Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Chế định miễn chấp hành hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 114 trang )



4

MỤC LỤC



Trang

TRANG PHỤ BÌA


Lời cam đoan


MỤC LỤC


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU


Chương 1: Một số vấn đề chung về chế định miễn chấp hành hình
phạt trong luật hình sự việt nam

1.1.
Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của miễn chấp hành hình
phạt



1.1.1.
Khái niệm miễn chấp hành hình phạt
7
1.1.2.
Các đặc điểm cơ bản của chế định miễn chấp hành hình
phạt
10
1.1.3.
Phân biệt miễn chấp hành hình phạt với miễn trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt
12
1.2.
Sơ lược sự hình thành và phát triển của các quy phạm về
miễn chấp hành hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam từ
năm 1945 cho đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999
19
1.2.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi có Bộ luật hình sự năm 1985
19
1.2.2.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
cho đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999
22
1.3.
Các quy định về miễn chấp hành hình phạt trong pháp luật
hình sự một số nước trong khu vực ASEAN
24



5
1.3.1.
Các quy định về chế định miễn chấp hành hình phạt trong
luật hình sự Thái Lan
25
1.3.2.
Các quy định về chế định miễn chấp hành hình phạt trong
luật hình sự Philíppin
28
1.3.3.
Các quy định về chế định miễn chấp hành hình phạt trong
luật hình sự Malaixia
30
1.3.4.
Các quy định về chế định miễn chấp hành hình phạt trong
luật hình sự Inđônêxia
32

Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự việt nam hiện hành về chế
định miễn chấp hành hình phạt và thực tiễn áp dụng
37
2.1.
Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chế
định miễn chấp hành hình phạt
37
2.1.1.
Các trường hợp miễn chấp hành hình phạt
37
2.1.1.1.

Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời
hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc
bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình
phạt
37
2.1.1.2.
Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được
đặc xá hoặc đại xá
42
2.1.1.3.
Đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn
chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều 61 của Bộ luật
này, nếu trong thời gian được hoãn đã lập công, thì theo đề
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết
định miễn chấp hành hình phạt
44
2.1.1.4.
Đối với người bị kết án phạt tù về tội ít nghiêm trọng đã
được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo quy định tại
Điều 62 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được tạm đình
48


6
chỉ mà đã lập công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại
2.1.1.5.

Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được
một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị
của chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt,
Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại
49
2.1.1.6.
Đối với người bị áp dụng hình phạt tiền
51
2.1.2.
Thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc áp dụng
chế định miễn chấp hành hình phạt
53
2.2.
Thực tiễn áp dụng chế định miễn chấp hành hình phạt
57
2.2.1.
Những kết quả đạt được và nguyên nhân
57
2.2.1.1.
Những kết quả đạt được
57
2.2.1.2.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được
71
2.2.2.
Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
74
2.2.2.1.
Những tồn tại, hạn chế
74

2.2.2.2.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
75

Chương 3: Những phƣơng hƣớng cơ bản và một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự việt nam về miễn chấp hành hình phạt
80
3.1.
Những phương hướng cơ bản
80
3.1.1.
Thực hiện nghiêm chỉnh chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước
82
3.1.2.
Thể hiện sự phân hóa trong xử lý tội phạm và người phạm tội
84
3.2.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn chấp hành hình phạt
86
3.2.1.
Hoàn thiện Bộ luật hình sự
86
3.2.2.
Các giải pháp khác
91



7

kết luận
100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
102


8
DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
bảng
Tên bảng



Trang
2.1
Số án phải giải quyết từ năm 2007 đến năm 2011
55
2.2
Số vụ án và bị cáo đưa ra xét xử từ năm 2007 đến năm
2011
55
2.3
Số bị cáo được miễn chấp hành hình phạt từ năm 2007
đến năm 2011 (không kể trường hợp đặc xá)

57
2.4
Số bị cáo được miễn chấp hành hình phạt do đặc xá
59
2.5
Miễn chấp hành hình phạt của một số địa phương
64




9
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Số án phải giải quyết từ năm 2007 đến năm 2011
58
2.2
Số vụ án và bị cáo đưa ra xét xử từ năm 2007 đến năm
2011
59
2.3
Số bị cáo được miễn chấp hành hình phạt từ năm 2007
đến năm 2011 (không kể trường hợp đặc xá)
61
2.4

Số bị cáo được miễn chấp hành hình phạt do đặc xá
62
2.5
Miễn chấp hành hình phạt của một số địa phương
67



10
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo qua hai mươi lăm năm đã thu được những thành tựu quan trọng. Nền kinh
tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đã phát triển với tốc độ khá cao. Chính trị -
xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững và ngày càng được tăng
cường, quan hệ đối ngoại ngày càng phát triển và đạt được những thành tựu
quan trọng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, các vấn đề xã hội
được quan tâm giải quyết. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển của các mặt trên
thì nhiều tệ nạn xã hội đã nảy sinh từ những tác động của mặt trái xã hội hiện
đại trong đó có tình trạng vi phạm pháp luật hoặc phạm tội, điều đó đòi hỏi
Nhà nước và xã hội phải quan tâm giải quyết.
Trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, hình phạt với tư
cách là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội có vai trò rất quan
trọng, đồng thời hình phạt mang lại những hiệu quả nhất định không những
trong việc trừng trị người phạm tội mà còn có ý nghĩa to lớn trong vấn đề cải
tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp
luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội
mới và đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và

chống tội phạm. Đây cũng là mục đích cơ bản của hình phạt được quy định tại
Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, không phải lúc nào hình phạt
cũng được đem ra để áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội
hoặc mỗi người phạm tội lúc nào cũng phải thực hiện toàn bộ hình phạt theo
như quyết định của Tòa án. Miễn chấp hành hình phạt thể hiện quan điểm
nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người
phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích


11
người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng tự giáo dục, cải tạo
nhanh chóng và tạo điều kiện cho họ sớm hòa nhập với cộng đồng, trở thành
người có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy những
quy phạm của chế định này còn nhiều bất cập, một số quy định chưa chặt chẽ
và thống nhất về nội dung, đặc biệt trong thực tiễn đời sống xã hội và thực
tiễn pháp lý đang tồn tại nhiều trường hợp có thể áp dụng chế định miễn chấp
hành hình phạt nhưng lại chưa được nhà làm luật Việt Nam ghi nhận và quy
định trong Bộ luật hình sự.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về
mặt khoa học những vấn đề về miễn chấp hành hình phạt và áp dụng các quy
định về miễn chấp hành hình phạt trong thực tiễn, đồng thời đưa ra những giải
pháp hoàn thiện để góp phần nâng cao hiệu quả của các quy định đã nêu
không những có ý nghĩa về cả mặt lý luận và thực tiễn, mà còn là vấn đề
mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc tác giả quyết định
lựa chọn đề tài "Chế định miễn chấp hành hình phạt trong Luật hình sự
Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một trong những chế định quan trọng, chế định miễn chấp hành
hình phạt có liên quan mật thiết và chặt chẽ đến chế định hình phạt và nhiều

chế định khác trong luật hình sự, chính vì vậy nó được ghi nhận trong pháp
luật hình sự ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, vấn đề miễn chấp hành
hình phạt mới chỉ được quy định một cách hết sức chung chung và chỉ một số
nước quy định miễn chấp hành hình phạt thành một chương riêng và coi đó là
một chế định quan trọng ngang tầm với các chế định khác như tội phạm và
hình phạt.
Còn ở nước ta, miễn chấp hành hình phạt cũng mới chỉ được quy
định trực tiếp hoặc gián tiếp tại một số điều luật riêng lẻ trong Bộ luật hình


12
sự, chưa được ghi nhận tại một chương riêng như các chế định khác về tội
phạm, hình phạt.
Chế định miễn chấp hành hình phạt được đề cập, phân tích trong một số
giáo trình và sách tham khảo như: 1) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; 2) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2001 và 2003 (tái bản lần thứ nhất); 3) Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam, Tập I, Tập thể tác giả do GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; 4) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), Tập thể tác giả do PGS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học
Huế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000; 5) Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Tập
thể tác giả do PGS. TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, 2001; 6) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 - Phần chung, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, của ThS. Đinh Văn Quế v.v Các bài nghiên
cứu trên đã nhận diện và làm sáng tỏ một số vấn đề về khái niệm, đặc trưng,
căn cứ áp dụng và thẩm quyền áp dụng chế định miễn chấp hành hình phạt
trong Bộ luật hình sự năm 1999 và có những đề xuất, giải pháp để ngày càng
hoàn thiện chế định trên, đảm bảo quan điểm trừng trị kết hợp với giáo dục
người phạm tội để họ sớm hòa nhập với cộng đồng, trở thành người có ích.

Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh chế định
miễn chấp hành hình phạt cũng đòi hỏi các nhà khoa học cần phải được tiếp
tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên khảo và sâu sắc hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Miễn chấp hành hình phạt là một chế định phức tạp, có nhiều nội dung
liên quan đến các chế định khác trong Bộ luật hình sự như: hình phạt, trách
nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; v.v Bởi vậy,
phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải quyết một số vấn đề
xung quanh chế định miễn chấp hành hình phạt như:


13
- Khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của miễn chấp
hành hình phạt;
- Lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về chế định miễn
chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam;
- Các quy định về miễn chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự
một số nước trên thế giới;
- Nội dung và điều kiện áp dụng những trường hợp miễn chấp hành
hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009)
hiện hành, kết hợp với thực tiễn áp dụng.
Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu nội dung cơ bản của chế định miễn
chấp hành hình phạt, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu chế định miễn
chấp hành hình phạt trên phương diện (khía cạnh) lập pháp và việc áp dụng
chế định này trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm
của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những
vấn đề về lập pháp, lý luận và thực tiễn đối với chế định miễn chấp hành hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó, dựa vào quan điểm và định

hướng của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách hình sự về đấu tranh phòng
chống tội phạm, cải tạo - giáo dục người phạm tội, luận văn làm sáng tỏ cơ sở
lý luận, nội dung đổi mới đối với chế định này từ yêu cầu thực tiễn của đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung
vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
1) Phân tích và xây dựng định nghĩa khoa học của khái niệm miễn chấp
hành hình phạt, nghiên cứu và phân tích các đặc điểm cơ bản của miễn chấp
hành hình phạt và so sánh nó với miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.


14
2) Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm về miễn
chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng những trường hợp miễn chấp
hành hình phạt theo các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi
bổ sung năm 2009) hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định này. Từ đây
phân tích một số tồn tại xung quanh việc quy định và áp dụng chế định miễn
chấp hành hình phạt.
4) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về miễn chấp hành hình phạt, những phương hướng cơ
bản của việc hoàn thiện và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định
miễn chấp hành hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ
sung năm 2009), đồng thời đưa ra mô hình lý luận với sự bổ sung một số
trường hợp miễn chấp hành hình phạt cần phải được nhà làm luật nước ta ghi
nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
hình sự; quan điểm, đường lối áp dụng đối với người phạm tội trước yêu cầu

đổi mới của đất nước.
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử,
tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận
văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả
đã làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của miễn chấp


15
hành hình phạt, nội dung và điều kiện áp dụng các trường hợp miễn chấp
hành hình phạt trên cơ sở xem xét những quy định của pháp luật hình sự hiện
hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định
này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
Đặc biệt, để góp phần nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự của
Nhà nước ta và để phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn xét xử và pháp luật
hình sự các nước, tác giả luận văn kiến nghị bổ sung những trường hợp có thể
áp dụng miễn chấp hành hình phạt chưa được nhà làm luật nước ta quy định
trong Bộ luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về chế định miễn chấp hành hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chế
định miễn chấp hành hình phạt và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Những phương hướng cơ bản và một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

miễn chấp hành hình phạt


16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH
MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA MIỄN CHẤP HÀNH
HÌNH PHẠT
1.1.1. Khái niệm miễn chấp hành hình phạt
Chế định miễn chấp hành hình phạt nằm trong hệ thống các chế định
về chấp hành hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam. Để hiểu khái niệm miễn
chấp hành hình phạt, cần phân tích và làm rõ các khái niệm "hình phạt", "chấp
hành", "miễn" từ góc độ Luật hình sự, trên cơ sở đó, phân tích, đưa ra những
đặc trưng thuộc về nội hàm khái niệm của chế định miễn chấp hành hình phạt.
Khái niệm "hình phạt", dưới góc độ luật hình sự là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do
Tòa án quyết định. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong
hệ thống các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Hình phạt được sử dụng
như công cụ hữu hiệu trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và để
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và các lợi ích của nhân dân. Ở mỗi
nước khác nhau vào các giai đoạn khác nhau thì mức độ trừng trị của hình
phạt khác nhau. Tùy thuộc vào nhiệm vụ của luật hình sự là nhằm bảo vệ lợi
ích của giai cấp nào thì hình phạt cũng thể hiện một phần bản chất của giai
cấp đó. Dưới chế độ bóc lột, việc quy định hình phạt cũng như áp dụng hình
phạt đối với người phạm tội là nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, đàn
áp và chống lại các lợi ích của nhân dân lao động. Dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, hình phạt là công cụ để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ

tập thể của nhân dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp


17
của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi
phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
chống mọi hành vi phạm tội. Như C.Mác và Ph.Ăng ghen đã khẳng định
"hình phạt không phải là cái gì khác ngoài phương tiện để tự bảo vệ mình của
xã hội chống lại sự vi phạm của các điều kiện tồn tại của nó". Đối với chế độ
xã hội ta, hình phạt bên cạnh mục đích trừng trị còn có mục đích giáo dục,
phòng ngừa và mang đầy đủ bản chất nhân đạo.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng có nhiều quan điểm khác
nhau về hình phạt. Theo GS.TSKH Lê Cảm: "hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người
bị kết án theo các quy định của Pháp luật hình sự" [3, tr. 675]; còn theo
PGS.TS Võ Khánh Vinh, "hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tòa án quyết
định trong bản án đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được
thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy
định đối với người bị kết án"; hoặc như quan điểm của PGS.TS Nguyễn Ngọc
Hòa và TS. Lê Thị Sơn "hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước được luật
hình sự quy định và do Tòa án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội nhằm trừng trị, giáo dục họ, cũng như
nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm"… Tiếp thu những quan điểm của các nhà khoa học, theo quan
điểm của tác giả, có thể hiểu hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Nhà nước
quy định trong Bộ luật hình sự nhằm mục đích trừng trị, giáo dục người thực
hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự đồng thời còn răn
đe, giáo dục người khác tôn trọng và chấp hành pháp luật.
Đối với khái niệm "chấp hành" theo Từ điển Tiếng Việt dùng để chỉ việc

"nắm giữ, chịu trách nhiệm sự điều hành, thi hành của đoàn thể" [42, tr. 217].
Tuy nhiên, dưới góc độ luật hình sự thì chấp hành là việc thi hành những
quyết định có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, những cá nhân bị


18
coi là có tội khi đã có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Trong bản án có
hiệu lực đó, người bị kết án phải có nghĩa vụ chấp hành toàn bộ quyết định
của bản án đã tuyên đối với mình.
Khái niệm "miễn" theo Từ điển Tiếng Việt là "tha, cho, khỏi" [42, tr. 729].
Dưới góc độ luật hình sự thì "miễn" là không phải chấp hành một quyết định
nào đó của cơ quan có thẩm quyền mà lẽ ra mình phải bị chấp hành.
Về khái niệm chung của chế định miễn chấp hành hình phạt cũng như
chế định về chấp hành hình phạt chưa được ghi nhận trong pháp luật hình sự
hiện hành cũng như trong khoa học luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay.
Có nhiều nhà nghiên cứu khoa học đưa ra những quan điểm khác nhau về
khái niệm này, theo GS.TSKH Lê Cảm:
Các chế định về chấp hành hình phạt là những biện pháp
cưỡng chế về thi hành án hình sự liên quan đến việc chấp hành hình
phạt phản ánh nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, cũng như luật
thi hành án hình sự Việt Nam và được áp dụng trong từng trường
hợp cụ thể tương ứng đối với người bị kết án khi có các căn cứ và
những điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy định [3, tr.789].
Đối với chế định miễn chấp hành hình phạt GS.TSKH Lê Cảm cho
rằng: "Miễn chấp hành hình phạt là hủy bỏ việc chấp hành biện pháp cưỡng
chế về hình sự nghiêm khắc nhất mà Tòa án đã tuyên trong bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án" [3, tr.790]; hoặc có những quan
điểm khác cho rằng "miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án
phải chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt đã tuyên" [38, tr. 295].
Về bản chất pháp lý của chế định miễn chấp hành hình phạt là chế

định nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam, điều này được thể hiện ở việc
Tòa án vẫn quyết định hình phạt đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực
hiện hành vi bị pháp luật hình sự cấm tuy nhiên không phải chấp hành toàn bộ
hình phạt theo bản án đã tuyên khi có đầy đủ các căn cứ cũng như những điều


19
kiện nhất định được quy định trong luật hình sự. Miễn chấp hành hình phạt
bao gồm miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc là miễn phần hình phạt còn
lại. Miễn chấp hành toàn bộ hình phạt là người bị kết án được miễn toàn bộ
hình phạt đó. Còn miễn phần hình phạt còn lại là người bị kết án đã chấp hành
được một phần của bản án, còn phần còn lại tùy theo những điều kiện nhất
định do pháp luật quy định mà người bị kết án được miễn phần hình phạt còn
lại.
Từ những phân tích trên đây, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những
điểm hợp lý trong các khái niệm về chế định miễn chấp hành hình phạt và
những vấn đề đã được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể rút ra
định nghĩa khoa học về chế định miễn chấp hành hình phạt như sau: miễn
chấp hành hình phạt là việc hủy bỏ toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt
đã được Tòa án tuyên có hiệu lực đối với người bị kết án".
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của chế định miễn chấp hành hình phạt
Từ những khái niệm được phân tích ở trên thì chế định miễn chấp
hành hình phạt thể hiện những đặc điểm chung giống với các đặc điểm của
chế định về chấp hành hình phạt nói chung, cụ thể như sau:
Đặc điểm thứ nhất: miễn chấp hành hình phạt phản ánh nguyên tắc
nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và của luật hình sự, cũng như luật
Thi hành án hình sự Việt Nam nói riêng.
Như đã khẳng định ở trên, chế định miễn chấp hành hình phạt cùng
với các chế định miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt … là một trong
những chế định nhân đạo nhất của luật hình sự Việt Nam. Chế định này thể

hiện rõ nét đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý người phạm
tội; bên cạnh việc trừng trị người phạm tội còn giáo dục, tạo điều kiện tốt nhất
để người phạm tội cải tạo tốt và quay trở lại hòa nhập với cộng đồng. Chế
định trên thể hiện được bản chất nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với


20
người phạm tội vì thế qua thực tế chế định này ngày càng được mở rộng hơn
trước.
Đặc điểm thứ hai: chúng đều chỉ có thể được áp dụng đối với người bị
kết án trong mỗi trường hợp cụ thể tương ứng.
Tất cả các trường hợp miễn chấp hành hình phạt được quy định trong
Bộ luật hình sự đều được áp dụng đối với những người đã có bản án kết tội có
hiệu lực của pháp luật. Ngay trong nội hàm khái niệm "miễn chấp hành hình
phạt" đã thể hiện là được miễn phần hình phạt lẽ ra phải chấp hành, điều này
có thể suy ra người phạm tội lẽ ra phải chấp hành bản án kết tội đã có hiệu lực
nhưng căn cứ vào những điều kiện nhất định mà pháp luật quy định thì người
phạm tội có thể được miễn chấp hành phần quyết định đó. Ở đây có hai
trường hợp có thể được miễn chấp hành hình phạt là có thể được miễn chấp
hành hình phạt đối với những người đã thi hành được một phần bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật hoặc có thể áp dụng đối với những người chưa
thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Đặc điểm thứ ba: chúng không thể được áp dụng một cách tùy tiện mà
chỉ có thể được áp dụng khi có các căn cứ và những điều kiện nhất định do
pháp luật hình sự quy định" [3, tr. 790].
Không chỉ chế định miễn chấp hành hình phạt mới có điều kiện để áp
dụng mà tất cả các chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam đều có
những điều kiện riêng để áp dụng. Những điều kiện áp dụng đối với từng chế
định còn thể hiện sự phân hóa trong việc xử lý tội phạm và người phạm tội.
Điều này thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật đối với người phạm tội,

bên cạnh mục đích trừng trị còn có mục đích giáo dục, ngăn ngừa và cải tạo
người phạm tội. Bên cạnh đó, những điều kiện nhất định để áp dụng chế định
này không chỉ là là chuẩn chung để khuyến khích người phạm tội cố gắng cải
tạo tốt để sớm được hưởng chính sách khoan hồng của nhà nước mà còn tránh
được việc áp dụng tùy tiện chính sách nhân đạo của pháp luật.


21
Ngoài các đặc điểm chung giống như các chế định khác của chấp hành
hình phạt, chế định miễn chấp hành hình phạt còn có đặc điểm riêng nhất
định, cụ thể như sau:
Miễn chấp hành hình phạt được áp dụng đối với những người đã bị
Tòa án xử phạt bằng một trong những hình phạt được quy định trong Bộ luật
hình sự.
Đặc điểm này thể hiện người được áp dụng chế định miễn chấp hành
hình phạt phải là người đã bị bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
và trong quyết định của bản án đó, người bị kết án phải thực thi hình phạt
chính và hình phạt bổ sung được nêu trong phần quyết định của bản án.
Người bị kết án có thể đã đi chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình
phạt và căn cứ vào những điều kiện tương ứng theo quy định của pháp luật
mà được hưởng chế định miễn chấp hành hình phạt.
1.1.3. Phân biệt miễn chấp hành hình phạt với miễn trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt
Việc nghiên cứu chế định miễn chấp hành hình phạt, miễn trách nhiệm
hình sự và miễn hình phạt trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền có
ý nghĩa rất quan trọng bởi lẽ đây là những chế định quan trọng trong luật hình
sự thể hiện rõ nét nhất chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà
nước đối với người phạm tội, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc
tội, cải tạo tốt để nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng. Hơn nữa việc nghiên
cứu về mặt lý luận chế định miễn chấp hành hình phạt và phân biệt với chế

định miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt là yêu cầu cần thiết của việc
phân hóa và xử lý người phạm tội.
Miễn chấp hành hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình
phạt đều là những chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam, về cơ bản
chúng có những đặc điểm chung như sau:


22
Một là, đều thuộc hệ thống các biện pháp tha miễn trong luật hình sự
Việt Nam thể hiện được chính sách nhân đạo trong chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước.
Hai là, chỉ áp dụng đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện
hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự
Ba là, chỉ có thể áp dụng các chế định này khi có đầy đủ các căn cứ
pháp lý và những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định
Bên cạnh những điểm chung nói trên, chế định miễn chấp hành hình
phạt có những điểm khác biệt căn bản so với chế định miễn hình phạt hay
miễn trách nhiệm hình sự.
a) Phân biệt miễn chấp hành hình phạt với miễn trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự là việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là
có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó. Còn miễn chấp hành hình phạt là hủy
bỏ việc chấp hành các biện pháp cưỡng chế về hình sự đối với quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án được áp dụng đối với người thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật hình sự. Do đó giữa hai chế định này có những điểm
khác nhau căn bản, cụ thể như sau:
Một là, về các trường hợp (dạng) được quy định trong pháp luật hình
sự Việt Nam hiện hành: Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 9 trường hợp
miễn trách nhiệm hình sự, 05 trường hợp trong phần chung (Điều 19, Điều
25, khoản 2 Điều 69) và bốn trong Phần riêng (khoản 3 Điều 80, đoạn 2

khoản 6 Điều 289, khoản 6 Điều 290 và khoản 3 Điều 314). Còn đối với
trường hợp miễn chấp hành hình phạt thì có 6 trường hợp - 5 trường hợp được
quy định tại Điều 57 Bộ luật hình sự và 1 trường hợp được quy định tại khoản
2 Điều 58 Bộ luật hình sự (miễn chấp hành hình phạt tiền).


23
Hai là, về điều kiện áp dụng, điều kiện để được áp dụng chế định
miễn trách nhiệm hình sự được quy định khắt khe hơn so với điều kiện áp
dụng chế định miễn chấp hành hình phạt; hành vi phạm tội của người được
miễn trách nhiệm hình sự thường ít nguy hiểm hơn so với người được miễn
chấp hành hình phạt.
Ba là, về hậu quả pháp lý của việc áp dụng: với khái niệm trên có thể
thấy được hậu quả pháp lý của việc áp dụng chế định miễn chấp hành hình
phạt và miễn trách nhiệm hình sự là khác nhau; nếu như người được miễn
trách nhiệm hình sự đương nhiên không phải chịu hậu quả pháp lý hình sự bất
lợi của việc phạm tội do mình thực hiện như không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự
khác, không bị coi là có án tích và không bị coi là có tội Theo hướng dẫn tại
Nghị quyết 02/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 Hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật hình sự thì Tòa án chỉ có thể quyết định về việc bồi thường
cho người bị hại và giải quyết tang vật; trong khi đó người được miễn chấp
hành hình phạt vẫn phải chịu hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc thực
hiện hành vi phạm tội như vẫn bị coi là có án tích (chỉ được xóa án tích theo
quy định tại Điều 64 đến Điều 67 Bộ luật hình sự) và vẫn có thể bị áp dụng
biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ luật hình sự quy định tại Điều 41
đến Điều 43 Bộ luật hình sự.
Bốn là, về chủ thể có thẩm quyền áp dụng và đối tượng được áp dụng:
đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự thì bất kỳ cơ quan tư pháp có
thẩm quyền áp dụng đối với tất cả những người phạm tội nói chung căn cứ

vào giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể tương ứng (cụ thể là Tòa án, Viện kiểm
sát, Cơ quan điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát); còn đối với trường
hợp miễn chấp hành hình phạt thì trong trường hợp đặc xá hoặc đại xá thì có
quyết định của Chủ tịch nước còn trong các trường hợp khác thì theo đề nghị


24
của Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình
phạt.
b) Phân biệt miễn chấp hành hình phạt với miễn hình phạt
Miễn hình phạt là việc Tòa án hủy bỏ hình phạt trong bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi
phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện được quy định trong Bộ luật hình sự;
còn miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành
hình phạt mà tòa án đã tuyên áp dụng đối với họ. Theo đó, miễn chấp hành
hình phạt và miễn hình phạt có những điểm khác nhau căn bản, cụ thể như
sau:
Một là, về các trường hợp (dạng) được quy định trong pháp luật hình
sự Việt Nam hiện hành: Miễn hình phạt được quy định gồm hai trường hợp
một trong phần chung (Điều 54 Bộ luật hình sự) và một trong phần riêng
(khoản 3 Điều 314 Bộ luật hình sự) còn miễn chấp hành hình phạt được quy
định gồm 6 trường hợp - 5 trường hợp được quy định tại Điều 57 Bộ luật hình
sự và 1 trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 58 (miễn chấp hành hình
phạt tiền).
Hai là, người được miễn hình phạt không phải chịu hậu quả pháp lý
bất lợi của việc phạm tội hoặc của quyết định hình phạt, người được miễn
hình phạt đương nhiên được xóa án tích và chỉ có thể áp dụng các biện pháp
tư pháp được quy định trong pháp luật hình sự quy định tại Điều 41 đến Điều
43 Bộ luật hình sự. Còn người được miễn chấp hành hình phạt vẫn bị coi là có
án tích và chỉ được xóa án tích theo quy định tại Điều 64 đến Điều 67 Bộ luật

hình sự và vẫn có thể bị áp dụng biện pháp tư pháp được quy định trong pháp
luật hình sự quy định tại Điều 41 đến Điều 43 Bộ luật hình sự. Điều này thể
hiện được sự phân hóa trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước; cùng
là chính sách nhân đạo áp dụng đối với người phạm tội nhưng nhìn vào hậu


25
quả pháp lý của việc áp dụng hai chế định trên thì chế định miễn hình phạt là
có lợi hơn đối với người phạm tội so với được áp dụng chế định miễn chấp
hành hình phạt.
Ba là, về điều kiện áp dụng: xuất phát từ việc áp dụng chế định miễn
hình phạt có lợi hơn so với chế định miễn chấp hành hình phạt nên điều kiện
để được áp dụng chế định này cũng chặt chẽ và khắt khe hơn so với chế định
miễn chấp hành hình phạt. Những người được miễn hình phạt thông thường
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của họ không nguy hiểm
bằng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của những người
được miễn chấp hành hình phạt; tương tự như thế thì nhân thân của những
người được miễn hình phạt cũng tốt hơn so với người được miễn chấp hành
hình phạt.
Bốn là, về chủ thể có thẩm quyền áp dụng và đối tượng được áp dụng:
đối với chế định miễn hình phạt thì chủ thể có thẩm quyền áp dụng chỉ có Tòa
án xét xử vụ án hình sự cụ thể tương ứng mới có thẩm quyền áp dụng và chỉ
đối với người bị kết án nói riêng trên cơ sở bản án kết tội đã có hiệu lực pháp
luật. Còn đối với chế định miễn chấp hành hình phạt thì trong trường hợp đặc
xá hoặc đại xá thì có quyết định của Chủ tịch nước còn trong các trường hợp
khác thì theo đề nghị của Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp
hành toàn bộ hình phạt. Theo đó, chủ thể có thẩm quyền áp dụng chế định
miễn chấp hành hình phạt được quy định rộng hơn so với chủ thể có thẩm
quyền áp dụng chế định miễn hình phạt. Về đối tượng áp dụng: miễn chấp
hành hình phạt được áp dụng đối với những người đã bị kết án và đã bị Tòa

án xử phạt còn miễn hình phạt là không áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội khi có những điều kiện cụ thể nhất định. Điều đó cũng thể hiện rõ
nét quan điểm của các nhà làm luật về chính sách phân hóa tội phạm trong
việc xây dựng hệ thống pháp luật hình sự nói chung và chế định miễn chấp
hành hình phạt nói riêng.


26
Mặc dù chế định miễn chấp hành hình phạt và miễn hình phạt được
các nhà làm luật quy định khá rõ nét, tuy nhiên việc áp dụng chế định này trên
thực tế còn tồn tại một số trường hợp Tòa án "nhầm lẫn" khái niệm miễn chấp
hành hình phạt và miễn hình phạt.
Ví dụ: Trần Thị Tĩnh và Phạm Thế Văn cùng nhau chung vốn sản xuất
rượu tại thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây từ năm 1996. Do sản xuất thua lỗ, Tĩnh
và Văn đã rủ Phạm Thị Thủy, Bùi Thị Hương và Nguyễn Đình Công đưa phụ
nữ xuất cảnh trái phép qua biên giới. Văn và Tĩnh lợi dụng cơ sở sản xuất
rượu để đi nhiều địa bàn, thông qua các mối quan hệ từ trước với danh nghĩa
để tuyển người lao động rửa chai lọ, sản xuất rượu, bánh kẹo… trả lương cao
để lừa các phụ nữ rồi cùng Phạm Thị Thủy, Bùi Thị Hương bán cho Nguyễn
Đình Công ở thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh và một số đối tượng khác ở
Trung Quốc. Từ tháng 3-1998 đến tháng 9-1998, bọn chúng đã 07 lần đưa
phụ nữ và trẻ em bán sang Trung Quốc. Trong đó, Văn và Tĩnh tham gia cả
07 lần, Công 03 lần và Hương 02 lần.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 300 ngày 22-12-1999, Tòa án nhân dân
tỉnh Hà Tây kết án Phạm Thế Văn về các tội "mua bán phụ nữ", "mua bán trẻ
em" và tội "xuất nhập cảnh trái phép"; kết án Trần Thị Tĩnh về các tội "mua bán
phụ nữ", "mua bán trẻ em", "xuất nhập cảnh trái phép"; kết án Nguyễn Đình
Công về các tội "mua bán phụ nữ" và tội "xuất nhập cảnh trái phép"; kết án
Bùi Thị Hương về các tội "mua bán phụ nữ" và tội "xuất nhập cảnh trái phép".
Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo Phạm Thế Văn, Nguyễn Đình Công,

Bùi Thị Hương, Trần Thị Tĩnh đều kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên
tòa phúc thẩm bị cáo Trần Thị Tĩnh rút kháng cáo.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 965 ngày 29-5-2000, Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội giữ nguyên quyết định của bản án sơ
thẩm.


27
Tại Quyết định kháng nghị số 09/QĐ-VKSTC-V3 ngày 26-4-2006,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị một phần bản án hình
sự phúc thẩm số 965 ngày 29-5-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội về tội "xuất nhập cảnh trái phép" đối với các bị cáo Phạm Thế
Văn, Nguyễn Đình Công, Bùi Thị Hương.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 14/2006/HS-GĐT ngày 03-7-2006,
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án hình sự phúc thẩm
số 965 ngày 19-5-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội
để xét xử phúc thẩm lại theo hướng miễn hình phạt cho bị cáo Trần Thị Tĩnh
với lý do: khi xét xử phúc thẩm vụ án (ngày 29-5-2000), thì trước đó ngày 04-
1-2000 Bộ luật hình sự năm 1999 đã công bố theo quy định tại điểm c mục 3
Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội về việc thi hành
Bộ luật hình sự, thì kể từ ngày Bộ luật hình sự được công bố không xử lý hình
sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là
tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm; nếu
vụ án đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ. Theo quy định tại Điều
274 Bộ luật hình sự thì Phạm Thế Văn, Nguyễn Đình Công và Bùi Thị Hương
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội "Xuất nhập cảnh trái phép" vì lúc
đó các bị cáo chưa bị xử phạt hành chính về tội này nên hành vi của các bị cáo
không cấu thành tội phạm. Đối với Trần Thị Tĩnh, sau khi xét xử sơ thẩm,
Trần Thị Tĩnh kháng cáo xin giảm hình phạt nên tại phiên tòa phúc thẩm bị
cáo đã rút đơn kháng cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm đã đình chỉ xét xử phúc

thẩm, bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực đối với bị cáo Tĩnh. Bị cáo Trần Thị
Tĩnh bị kết án về tội "xuất nhập cảnh trái phép" trước ngày Bộ luật hình sự
được công bố (04-01-2000), do vậy theo quy định tại điểm a Mục 4 Nghị
quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-01-2000 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa X thì trong trường hợp này sẽ xem xét miễn hình phạt đối với
Trần Thị Tĩnh.


28
Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 229/2000/NQ-
UBTVQH10 ngày 28-01-2000 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X về
việc triển khai thực hiện mục 3 Nghị quyết của Quốc hội về "việc thi hành Bộ
luật hình sự" thì trong trường hợp một người đã bị tuyên về hình phạt về một
tội phạm trước khi công bố Bộ luật hình sự 1999 mà Bộ luật hình sự trước
đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là
tội phạm thì sẽ được miễn chấp hành hình phạt. Như vậy, căn cứ theo quy
định trên thì trong vụ án trên, Trần Thị Tĩnh phải được miễn chấp hành hình
phạt chứ không phải miễn hình phạt như quyết định của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
Nhìn chung cả ba chế định miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
và miễn chấp hành hình phạt đều là những chế định thể hiện nguyên tắc nhân
đạo trong chính sách hình sự nói chung. Cả ba chế định trên đều được áp
dụng khi có đầy đủ những điều kiện và căn cứ pháp lý nhất định được quy
định trong Bộ luật hình sự; thể hiện được chính sách phân hóa tội phạm và
đường lối đúng đắn trong xử lý hình sự đảm bảo sự kết hợp giữa các biện
pháp cưỡng chế của nhà nước với các biện pháp tác động xã hội khác nhằm
mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội và tạo điều kiện để họ tái hòa nhập
với cộng đồng trở thành người có ích cho xã hội. Việc áp dụng một cách
chính xác các chế định nói trên là yêu cầu cấp thiết trong việc nâng cao năng
lực của các cán bộ tư pháp và hoàn thiện khoa học luật hình sự.

1.2. SƠ LƢỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY
PHẠM VỀ MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM TỪ NĂM 1945 CHO ĐẾN TRƢỚC KHI CÓ BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến
trƣớc khi có Bộ luật hình sự năm 1985
Xã hội Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc duy trì sự bất bình đẳng giữa
người với người thuộc các giai cấp khác nhau, chỉ đến khi Việt Nam giành

×