Bộ luật này" [9].

Trong số các cơ quan tiến hành lố tụng của nước ta tham gia hợp tác
quốc tế trong tố tụng hình sự, thì theo các Hiệp định tương trợ tư pháp mà
nước ta đã ký kết với một số nước trên thế giới, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao là cơ quan làm đầu mối trung ương, Ở các nước ký Hiệp định tương trợ
tư pháp với ta cũng có các cơ quan tương tự, trong quá trình thực hiện
tương trợ pháp lý về hình sự, các cơ quan này có thể liên hệ qua cơ quan
đầu mối trung ương hoặc có thể liên hệ trực tiếp với nhau [36,tr. 22].
Thứ hai, việc thực hiện hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự phải
bảo đảm các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự.
Điều 340 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định:
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự giữa các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam với các cơ quan có thẩm quyên tương
ứng của nước ngoài được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyển, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
của nhau, bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật quốc tế [9].
Điều 343 Bộ luật này còn quy định: "Cãn cứ vào các điều ước quốc
tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập,
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có thể…” [9].
Từ những quy định trên, có thể thấy, trong quá trình thực hiện hợp
tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự, chúng ta phải tuân thủ bốn
9
nguyên tắc: 1 ) nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyển, toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia, không can thiệp vào công việc của nhau, bình đáng và cùng có
lợi; 2) nguyên tắc phù hợp với Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật quốc tế; 3) nguyên tắc phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của

pháp luật Việt Nam; 4) nguyên tắc có đi có lại.
Thứ ba, mục đích của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân của
các quốc gia trên lãnh thổ của nhau, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm
quốc tế, tội phạm có tính quốc tế, góp phần củng cố và phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác về nhiều mặt giữa nước ta và các quốc gia hữu quan.
Trong thời đại ngày nay, phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa
các quốc gia ngày càng lớn và tính chất các mối quan hộ đó ngày càng đa
dạng. Cơ sở cho việc thiết lập các mối quan hệ đó chính là pháp luật: pháp
luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp
luật của mỗi nước có bước phát triển mới: bên cạnh việc quy định và điều
chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến chủ thể trong nước, còn có quy
định và điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến tổ chức, cá nhân nước
ngoài. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế
điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng tương ứng của nước ngoài trong việc thực hiện mối quan
hệ hợp tác quốc tế vé tố tụng hình sự với các cơ quan tiến hành tố tụng của
nước ta. Vì vậy, những quy định này tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng
mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia, dân tộc.
Thứ tư, các hình thức hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự rất đa
dạng như dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự, từ chối dẫn độ, chuyển
giao hồ sơ, vật chứng của vụ án; việc giao nhận, chuyển giao tài liệu, đồ
vật, tiền liên quan đến vụ án.
10
1丄 2. Ý nghĩa của việc ghi nhận chẻ định hợp tác quốc tế trong
luật tó tụng hình sự Việt Nam
♦ • • ■
Chế định hợp tác quốc tế lần đầu tiên được ghi nhận chính thức trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn,
đánh dấu sự trưởng thành vé kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta.

Trong chế định hợp tác quốc tế,khái niêm hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát, để từ đó xác định
các quy phạm khác của chế định như thực hiện tương trợ tư pháp, từ chối
thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp, dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình
sự, từ chối dẫn độ Việc nhận thức và áp dụng đúng đắn chế định hợp tác
quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự trong thực tiền là bảo đảm quan
trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh
vực cực kỳ nhạy cảm này.
Xuất phát từ việc đánh giá đúng vai trò của hợp tác quốc tế,trong
mọi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn giành sự quan tâm
to lớn đối với vấn đề hợp tác quốc tế nói chung, hợp tác quốc tế trong hoạt
động tố tụng hình sự nói riêng, nhất là việc thể chế hóa bằng pháp luật,
chính sách của Đảng trong lĩnh vực này. Việc pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành của nước ta quy định về hợp tác quốc tế có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác quốc tế trong hoạt động tố
tụng hình sự, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở
nước ta.
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, hợp
tác quốc tế đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả đạt
được của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Vì vậy, việc quy định về hợp
tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác quốc tế
trong hoạt động tố tụng hình sự.
11
Tuy nhiên, việc áp dụng chế định hợp tác quốc tế một cách tùy tiện,
không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, bởi nó vi phạm nguyên tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng
hình sự. Những hành vi vi phạm pháp luật vé hợp tác quốc tế không những
xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, xâm hại độc
lập, chủ quyên, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, không phù hợp với Hiến
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc

cơ bản của pháp luật quốc tế, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy
định một cách chặt chẽ chế định hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng
hình sự thể hiện sự tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nước ngoài, bảo đảm không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng và cùng có lợi, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội
trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung, hợp tác quốc tế về lĩnh vực này
nói riêng.
Việc quy định trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong luật tố tụng
hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp tố tụng hình sự, còn có ý nghĩa nâng
cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật
nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định chặt chõ của pháp luật
trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Mặt khác, việc quy định cụ thể,chi tiết trình
tự, thủ tục hợp tác quốc tế còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật dễ nắm
vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn chế định này, góp
phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta.
Thứ hai, góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Điểu 1 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục…hợp tác
quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn
12
chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội,
Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng
thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm [9].

Hiện nay, xu thế quốc tế hóa tình trạng phạm tội đang diễn biến
phức tạp đã và đang ảnh hưởng đến các quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Vì vậy, để đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, bảo vệ
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, phải phát huy sức mạnh tổng hợp, sử dụng đồng bộ các biên pháp,
trong đó có hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, bởi lẽ từng quốc gia riêng
biệt không thể nào giải quyết được vấn đề tội phạm quốc tế, tội phạm có
tính quốc tế. Như vậy, việc Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định hợp
tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự góp phần đấu tranh có hiệu quả
với tình trạng phạm tội này, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Thứ ba、góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực
của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày nay, nhu cầu hội nhập quốc tế và khu vực đã trở thành một
đòi hỏi có tính khách quan của mọi quốc gia trong tiến trình phát triển. Quá
trình hội nhập quốc tế ở các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng
đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Điều đó có nghĩa, đi đôi
với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thì việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về tương trợ tư pháp quốc tế, trong đó có hợp tác quốc tế vể tố
13
tụng hình sự, được coi là một bảo đảm hữu hiệu trong cơ chế hợp tác của
quốc gia nhàm giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Trong bối cảnh mở rộng hợp tác quốc tế theo xu thế hội nhập của Nhà
nước ta hiện nay, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa V II
của Đảng đã nêu, điéu cần thiết là: Mphải tiếp tục củng cố và tăng cường
hoạt động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước trong thời kỳ mới,
phải mở rộng quan hệ quốc tế về tương trợ tư pháp, về phòng chống tội

phạm và các tệ nạn xă hội". Do đó, hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự,
cũng giống như tương trợ giữa các quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, khoa học kỹ thuật góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ trương
hội nhập quốc tế và khu vực của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ tư, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Việc Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chính thức ghi nhận chế
định hợp tác quốc tê có ý nghĩa hết sức quan trọng cả vé phương diện lý
luận, cũng như phương diện thực tiễn của cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong điểu kiện tăng cường, mở rộng hội nhập và hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực hiện nay. Đây là vấn để lý luận mới mà khoa học luật tố tụng
hình sự, tội phạm học phải nghiên cứu để giải quyết những vướng mắc mà
thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự đặt ra. vể mặt thực tiễn, hợp
tác quốc tế trong tố tụng hình sự đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật phải
có khả năng hội nhập, khả năng biết làm việc với các đối tác quốc tế, nói
cách khác phải nhanh chóng nâng cao trình độ về nhiều mặt, nhất là phải
nâng cao trình độ ngoại ngữ để hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng
hình sự góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, tội phạm có tính quốc tế nói riêng.
14
1.2. LƯỢC KHẢO LỊCH s ử HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN n h ữ n g
QUY ĐỊNH VÊ HỢP TÁC QUỐC TÊ TRONG LUẬT Tố TỤNG HÌNH s ự VIỆT
NAM TRƯỚC KHI BỘ LUẬT T ố TỤNG HÌNH SựNẢM 2003 RA ĐỜI
1.2.1. Những quy định về hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nam 1975
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân
non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất
nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến
tranh và thiên tai tàn phá. Ở miền Bắc, khoảng 200.000 quân Tưởng Giới
Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng dã
tâm của chúng là giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyển nhân

dân để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Ở miền Nam,
quân đội Pháp được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn, rồi sau đó
đánh rộng ra các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trong tình hình rất khó
khăn đó, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chủ trương việc thiết lập
và phát triển các mối quan hệ chính trị, kinh tế, vãn hóa, khoa học - kỹ
thuật với các nước trên thế giới- Chủ trương này đã đặt nền móng cho sự ra
đời và phát triển quan hộ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phấp lý nói chung
và trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, chỉ từ những nam năm mươi trở đi,
khi các nước xã hội chủ nghĩa như Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Xô viết, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và một số nước xã hội chủ nghĩa
khác thiết lập quan hộ ngoại giao với Việt Nam thì việc hợp tác quốc tế về
pháp luật và tư pháp mới bắt đầu chính thức được thiết lập và thực hiện trên
thực tế. Trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, bên cạnh sự ủng hộ
và giúp đỡ về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, các nước còn
tiếp nhận đào tạo cho nhiều lưu học sinh Việt Nam thuộc các ngành nghề
15
khác nhau, trong đó có đào tạo các chuyên gia pháp lý cho nước ta. Việt
Nam cũng đã tiếp nhận nhiều chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa sang
Việt Nam công tác, huấn luyện về một số lĩnh vực, nhất là về quân sự.
Trong bối cảnh đó, nhiều quan hệ xã hội có tính quốc tế phát sinh, đòi hỏi
phải được pháp luật điều chỉnh về tương trợ tư pháp nói chung và về tương
trợ trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng.
Trong thời kỳ này, chúng ta chủ yếu thực hiện chính sách ngoại
giao tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước, các dân tộc tiến bộ trên thế
giới cho sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc M ỹ,giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Một số điều ước quốc tế mà Nhà nước ta gia nhập
trong thời kỳ này cũng chủ yếu về việc đối xử nhân đạo với thường dân,
hàng binh, tù binh trong chiến tranh.
Cũng trong thời kỳ này, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ

quan, chúng ta chưa chú trọng quản lý xã hội bằng pháp luật cho nên phấp
luật về tương trợ tư pháp còn rất sơ khai. Ngoài một số văn bản hướng dẫn
của Tòa án nhân dân tối cao đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài như
Thông tư số 11/TATC ngày 12-07-1974 hướng dẫn một số vấn đề nguyên
tắc và thủ tục giải quyết việc ly hồn có yếu tố nước ngoài, trong đó có quy
định về ủy thác tư pháp…,chưa có văn bản pháp luật để điều chỉnh vấn đề
tương trợ pháp lý về hình sự. Đối với các vụ án hình sự có yếu tố nước
ngoài, các cơ quan tiến hành tố tụng nước ta chủ động giải quyết trên cơ
sở pháp luật Việt Nam, nếu cần thiết phải hợp tác với các cơ quan tiến
hành tố tụng của nước bạn thì yêu cầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự thực hiện thông qua con đường ngoại giao. Giữa Việt Nam
và các nước chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp, do đó chưa hình
thành cơ sở pháp lý để điều chỉnh vấn đề hợp tác quốc tế trong hoạt động
tố tụng hình sự.
16
1.2.2. Những quy định về hợp tác quốc tế trong luật tỏ tụng
hình sự Việt Nam thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1992
Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975,miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, nước nhà được thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước
vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quan hệ hợp tác quốc tế giữa
Việt Nam với các nước được mở rộng, số công dân Việt Nam ra nước ngoài
học tập, công tác, nghiên cứu, lao động, cũng như số chuyên gia, công dân
nước ngoài đến nước ta công tác, làm việc ngày càng tăng, Tình hình này
đòi hỏi quan hệ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp phải được pháp luật
điều chỉnh. Bắt đầu từ năm 1977,Bộ Tư pháp Liên bang Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Xô viết đã chính thức đặt vấn đề với Việt Nam chuẩn bị ký kết
Hiệp định tương trợ tư pháp giữa hai nhà nước. Trong thời kỳ này, Nhà
nước ta đã ký 6 Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước xã hội chủ nghĩa
anh em, đó là:
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình

sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ
Đức, ký ngày 15-12-1980, gồm 98 điều và đã hết hiệu lực ngày 16-04-1994
theo Công hàm số 50A.505-27/4/DDR/VIE của Bộ Ngoại giao Cộng hòa
Lien bang Đức gửi Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Đức.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình
sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viột Nam và Liên bang Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Xô Viết ký ngày 10-12-1981,gồm 75 điểu. Sau khi Liên
Xô tan rã,Liên bang Nga đã kế thừa từ năm 1992 đến này; các nước Cộng
hòa khác thuộc Liên Xô cũ không kế thừa.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự và hình sự giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Tiệp Khắc ký ngày 12-10-1982, gồm 81 điều. Khi Tiệp Khắc được
. Ị

ÕÃl HOC Q u ọ c G i

:
八'丨
I
! ĩ ẢM

H Ô N G tin T h ù
17 !
phan chia thành hai nước là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Xlôvakia vào đáu
những nãm 90,thì cả hai nước đều kế thừa Hiệp định này.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia
đình, lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và nước Cộng hòa Cu Ba ký ngày 30- 11-1984,gồm 79 điều, hiện đang có
hiệu lực.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia

đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước
Cộng hòa nhân dân Hung-ga-ri ký ngày 18-01-1985,gồm 98 điều, hiện
đang có hiệu lực.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia
đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước
Cộng hòa nhân dân Bun-ga-ri ký ngày 18-01-1985, gồm 98 điều, hiện đang
có hiệu lực、
Qua việc ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp nói trên, có thể rút
ra hai vấn đề đáng lưu ý như sau:
Thứ nhất, các hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết vào đầu
những năm 80,khi quan hệ hợp tác về kinh tế, lao động, văn hóa giữa
nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa phát triển ở mức độ tương đối cao.
Các hiệp định này được ký kết giữa các nước có cùng chế độ chính trị,kinh
tế, xã hội thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa. Các hoạt động tương trợ tư pháp
nói chung, tương trợ pháp lý về hình sự nói riêng đều được thực hiện trên
cơ sở nguyên tắc quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, các hiệp định tương trợ tư pháp có nội dung cơ bản tương
đối giống nhau. Các hiệp định này đều điều chỉnh một cách tổng thể hai
mảng quan hệ, đó là tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp các nước
ký kết và các quy tắc chọn pháp luật áp dụng giải quyết xung đột pháp luật,
18
quy tắc xác định thẩm quyển của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các
vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân gia đình và hình sự.
Thứ ba, việc ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp có ý nghĩa chính
trị - pháp lý rất quan trọng, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác về tố
tụng hình sự giữa Việt Nam với các nước. Tư tưởng chỉ đạo của các hiệp
định tương trợ tư pháp đều xuất phát từ mong muốn tãng cường sự phát
triển quan hệ hợp tác giữa các nước ký kết, trên cơ sở đoàn kết, hữu nghị,
tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tư pháp các nước thực hiện tốt hơn
các cam kết quốc tế,nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm ở

mỗi nước.
Vấn đề hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được quy định trong
các hiệp định trôn như sau:
M ột là,
về dẫn độ người phạm tội.
Các hiệp định đều quy định chi tiết vẻ các nghĩa vụ dần độ,các
trường hợp từ chối dẫn độ,yêu cầu dẫn độ, hoãn dẫn độ, dẫn độ tạm thời,
việc chuyển giao người bị yêu cầu dẫn độ và vật chứng, tái dẫn độ, dẫn độ
quá cảnh đến nước thứ ba. Riêng Hiệp định tương trợ tư pháp ký với Hung-
ga-ri còn có quy định về việc chuyển giao người bị kết án phạt tù cho nước
ký kết mà họ là công dân để thi hành hình phạt sau khi bản án đã có hiệu
lực pháp luật.
Điều 53 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia đinh
và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viột Nam và Liên bang
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết quy định:
1. Chiếu theo yêu cầu của nhau, các nước ký kết có trách
nhiệm căn cứ vào các điều kiện đã được Hiệp định này quy định,
dẫn độ những can phạm đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho
nước ký kết kia để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án.
19
2. Chỉ dẫn độ những người đã có những hành vi mà theo
pháp luật của cả hai nước ký kết là tội phạm bị phạt tù trên một
năm hoặc bị hình phạt nặng hơn. Việc dẫn độ để thi hành bản án
đã có hiệu lực pháp luật được áp dụng đối với những người phạm
tội trên bị phạt không dưới sáu tháng tù hoặc bị hình phạt nặng hơn.
Từ chối dẫn độ đều được quy định cụ thể trong các Hiệp định nói
trên. Điều 59 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự,
gia đình, lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa Cu Ba ký ngày 30-11-1984 quy định:
Sẽ không tiến hành dẫn độ, nếu:

1. Người bị dẫn độ là công dân của nước ký kết được yêu
cầu dẫn độ.
2. Tội phạm đã hoàn thành trên lãnh thổ của nước ký kết
được yêu cầu dẫn độ.
3. Theo pháp luật của nước ký kết được yêu cầu dẫn độ thì
không thể tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành
bản án vì lý do thời hiệu hoặc vì các lý do khác.
4. Người bị dẫn độ đã bị thi hành một bản án đã có hiệu
lực pháp luật trên lãnh thổ của nước ký kết được yêu cầu về cùng
tội phạm, hoặc việc tố tụng hình sự đã được đình chỉ.
5. Theo pháp luật của một hoặc hai nước ký kết,tội phạm
chỉ bị truy cứu trong phạm vi một nước ký kết.
Điều 61 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân
sự,gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa nhân dân Hung-ga-ri ký ngày 18-01-1985 đã quy định cụ
thể về vãn bản yêu cầu dẫn độ:
20
1. Văn bản yêu cầu dẫn độ chỉ rõ họ tên, quốc tịch, nơi
thường trú hay tạm trú của người phạm tội,tính chất của hành vi
phạm tội và thiệt hại đã gây ra.
2. Vãn bản yêu cầu dẫn độ phải kèm theo những giấy tờ
sau đây:
a) Nếu là yêu cầu dẫn độ để truy tố thì kèm theo một bản
chính lệnh bắt có mô tả hành vi phạm tội và nêu tội danh; nếu là
yêu cầu dẫn độ để thi hành hình phạt thì kèm theo một bản chính
của bản án đã có hiệu lực pháp luật.
b) Điều luật hình sự của nước ký kết yêu cầu quy định tội
danh của hành vi phạm tội.
c) Bản nhận dạng người có hành vi phạm tội và nếu có thể
được in bản in dấu vân tay và ảnh của người đó.

3. Đối với người bị xử phạt đã thi hành một phần hình
phạt thì cung cấp tài liệu về việc này.
Về chi phí dẫn độ, thực hiện theo nguyên tấc, nước nào yêu cầu dản
độ thì nước đó chịu mọi chi phí liên quan đến dãn độ.
T lì ứ liai, về việc tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các Hiệp định đều có quy định cụ thể về nghĩa VỊ1 truy cứu trách
nhiệm hình sự, nội dung yêu cầu tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điểu 74 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân
sự, gia đình, lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa Cu Ba quy định:
1. Mỗi nước ký kết, theo yêu cầu của nước ký kết kia sẽ
tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật nước mình
đối với công dân của mình bị tình nghi phạm tội trên lãnh thổ
nước ký kết kia, mà trong trường hợp khác có thể bị dẫn độ.
2. Vãn bản yêu cầu kèm theo bản mô tả các tình tiết thực
tế của tội phạm và tất cả những chứng cứ vẽ tội phạm đó. Nước
ký kết được yêu cầu có thể đề nghị bổ sung chứng cứ và nước ký
kết yêu cầu phải cung cấp những chứng cứ bổ sung.
3. Nước ký kết đã tiến hành tố lụng hình sự trên lãnh thổ
của nước mình sẽ thông báo cho nước ký kết về kết quả của việc
tố tụng hình sự đó. Trong trường hợp đã tuyên xử và bản án đã có
hiệu lực pháp luật thì sẽ gửi cho nhau bản sao của bản án đó.
Thứ bũ、về những vấn đề khác thuộc tương trợ pháp lý về hình sự.
Các hiệp định đều có quy định về những vấn đề khác thuộc tương
trợ pháp lý về hình sự như chuyển giao đổ vật liên quan đến vụ án, thông
báo các bản án và án tích, cách thức liên hệ.
Điều 72 Hiệp định tương trợ lư pháp và pháp lý về dân sự, gia đình
và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết quy định về việc chuyển giao đồ vật
liên quan đến vụ án như sau:

1. Các nước ký kết cam kết, thể theo yêu cầu của nhau,
chuyển giao cho nhau những đồ vật sau đây:
a) Những đồ vật hoặc trị giá của những đồ vật do phạm tội
mà có;
b) Những đồ vật có thể có ý nghĩa chứng cứ trong tố tụng
hình sự nếu việc dẫn độ không thực hiện được vì người phạm tội
chết, chạy trốn hoặc vì nguyên nhân khác thì những đồ vật đó vẫn
phải được chuyển giao.
2. Nếu những đồ vật phải chuyển giao lại cần thiết làm
chứng cứ cho tố tụng hình sự ở nước được yêu cầu, thì nước này
có thể tạm giữ những đồ vật cho đến khi tiến hành xong tố tụng.
22

×